Bí mật một gia tài - Chương 11-12

Chương 11
Thời gian dưỡng bệnh của Annet có những tiến bộ nhanh. Tuy nhiên Fêlixitê vẫn chưa được miễn nhiệm vụ trong nom bệnh nhân. Con bé vốn hiền dịu và chịu đựng, lúc này dễ dàng cáu gắt, hốt hoảng mỗi khi cô gái rời căn buồng. Bà nghị không còn cách nào khác là yêu cầu Fêlixitê ở lại với đứa bé cho đến khi nó bình phục hẳn. Chắc chắn là người goá phụ trẻ làm việc ấy mà lòng nhẹ nhàng vì giáo sư gần như không dừng lại phòng bệnh nhân. Sáng nào anh cũng đến khám cho con bé, nhưng việc khám bệnh không kéo dài quá ba phút. Thỉnh thoảng anh bế con bé lên tay và đi lại trong sân trước đầy ánh sáng. Bình thường, ít ai thấy anh ở nhà. Hình như anh đột nhiên ham thích khu vườn thực sự; buổi sáng anh không làm việc ở phòng mình nữa. Ai muốn gặp anh đều được bảo ra vườn. Điều lạ lùng là bà Hêluy chiều theo “sự nghiện ngập” này, bà gọi sự thay đổi ấy như thế, và thu xếp để các bữa chính đều ăn trong nhà mái, làm cho bà nghị vô cùng hài lòng. Vì vậy ngôi nhà cổ của các thương nhân càng lặng lẽ hơn bao giờ hết; người ta chỉ trở về vào lúc mười giờ tối. Cũng có khi giáo sư về một mình và về sớm hơn. Khi Fêlixitê nghe tiếng chân anh chậm rãi bước lên cầu thang. Đến tầng một anh như vô thức đi mấy bước về phía phòng bệnh nhân, rồi dừng lại ở cầu thang như suy nghĩ và sau đó rảo bước đi lên tầng hai. Những buổi tối ấy, anh không chúi đầu vào sách vở. Anh đi đi lại lại hàng giờ. Những bước đi ấy làm cho Fêlixitê bứt rứt. Cô liên hệ chúng với lời bộc lộ tối hôm trước. 
Annet thường ngủ vào lúc tám giờ tối. Lúc này Rôda thay Fêlixitê bên giường bệnh nhân và cũng là giờ Fêlixitê được tự do. Cô lên tầng xép. Tình trạng suy nhược thân thể và cảm thấy chết chóc của bà cô Coocđula đã qua khỏi một cách may mắn; bà cụ vui vẻ hơn trước và trò chuyện về thời gian sắp tới bà sẽ có Fêlixitê ở hẳn bên bà với niềm vui sướng của trẻ thơ. Bà có thói quen đợi Fêlixitê cùng ăn bữa phụ buổi tối. Thế là chiếc bàn trà bày biện cẩn thận được đặt ra hiên món bánh ngọt Fêlixitê ưa thích luôn được dành cho cô gái và một tập dày các nhật báo vừa nhận được đã chờ cô gái đọc cho người che chở của mình. Trong những giờ sung sướng ấy, đáng tiếc là quá ngắn, tan biến hết những gì đè nén và giày vò trái tim Fêlixitê. Không bao giờ cô nói đến những cuộc gặp gỡ trong ngôi nhà phía trước, trung thành với thói quen của bà, bà cụ không gợi cho cô kể lại bất cứ điều gì về vấn đề ấy, những băn khoăn nhất thời trong nội tâm của Fêlixitê lùi lại phía sau, những băn khoăn ấy bí ẩn ngay cả với cô. 
Một buổi chiều nắng Fêlixitê ngồi một mình với Annet; cả ngôi nhà lặng lẽ một cách buồn tẻ. Bà Hêluy và bà nghị đi thăm người quen và giáo sư có lẽ ở ngoài vườn, vì không có dấu hiệu gì tỏ ra có người ở tầng hai... Con bé chơi đã lâu, nó mệt nằm dài ra và nói: 
- Hát cho em nghe đi Carôlin! 
Con bé cực kỳ thích nghe Carôlin hát. Cô gái có giọng nữ trung. Nhờ sự hiểu biết hiếm có về âm nhạc và sự phát triển tuyệt vời tài năng của bà cô được đào tạo đặc biệt, bà cô đã luyện cho thứ giọng quý kia thật hoàn hảo. Fêlixitê diễn đạt thành công nhất những ca khúc ngắn của Đức một cách thực sự cổ điển... Cô đã nhận xét thấy con bé luôn dịu cơn bứt rứt khi cô bắt đầu những giai điệu thanh thoát bằng giọng hát thật êm dịu; sau đó cô mới cất cao giọng tất nhiên trừ khi nào cô biết có những cái tai ác cảm ở gần đấy. 
“Ôi, cỏ cây mới nhú xanh, cỏ của mùa xuân”, bài ca kỳ diệu của Suman lúc này ngân vang trong sự lặng lẽ của căn phòng với cách diễn tả thanh khiết mà chỉ một cô gái tâm hồn trong sáng mới đạt được. Fêlixitê hát câu đầu thật êm ái rồi vừa giản dị vừa dè dặt, giọng cô vút lên như tiếng đại phong cầm: 
“Con quỷ bí mật nào đã lôi kéo ta xa rời thế giới này. Nỗi thống khổ của ta...” 
Ngay lúc ấy, ở tầng trên, trong phòng giáo sư, một chiếc ghế không phải bị đẩy mà bị ném ra xa... Có tiếng chân chạy nhanh ra cửa và tiếng chuông giật mạnh, lanh lảnh, như tiếng cấp báo, bỗng vang lên trong ngôi nhà vắng vẻ. Đây là lần đầu tiên dây chuông trong phòng giáo sư được kéo. Vêrônic thở hổn hển bước lên. Fêlixitê hốt hoảng im bặt. Giây lát sau, bác bếp già nặng nề bước xuống và vào phòng bệnh nhân: 
- Giáo sư bảo cô không được hát nữa, cậu ấy không làm việc được. Mặt cậu ấy tái đi, giận đến nghẹn họng. À, và cô phải đưa đứa bé ra sân, cho nó ngồi xe đi chơi. 
Fêlixitê giấu bộ mặt nóng bừng vào hai bàn tay. Cô như vừa bị một cái tát! Cô cảm thấy nhục nhã quá! Dù dũng cảm đến mấy trong lúc bảo vệ những điều cô tin chắc và ném thẳng sự thật vào mặt đối phương không che đậy, cô vẫn sợ hãi giấu kín tài năng và kiến thức của mình. Chỉ nghĩ rằng giọng hát của mình có thể lọt vào tai người xa lạ, cô đã như nghẹn cổ nhưng làm phiền ai bằng giọng hát của mình, đó là điều cô không thể tưởng tượng được. Thế mà bây giờ điều ấy đã đến thực sự rồi; người ta tưởng cô muốn thu hút sự chú ý, người ta vừa trừng phạt và sỉ nhục cô không nể nang! Những sự bất công thô bạo nhất, mà các ngược đãi của bà Hêluy chưa bao giờ có thể làm cho cô chảy nước mắt, lúc này cô khóc nức nở. 
Mười lăm phút sau, Fêlixitê đẩy chiếc xe trẻ em đi trong sân, chậm rãi và thận trọng. Hai má đỏ bừng của cô dịu dần trong không khí mát lạnh nhưng bất lực không xoá nổi vẻ suy tư trên vầng trán không còn đỏ nữa. 
Không bao lâu bà Hêluy trở về cùng với bà nghị. Ngay lúc ấy giáo sư từ trên gác bước xuống, anh sắp đi vì một tay anh cầm mũ, một tay cầm can. Cả ba người bước vào sân. 
Bước vào sau họ là người đàn bà nhỏ trong phố, Fêlixitê đã gặp trước kia ở phòng làm việc của bác sĩ. Hình như bà ta ôm một bọc to trong áo khoác, bà ta đến gần giáo sư, điệu bộ rất cung kính. 
- Thưa giáo sư, cháu Guyôm nhà tôi đã nhìn thấy rồi, cháu nhìn rõ cũng như tôi nhìn vậy, – bà ta nói giọng run run, nước mắt chảy ròng ròng. – Nào ai ngờ được như thế! Trước kia cháu khổ biết chừng nào, và chúng tôi cũng khổ như nó! Bây giờ nó lại tự mình kiếm sống được rồi, thế là tôi có thể chết cũng yên tâm, vì tôi không để lại một đứa con mù loà không người giúp đỡ... Ôi, thưa giáo sư tất cả kho tàng trên thế giới này cũng không đủ để đền ơn ông! Nhưng chúng tôi nghèo lắm, nghèo quá, chúng tôi không dám nghĩ đến việc đền đáp công ơn ông đã mang lại cho chúng tôi... Xin ông đừng giận, ông giáo sư, tôi nghĩ ít ra cũng phải có một tý gì... 
- Bà muốn gì thế? – giáo sư thốt lên gay gắt và lùi lại một bước. 
Trong khi nói mấy lời cuối, bà ta vén vạt áo khoác lên: một cuộn vải lộ ra. 
- Đây là một tấm vải, không mịn nhưng bền, tôi tự kéo sợi... Nếu bà Hêluy chiếu cố dùng làm khăn giường... 
Giáo sư gắt lên: 
- Bà điên đấy ư, bà tưởng có nhiệm vụ cung cấp vải cho chúng tôi hay sao?... Bà đem cái của ấy về đi cho tôi nhờ, và bà về đi! 
Người đàn bà ngượng ngùng đứng im trước mặt anh. 
- Bà có thể loại bỏ việc này, bà Gôchiô ạ! – anh nói tiếp, giọng nhẹ nhàng hơn. – Tôi đã nói lại với bà rằng tôi không chấp nhận như thế... Còn bây giờ thì bà về đi, bà bảo với con bà tôi gửi lời chào, ngày mai tôi sẽ còn đến thăm anh ta một lần nữa. 
Anh chìa tay cho bà ta và kéo vạt áo khoác phủ lên tấm vải. Người đàn bà cúi chào rồi đi ra, mắt nhìn xuống. 
Bà Hêluy và bà nghị là những người lặng lẽ chứng kiến cảnh này. Nét mặt của bà Hêluy lộ rõ vẻ phản đối nghiêm khắc, có lúc bà đã định can thiệp. 
- Mẹ không hiểu được con, Giôhanex, – bà nói giọng trách móc sau khi người đàn bà kia đi khỏi. – Khi nghĩ đến việc học của con tốn kém ra sao mẹ không biết vì lẽ gì con lại từ chối sự đền bù, dù như thế nào đi nữa. Nếu điều ấy tùy thuộc mẹ, người kia sẽ để tấm vải lại đây. Không ai vứt qua cửa sổ thứ vải tốt ấy mà không biết phải trái gì cả! 
- Bác ơi, thế thì chắc cháu sẽ không được hoan nghênh với những ý nghĩ từ thiện đã đến với cháu! – bà nghị nói giọng bông đùa. – Anh Giôhanex, anh có hình dung được không, – bà nghị nói tiếp, trịnh trọng hơn, – sáng hôm nay chúng tôi đã nghe nói đến một gia đình cùng khổ nhưng lương thiện, mấy đứa bé tội nghiệp không có đến cả áo lót mặc bên trong đồ rách rưới của chúng nữa, em buồn quá, bác và em đã nghĩ đến việc đi quyên tiền. Nếu anh nhận tấm vải kia thì em đã đến gặp anh để xin rồi, dù thế nào thì anh cũng phải cho em, vải ấy sẽ may được bao niêu sơ mi cho lũ trẻ, em sẽ tự tay mình khâu lấy... 
- Ôi, lòng nhân ái của người ngoan đạo mới sâu sắc làm sao chứ! – Giáo sư kêu lên và cười gằn. – Phải lấy đến đồng tiền cuối cùng của một gia đình bần cùng để giúp đỡ cho những kẻ cùng quẫn khác, và bên trên cái việc làm đầy tình thương ấy, người trung gian độ lượng đứng lồng lộng chỉ cho đang day dứt thấy vòng hào quang của lòng từ thiện của phụ nữ chung quanh những búp tóc vàng hoe. 
- Anh ác lắm! – Bà góa trẻ phật ý nói. – Em muốn thấy... 
- Nhưng vịêc ấy không được tốn của cô một đồng xu nào, phải không Ađen? – Anh châm biếm nói. – Tại sao bà nội trợ từ thiện không rút từ trong tủ đầy ắp vải của mình ra nhỉ? 
- Không được, anh đùa đấy à! – Bà nghị phản đối. 
Giáo sư quay về phía mẹ: 
- Mẹ vừa trách con không làm cho kết quả của việc học hành tốn kém có giá trị như cần thiết... Con có thể đảm bảo với mẹ rằng con là người thực tiễn và coi như con người phải có nhiệm vụ làm việc tốt, nhưng bên cạnh việc đó con còn nghĩ cao hơn về nghề nghiệp của con, nghề này có phạm vi hoạt động rộng hơn mọi hoạt động khác – không loại trừ phạm vi của tôn giáo – trong lĩnh vực nhân ái rộng lớn đối với con người. Côn sẽ không bao giờ là người thầy thuốc một mặt giúp cho người bệnh bần cùng thoát khỏi giường bệnh, mặt khác lại đẩy họ ngập trong lo âu vì phải trả tiền cho sự giúp đỡ kia. 
Cho đến bấy giờ anh không để ý đến sự có mặt của Fêlixitê. Đến lúc ấy anh vẫn còn đưa mắt nhìn cô một cách vô thức, nhưng cái nhìn này đã không rời bộ mặt rạng rỡ vì sự hài lòng trong nội tâm, mắt họ gặp nhau lần đầu tiên với vẻ hài hoà trong ý nghĩ, thì ra chỉ trong khoảnh khắc của một ánh chớp; cô gái hoảng hốt nhìn xuống, và giáo sư ấn mạnh mũ xuống trán bằng một cử chỉ bực bội, làm cho bộ mặt đỏ gay của anh bị khuất một nửa dưới vành mũ rộng.
- Tùy ý con thôi, Giôhanex, đấy là việc của con, – bà Hêluy lạnh lùng nói. – Nếu ông con còn sống chắc không chấp nhận cách nhìn này; hành nghề thầy thuốc là việc riêng của con, nhưng trong công việc, cụ thường nói, không nên dung nạp những tình cảm nhỏ mọn. 
Bà hầm hầm di chuyển thân hình đồ sộ của mình ra phía cửa sân. Bà nghị theo bên cạnh giáo sư. Đến phòng trước nhà, anh quay đầu về phía sân một lần nữa, Fêlixitê đã nhấc Annet ra khỏi xe để bế nó trên tay đi dạo chơi theo yêu cầu của nó. Có thể tưởng rằng thân hình mảnh khảnh của cô gái sẽ gãy gục lúc con bé quàng tay ôm cổ cô với tất cả trọng lượng của nó. Giáo sư trở lại sân ngay. 
- Tôi đã nhiều lần cấm cô không được bế con bé này... nó nặng quá mức với sức cô! – Anh nói – Vêrônic không dặn cô gọi Hăngri giúp ư? 
- Bà ấy quên và bác Hăngri không có nhà. 
Giáo sư nhấc nó khỏi tay cô đặt lại vào xe và mắng nó. Nét mặt anh nghiêm khắc và u ám hơn bao giờ hết; nếu lúc khác, Fêlixitê đã quay lưng đi rồi, nhưng hôm nay cô đã gây ra sự bực bội này, vì tiếng hát của cô, cô đã làm ngắt quãng các suy tư sâu sắc và quan trọng của người thầy thuốc và có lẽ làm mất đi một tia sáng mới đang hình thành. Bằng bất cứ giá nào, dù anh có bực bội như thế nào, cô cũng phải giải thoát được sự nặng nề đang đè nén cô, và anh cần biết rằng cô mắc lỗi vì vô tình. Thời cơ thuận lợi, hơn nữa cô lại không phải nhìn vào anh; cúi xuống xe, anh vẫn đang nói chuyện với con bé. 
- Tôi phải xin lỗi ông vì đã làm phiền ông do tôi hát.
Giọng năn nỉ hoà nhã ấy, hoàn toàn mới đối với anh, tạo ra một tác dụng kỳ lạ. Anh đứng thẳng lên và nhìn cô một cách sâu sắc. 
- Xin ông hãy tin, – cô nhấn thêm – tôi thật không ngờ rằng ông có nhà. 
Tiếng “hát” có lẽ làm cho con bé nhớ đến nước mắt của Fêlixitê: 
- Bác ác lắm! Làm cho Carôlin khóc! – Nó lầu bầu và giơ nắm tay lên doạ giáo sư. 
- Con bé nói có đúng không? – anh vội vã hỏi 
Cô tránh trả lời thẳng câu hỏi này: 
- Tôi rất khổ tâm khi nghĩ rằng... 
- Rằng người khác có thể tưởng cô muốn người ta nghe thấy cô hát phải không? – anh ngắt lời Fêlixitê và thoáng mỉm cười. – Cô cứ yên tâm về điểm này, dù tin rằng cô hiếu thắng và cố chấp, tôi còn xa mới nghĩ được rằng cô muốn phô trương mình... Tôi bảo họ yêu cầu cô đừng hát nữa không phải vì cô làm phiền tôi mà bởi vì... giọng cô làm tôi khó chịu... Có lẽ điều đó làm mếch lòng cô chăng? 
Fêlixitê lắc đầu mỉm cười. 
- Như thế mới đúng chứ... Hơn nữa, tôi cần nói với cô điều này – Anh cúi gần cô và nhìn như dò xét. – Giọng hát của cô hôm nay đã bộc lộ cho tôi một bí mật vẫn được giữ rất kín. 
Fêlixitê giật mình. Anh đã theo dõi được mối quan hệ của cô với bà Coocđula. Cô cảm thấy mình đỏ mặt lên và nhìn anh bối rối vì lo lắng. 
- Bây giờ tôi đã hiểu tại sao cô từ chối mọi sự giúp đỡ của chúng tôi trong tương lai. Đúng thế, tay chúng tôi không với tới phạm vi cô dự định sẽ sống và hoạt động sau này... Cô sẽ lên sân khấu. 
- Thế thì ông nhầm rồi! – Cô trả lời không lưỡng lự. Cô thấy nhẹ nhõm hẳn – Dù cho việc trình bày trước đồng bào các sáng tạo của những trí tuệ lớn là một trong những việc làm tốt đẹp, tôi vẫn không đủ can đảm. Tôi vô cùng nhút nhát trước công chúng và tất sẽ không vượt quá được mức bình thường, vì thiếu tự tin... Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ có đủ kiến thức âm nhạc chuyên sâu cần thiết. 
- Điều đó chỉ phụ thuộc ở cô. 
- Chính thế. Ngay từ bé tôi đã hình dung thấy âm nhạc là một thứ không thể học được như tập đọc, tập viết; thứ ấy chắc phải từ trên trời rơi xuống gần như giáo lý Giatô, và ý nghĩ trẻ con ấy tôi vẫn giữ. Thứ làm cho tôi xúc động đến rơi nước mắt, làm cho tôi sôi nổi lên hơn mọi sự lộng lẫy trên thế giới, lại phải căn cứ vào các quy luật cứng nhắc và diệu vợi rồi ghi lại trên giấy bằng những ký hiệu to tướng và xấu xí mà lại phải đếm tỉ mỉ, chỉ ý nghĩ ấy cũng làm tôi ghê sợ, như bộ xương người... Vì thế, về nguyên tắc, tôi không nhìn đến cái thứ máy móc đáng ghét ấy. 
- Thế là chúng ta lại có một nét cơ bản về tính cô, nó ngược lại với tất cả những gì là quy luật, quy tắc, – anh nhận xét bằng giọng châm biếm, dù anh đã thích thú nghe cách định nghĩa kỳ lạ về âm nhạc. – Vậy là tôi đã kết luận nhầm và lúc nãy cô đã lúng túng rất lạ lùng cũng là thừa. – Anh nói thêm, giọng sắc bén. – Có lẽ đấy là một bí mật đặc biệt!... Tôi gần như bị cám dỗ là cố nài để cô nói rõ dự kiến về cuộc sống của cô như thế nào, nhân danh người bảo trợ. 
- Ông sẽ mất công, – cô đáp lại bình tĩnh và cương quyết. – Tôi sẽ không nói... Ông đã cho tôi được tự do hành động theo ý muốn trong thời hạn hai tháng nữa. 
- Đúng thế, tôi đã rủi ro mắc lỗi ấy, – anh nói tiếp vẻ khó chịu. – Tuy nhiên tôi cho rằng như thế là mạo hiểm, nếu không nói quá hơn, khi ở tuổi cô, muốn giải quyết các vấn đề sống còn theo ý muốn không có lời khuyên hay sự giúp đỡ của một người chín chắn và hiểu biết lẽ phải... Giả sử như khi phải cân nhắc việc quan trọng nhất trong đời sống của người phụ nữ... là gắn bó cuộc đời. 
- Trong trường hợp như thế, người bảo trợ của tôi sẽ là người tôi hỏi sau cùng! – Fêlixitê thốt lên với cặp mắt lấp lánh. – Có lẽ, tôi đã gửi gắm số phận mình cho con người khả ố, thất thường đó, nếu như tôi không sẵn có tính mạo hiểm muốn tự giải quyết những vấn đề sống còn của mình... Ông cũng có thể đã thản nhiên chấp thuận, tán thành lời đề nghị được coi là đáng tôn trọng của Vennơ, nếu tôi nhu nhược để cho mình bị khủng bố vì doạ nạt và ngược đãi. 
Lời trách móc ấy như một con dao hai lưỡi vì nó đúng. Giáo sư cắn môi, mắt anh do dự nhìn xuống nền đá lát dưới chân một lúc. 
- Đúng là tôi tưởng rằng như thế là kết thúc tốt nhiệm vụ thuộc phạm vi của tôi, – anh nói sau một lúc im lặng nặng nề. Giọng anh không còn vững vàng như mọi lúc. – Đấy là một sai lầm, vả lại tôi đã không cố chấp duy trì nó, cô biết đấy. Nếu theo ý kiến và bằng cớ của mẹ tôi, tôi đã đồng ý, không xem xét kỹ các mặt, tôi cũng không làm gì gây ảnh hưởng đến quyết định của cô bằng lời khích lệ hay sự nghiêm khắc... Hơn nữa, những lời nói khi ấy của tôi cũng sẽ là việc làm cuối cùng để tỏ ra tôi là người bảo trợ, – anh nói tiếp không phải không chua cay. – Tôi đành phải để mặc cô với số phận riêng tư... Cô có chờ đón với niềm vui và nguồn hy vọng không? 
- Có chứ! – Cô trả lời và mắt cô sáng lên. 
- Cô tin rằng cô sẽ sung sướng trong hoàn cảnh mới? 
- Tin vững chắc như tôi tin ở cuộc sống tốt đẹp sau này! 
Với câu hỏi sau anh đã nhìn cô bằng cái nhìn dò xét và sắc sảo chắc anh thường dùng với những bệnh nhân hay giấu giếm; nhưng nhìn thấy sắc diện cô rạng rỡ lên, anh quay đầu đi như bị mếch lòng hoặc tức tối. Anh không nói thêm một lời, đưa tay lên mũ chào rồi thong thả quay vào trong nhà... 
Chuông chín giờ buông đã từ lâu. Fêlixitê vào buồng đi ngủ. Trước hết cô mở toang cửa sổ cho thoáng, ngồi lên thành cửa, hai tay bó gối và nhìn vào sân. Trên đầu tầng một và tầng hai, đèn vẫn còn sáng. 
Từ các cửa sổ cao những vệt sáng rọi xuống nền đá. Không có mục đích gì nhất định, cô gái đưa mắt nhìn toà nhà phía trên. Cô giật mình vì ngạc nhiên. Ánh đèn tầng hai rọi sáng đến tận cuối hành lang đưa đến chỗ của bà Coocđula. Trên vách hiện lên một hình bóng, nhưng không phải là một cái bóng trong suốt hay hư ảo. Đấy chính là người bác sĩ. Fêlixitê trông thấy rất rõ nét nổi bật của cái đầu, nét lượn của bộ râu, thân người vạm vỡ với các đường nét và cử chỉ không chút thanh lịch. Tay vuốt ve râu liên tục, anh đi dọc theo hành lang đến tận cửa sổ gần khung cửa sơn, rồi đi trở lại. Chắc anh đi tản bộ trong đêm, và vì bà nghị với Annet ngủ ở tầng dưới phòng anh nên anh đi trong hành lang vắng vẻ này để tránh gây tiếng ồn... Cái gì có thể làm cho anh đi lại như thế mãi không thôi? Anh nghiền ngẫm một vấn đề y học, hay hình ảnh của người yêu ở phương xa, vì người ấy mà anh buộc phải sống cô đơn. Trầm ngâm, Fêlixitê kéo lại bức rèm len xanh bạc màu đã từ thời xa xưa che chở cho những giấc mơ của các chị đầu bếp trong ngôi nhà cổ của thương nhân này.

 

Chương 12
Hôm sau, bà nghị như rơi từ trên mây xuống khi giáo sư nói với bà anh sắp tổ chức một cuộc đi chơi trong rừng miền Tuyringơ với nhiều người và mời bà cùng đi. Hai hôm sau họ ra đi. Anh là người đầu tiên bước lên xe ngựa với vẻ mặt và cử chỉ thể hiện rõ anh vừa trút đi một gánh nặng và sung sướng bỏ lại nó cho cái thành phố X... này. Người góa phụ ngồi trước mặt anh. Bà đã lao lên chỗ ấy với chiếc áo bồng bềnh như mây xanh, như một nàng tiên dưới chiếc mũ nam Ý, mặt rạng rỡ vì hy vọng, vì đã dự định rằng từ chuyến đi này bà sẽ mang về một niềm hạnh phúc mong ước từ lâu. 
Đây là buổi chiều thứ hai Fêlixitê được phép ra vườn một mình với Annet, những giờ ấy còn đem lại cho cô một bất ngờ, có ý nghĩa tuyệt diệu. Vườn bên cạnh, chỉ ngăn cách với vườn nhà Hêluy bằng một hàng rào cây xanh, đã được gia đình Frăngcơ mua mấy hôm trước. Hôm qua, luật sư đã trò chuyện với cô thân mật như bạn bè, lịch thiệp. Và bỗng có một bà đứng tuổi nói chuyện với cô, bà mặc áo lụa đen, bộ mặt dễ mến và hoà nhã, đầu đội chiếc mũ mềm trắng. Bà là mẹ của luật sư Frăngcơ. Bà sống chỉ cho chồng và người con trai duy nhất, xa lánh mọi người, đây là một người rất được tôn trọng trong tỉnh. Nhân tiện cô sắp rời khỏi gia đình Hêluy bà đã khuyên nhủ và tỏ ý muốn giúp đỡ cô, thật là một tia mặt trời bất thường trong đời đứa con người diễn trò bị biết bao khinh bỉ!... Tuy nhiên, mải mê trong những suy tư quan trọng, cô gái dựa lưng vào cây hồ đào cổ thụ mỉm cười buồn bã. Tuổi trẻ ban đầu bị giày xéo lại hiện lên trước mắt cô. Nhưng cô có ngờ đâu rằng ngay lúc ấy định mệnh sắp sửa phá huỷ những hy vọng mong manh của cô. 
Trước đấy không lâu cửa vườn đã mở và Hăngri bước vào. Lúc đầu bác có vẻ như muốn chạy lại chỗ cô, nhưng rồi bác đi khuất sau hàng thuỷ tùng. Rồi bác lại xuất hiện nhưng ngập ngừng. Vừa thoạt nhìn bộ mặt trung thực nhưng thất sắc kinh khủng, cô gái biết ngay bác đem tin xấu đến. Tin xấu về ai? Fêlixitê chạy đến nắm tay bác một cách lo lắng. 
- Thật thế, Fê ạ, bác không thể làm gì được, cháu biết cho bác, – bác nói giọng thất thanh và nhìn đi chỗ khác, rồi đưa bàn tay nổi chai vuốt cái trán nóng hổi. – Thế đấy cháu yêu mến, tội nghiệp quá, đời là như thế đấy... 
- Nói nhanh lên bác! – cô ngắt lời bác, giọng khàn lại, gần như kêu lên, rồi cô cắn răng lại. 
- Đấy, đấy… Lạy Chúa nhân từ nếu cháu như thế thì bác báo cho cháu biết thế nào được? Bà cụ già… 
- Chết rồi! – cô nói, giọng hét lên. 
- Chưa, Fê ơi, chưa đâu. Nhưng cũng như đã hết, bà không nhận ra ai nữa… Bà bị gục ngay… Trời ơi, không một ai ở cạnh bà cả! Người đến dọn dẹp thấy bà ở trong chuồng chim, nằm dưới đất, bà vừa chăm sóc những con vật tội nghiệp ấy… – Bác nghẹn lời khóc hu hu như trẻ con. 
Lúc đầu Fêlixitê rụng rời đứng lặng đi, mặt cô không còn giọt máu: như máy, cô áp hai tay vào thái dương đang đập dồn, nhưng không ứa một giọt nước mắt. Một lúc sau, cô mới nhếch môi mỉm cười cay đắng, rồi cầm mũ, bình tĩnh một cách đáng sợ, gọi Rôda đang làm việc ở dưới bóng cây râm bụt và giao đứa bé cho chị. 
- Cô ốm à? – người hầu phòng hỏi, hoảng sợ vì mặt cô đờ đẫn đến kinh khủng và tái nhợt như xác chết. 
- Phải, cô ấy ốm. – Hăngri trả lời thay Fêlixitê đang bước nhanh ra cửa. 
- Fê, bình tĩnh lại, – bác tớ già khuyên cô lúc đi cùng với cô một đoạn đường, – bà chủ đang ở bên bà cô… thật sung sướng vì bà cô không biết việc ấy!… Bác sĩ Buêơm đi rồi… ông ấy không làm gì được nữa… Ôi, tại sao lại là ngày hôm nay, đúng ngày hôm nay! Thật là rủi ro cho cháu!… 
Fêlixitê không nghe thấy bác nói gì: Lời nói lao xao trong tai cô không sao hiểu được, cô không nhìn thấy người qua lại. Cô vào nhà không cho Vêrônic biết và bước lên thang. Đến đầu cầu thang tầng xép, cô ném mũ vào một xó. Cửa chuồng chim mở toang, những tiếng kêu náo loạn vang lên. Cái cửa ấy trước kia được chú ý cẩn thận biết chừng nào để không một con chim nào bay mất. Cô gái đi qua không giơ tay lên, những con vật nhỏ bị bỏ rơi này chỉ còn có việc đi tìm mồi dưới bầu trời của Chúa, chúng đã mất bà mẹ nuôi rồi. 
Cô bước vào phòng lớn. Phòng ngủ kề bên vẳng ra giọng đều đều của bà Hêluy đang đọc một bài kinh tụng thông thường. 
Fêlixitê như một cái bóng len vào phòng ngủ không một tiếng động, bà Hêluy tiếp tục đọc mà không nhìn thấy cô… Ở đằng kia, dưới các rèm giường trắng đang phồng lên, xẹp xuống trong gió từ cửa sổ thổi vào, tưởng chừng như những chiếc cánh sẵn sàng đón lấy linh hồn ra đi để đưa lên thiên đường, một bộ mặt xám như tro nằm bất động… 
Nhưng mi mắt khép xuống vẫn chưa nhắm hẳn. Tròng mắt vẫn động đậy, không ngừng, đưa qua đưa lại, tiếng khò khè nhỏ kèm theo hơi thở nặng nề; thỉnh thoảng tay phải giơ lên quờ quạng rồi lại để rơi xuống những ngón tay co quắp bệch như sáp… Bức tranh kinh khủng biết bao đối với cô gái dang thấy tắt đi ở đấy tia sáng cuối cùng của lòng yêu thương trong cuộc đời khốn khổ của cô. 
Fêlixitê lại gần giường. Bà Hêluy vô cùng ngạc nhiên ngước mắt khỏi cuốn kinh và nhìn chằm chằm vào khuôn mặt nhợt nhạt không có một giọt nước mắt đang cúi xuống giường. 
- Mày đến đây làm gì hở con vô liêm sỉ kia? – bà to tiếng hỏi, không chút dè dặt. Bà giơ bàn tay to tướng lên và bằng một cử chỉ hách dịch chỉ ra cửa. 
Fêlixitê không trả lời. Nhưng giọng đọc đều đều dừng lại hình như làm cho người hấp hối có cảm giác. Bà cụ cố giữ cho mắt dừng lại không đưa đẩy và bà nhìn thấy Fêlixitê. Trong ánh mắt lộ ra nét vui mừng vì nhận ra người ở cạnh, hai môi bà mấp máy, lúc đầu không có kết quả. Có một cái gì đau khổ trong sự cố gắng làm cho người ta hiểu mình, nhưng rồi tâm hồn có ý chí mạnh mẽ đã thắng và một lần nữa bắt bộ máy hỏng một nửa của cơ thể phải phục vụ. “Tìm cơ quan pháp luật!” – bà thốt ra với tiếng ọc ọc kỳ lạ nhưng rõ ràng. Cô gái rời buồng ngay. Không thể để mất một phút nào được. Cô chạy bay ra phòng trước, nhưng lúc đi qua chuồng chim, cửa chuồng mở rộng ra hơn nữa, hai bàn tay kếch xù túm lấy sau áo cô và lăng mạnh, ném cô vào giữa gian nhà rồi cửa đóng lại và khoá bên ngoài. Tiếng ầm ĩ dữ dội bung ra chung quanh cô; những con chim hoảng hốt bay lộn xộn và la réo om sòm đến phát điên lên. 
Fêlixitê ngã xuống đất; trong lúc loạng choạng về phía trước cô đã níu lấy cây tùng nhỏ giữa phòng và lôi nó đi… Điều gì xảy ra nhỉ?… Cô đứng lên vén mớ tóc bị tuột, xoã xuống ra đằng sau. Cô không trông thấy gì cả, vậy mà có người đã ra sau lưng cô và túm lấy cô mạnh khủng khiếp vào lúc phải thực hiện ý muốn cuối cùng của người hấp hối, lúc mỗi phút chậm trễ càng làm cho tâm hồn cô nặng trĩu vì trách nhiệm đáng sợ. 
Cô lao ra cửa, cửa khoá ngoài. Tiếng đập, tiếng lay cửa của cô chìm trong những tiếng xôn xao dễ sợ lại ồn lên; lũ chim kinh hoàng bay lượn trên đầu cô, va loạn xạ vào tường và cũng không chịu yên lặng khi cô chán nản, thất vọng, buông tay xuống. Ai sẽ mở cửa cho cô? Những bàn tay đã xô đẩy cô ư? Chắc chắn là không rồi… cô quá biết cái nắm tay sắt ấy… Đấy chính là bàn tay lúc trước đã cầm quyển sách kinh; bà ta đã vứt sách đi để có thể bạo hành, và bây giờ cái bộ mặt ghê rợn ấy lại đến ngồi bên giường người chết và tiếp tục giọng đọc đều đều. Bà ta sẽ để mặc cho người hấp hối kéo dài với một nghị lực siêu phàm cuộc chống chọi với thần chết, trong ảo tưởng là còn có thể làm được một việc hữu ích ở dưới trần thế này, dù chỉ trong vài phút. Tội nghiệp bà cô Coocđula! Bà ra khỏi cái thế giới mà bà đã cô độc đi qua với sự tỉnh mộng chua chát… Cảm tưởng cuối cùng của linh hồn bà mang theo là sự cuồng tín trong tôn giáo dưới hình dáng của người đàn bà ghê tởm và sự vô ơn đã thành ngạn ngữ của con người mà Fêlixitê có vẻ như đã mắc phải – ý nghĩ ấy làm cho máu nóng như dồn lên đầu cô gái. Tức uất lên, cô lại chạy mọi phía và đập cửa với một sức mạnh mới… Vô ích… Tại sao cô lại bị nhốt? Có phải đi tìm pháp luật, bà cô Coocđula đã ra lệnh… Phải chăng đây là một sự thú nhận cuối cùng – Không, không, bà cô không có lỗi gì mà phải thú nhận! Nếu bà đã phải mang suốt đời gánh nặng của một lỗi lầm nào đó, thì lỗi lầm ấy xa lạ với bà và bà đã hiểu điều ấy qua một quá trình, bà cô Coocđula biết rõ mình vô tội, và không hề đồng loã với một bí mật tội lỗi nào. Có thể bà phân chia tài sản của bà. Và ý muốn ấy vừa bị huỷ bỏ vì sự can thiệp tàn bạo của người đàn bà hộ pháp. Nếu bà cô Coocđula chết không để lại chúc thư thì toàn bộ gia sản của bà sẽ thuộc về nhà Hêluy… Ai biết được rằng bao nhiêu người bần cùng và khốn khổ đã mất đi trong lúc này sự cứu giúp có lẽ đem lại hạnh phúc suốt đời cho họ, trong khi gia đình thương gia mà ai nấy đều tán dương sự giàu có lại chất thêm của cải đầy hòm, đầy tủ nhờ sự quỷ quyệt của một người đàn bà. 
Fêlixitê đến gần cửa sổ nhìn xuống các nhà bên cạnh. Cô tìm xem có thấy người nào có thể kêu cứu được, nhưng các ngôi nhà ấy ở phía dưới rất xa nên không ai trông thấy và nghe thấy cô. Trong lúc đau khổ ấy, mạch máu cô đập như muốn vỡ. cô gieo mình xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng và oà khóc vì thất vọng… Bây giờ, trong mọi trường hợp, mọi sự đều quá chậm, dù cô lấy lại được tự do ngay lúc này. Có lẽ đôi mắt thân yêu ở nơi kia đã nhắm rồi, có lẽ trái tim kia cũng đã ngừng đập, cái trái tim mà lúc cuối cùng đã hy vọng vô ích, lo âu mong chờ Fêlixitê kịp quay trở lại. 
Có lẽ cô đã phải trải qua hơn hai giờ đồng hồ bị giam hãm, những suy nghĩ u ám và những cố gắng vô vọng để tự giải thoát nối tiếp nhau. Ngày muộn dần, hoàng hôn đã đến. Nỗi đau buồn vì bị mất một người thân yêu như thế mỗi lúc càng làm cho cô cháy ruột cháy gan. Tình thế có thể phát điên lên được! Cô lại chạy ra cửa một lần nữa. Cô vô cùng kinh ngạc, ổ khoá bật ngay ra… Bên ngoài trong phòng phía trước, lặng lẽ như tờ. Fêlixitê tưởng như một giấc chiêm bao hành hạ nếu phòng khách không bị khoá chặt. Cô nhìn qua lỗ khoá, gió lùa vào mặt cô; dây trường xuân đu đưa trên các vách tường, người ta đã mở cửa sổ… đúng thế, tất thảy đã chấm dứt, chấm dứt… 
Ở dưới kia, trong ngôi nhà phía trước, bác bếp ngồi đan trên bậc. Từ bếp đưa lên mùi bánh ngọt vừa làm, bác vừa lấy ra khỏi lò một khay đầy bánh quy giòn mà bà Hêluy thường dùng với cà phê. Như vậy là ở dưới ấy người ta vẫn sinh hoạt như thường, trong khi ở trên kia một bậc bề trên của gia đình Hêluy rời khỏi thế giới trần gian. 
Fêlixitê đến phòng gần bếp. Ngay sau đó Hăngri bước vào. Bác im lặng treo mũ lên móc rồi đến chìa tay cho Fêlixitê mà không nói gì cả. Cái nhìn buồn rầu ở khuôn mặt già nua, nhăn nheo ấy thấm vào tâm hồn đau đớn của cô gái như lời an ủi, cô đứng lên, ôm lấy cổ bác và ứa nước mắt khóc. 
- Cháu không thấy mặt bà nữa, phải không cô bé Fê?- một lúc sau bác mới hỏi – Vêrônic nói bà nhà đã vuốt mắt cho bà cụ. Ôi tại sao lại phải chính những bàn tay ấy! Sao không phải là cháu. Cháu đã chui vào chỗ nào thế? 
Fêlixitê thôi khóc ngay lập tức. Mắt như rực lửa, cô kể lại điều đã xảy ra. Bác chạy quanh phòng như người điên. 
- Có thể như thế được sao, hả trời! – Bác kêu lên nhiều lần và thọc hai tay vào mớ tóc hoa râm. – Thế mà Chúa nhân từ bỏ qua việc ác ấy? Lạy Chúa!… Bây giờ đi tố cáo họ, kể lại sự việc ư? Các quan toà sẽ tống cổ đi, vì không ai làm chứng. Và cả thành phố sẽ không tin, bởi vì đấy là bà Hêluy công bình và sùng kính, còn cháu thì là gì… Vì bà ấy đã hành động hiểm độc – bác ngắt lời và thốt ra một tiếng cười gằn, – bà ấy tất phải lợi dụng lúc chim kêu ầm ĩ để lén mở khoá cửa… Bác đã bảo cháu rồi, đấy là một con người tồi tệ nhất… cháu Fê ạ, bà ta đã lột của cháu đấy! Sáng hôm nay bác được giao nhiệm vụ đi mời các ông ở toà án đến chỗ bà cô… Bà muốn làm chúc thư vào chiều mai… cho cháu… “Đúng thế, ai biết được tôi sắp đến ngày cuối cùng rồi”, bà nói thế. Và dù bà minh mẫn lạ kỳ, thông minh đặc biệt, bà đã để quá chậm! 
Hôm sau, đầu buổi sáng, bà Hêluy xuất hiện ở sân trước. Đáng lẽ đội chiếc mũ trắng quen thuộc kiểu bất di bất dịch trong bao nhiêu năm qua thì chiếc khăn đăng-ten đen đã choàng lên đôi má xệ của bà. Con người bất hạnh thường xúc phạm thánh thần ngày chủ nhật bằng những bài ca tà giáo và các điệu nhạc vui bây giờ đã chết rồi, dấu vết cuối cùng của cuộc đời bị đày đoạ của bà cũng bị xoá bỏ trong ngôi nhà quý tộc cổ xưa này, ngay tối hôm qua, người ta đã chuyển thi thể bà vào hầm mộ tạm thời… Dù như thế, vì người chết đã mang họ Hêluy nên bà đã để tang bằng đăng-ten đen và dải nhiễu đen thay thế cho cái cổ vải hồ cứng chỉnh tề trên cổ bà. 
Bà mở cái cửa mà trước kia Fêlixitê đã trông thấy bà Coocđula đi vào. Ngoài cầu thang quen thuộc ở sau cửa sơn còn có một cầu thang khác hẹp, xoáy ốc, đưa đến tầng xép nó đi thẳng từ con đường dốc nhỏ; đấy là lối Hăngri và người đàn bà quét dọn vẫn đi, cửa sân cũng mở ra lối ấy. 
Bà Hêluy bước vào gian phòng vắng vẻ. Bà cầm chùm chìa khoá để trên bàn ngủ và mở ngăn bàn viết, rõ ràng đây là thứ gỗ quý bà chú ý nhất. Trong các ngăn sắp xếp rất trật tự. Từng ngăn được lần lượt rút ra. Những tập giấy để ố vàng buộc bằng những dải băng phai màu cũng như các cuốn sổ tay viết chi chít xuất hiện. Hai bàn tay trắng trẻo nhưng thô thiển nóng nảy trả chúng về các ngăn đáng tôn trọng của chúng, bà thiết gì những dòng nguệch ngoạc ấy; người đàn bà to lớn này không tò mò… bà cư xử với cái tráp đầy ắp giấy tờ ân cần hơn nhiều, bà rất thận trọng mở từng tờ, mặt bà lộ rõ vẻ cực kỳ hài lòng. Bà đếm rất giỏi, trong thời gian không đáng kể và đã tổng cộng được một số tiền lớn qua nhiều loại vốn đặt trong các điều kiện chắc chắn và có lợi. Món tiền ấy vượt quá sự mong đợi của bà. 
Tuy vậy việc tìm tòi còn lâu mới kết thúc. Đến lượt các tủ áo và rương gỗ, và bà càng lúc càng nóng nảy, vội vàng. Mặt bà mỗi lúc một đỏ bừng, thân hình nặng nề của bà đi từ phòng này qua phòng khác linh hoạt lạ thường, tay bà đảo lộn không dè dặt các tủ đồ vải, xô đẩy đồ thuỷ tinh và đồ sứ trong cái tủ ăn sâu vào tường… cái bà tìm vẫn chưa thấy. 
Bà réo gọi Vêrônic đang cho gà ăn, ra lệnh cho bác gọi người tớ già lên ngay lập tức. 
Hăngri lên không chậm trễ. Bà Hêluy phán: 
- Anh có biết bà cô đã quá cô để đồ đạc ở đâu không? Phải có nhiều lắm, bà mẹ chồng ta nói thế. Bà ấy có ít nhất là hai tá thìa canh to, một số thìa cà phê đẹp mạ vàng, cả những cây đèn nến bằng bạc, các bình nước, bình cà phê và bình sữa. – Danh mục ghi bằng trí nhớ trung thành kỳ diệu từ miệng bà tuôn ra như một bài tập đọc. – Ta không tìm được một thứ gì cả, những thứ ấy giúi ở đâu? 
- Thưa bà tôi không rõ, – Hăngri nói. Bác bước đến bên một chiếc bàn, mở ngăn kéo lấy ra hai bộ dao dĩa bạc. 
- Đây là tất cả những đồ bạc tôi đã thấy ở nhà bà cô đã mất, tôi thường được giao việc đánh cho bóng lên, vì chị giúp việc làm không tốt. 
Bà Hêluy đi đi lại lại và cắn môi tức giận. Bà đã buông lơi mất một lúc sự giữ ý nghiêm ngặt của bà trước kẻ hầu người hạ. 
- Thật là một việc tốt đẹp, một vụ bê bối thực sự nếu mụ già đã bán mất hay đem cho mất những thứ đồ cổ quý báu của gia đình, điều ấy thật giống mụ! – bà lẩm bẩm, nói một mình thì đúng hơn – Phải chỉnh đốn lại, ta sẽ không thư thái trước khi làm được việc ấy!… Mụ có cả kim cương, các nữ trang cực đẹp. Tất cả những thứ gia đình Hêluy có thuộc loại ấy đều chia cho mụ và mẹ chồng ta. – Bà không đi lại nữa. Mắt bà vừa nhìn thấy cái tủ kính đựng sách nhạc. Bà chưa lục soát nó. 
Mắt kính được lắp trên một chiếc rương to, dày dặn, có mấy cửa gỗ chạm trổ. Bà giật mạnh cửa tủ. Nhiều chồng tạp chí chất đầy hai ngăn. Bà lần lượt lôi từng bó ra quăng xuống đất làm cho các tập giấy tung ra tứ phía. 
- Chúng tụ họp tất cả ở đây rồi, những kẻ thù của thánh đường! – Bà lẩm bẩm – Những tờ giấy vô liêm sỉ. Những thứ bôi bác của địa ngục! Đúng thế, mụ gái già đồi bại là kẻ tội lỗi biết chừng nào! Thế mà ta phải chịu đựng bao nhiêu năm trời cái linh hồn bẩn thỉu ấy dưới mái nhà của ta. 
Bà đứng lên và nhìn vào phía sau các tấm kính. Nhìn thấy những vở nhạc, một tiếng cười gằn ngắn ngủi và tàn nhẫn thốt ra môi bà. Bà mở cửa kính và bảo Hăngri đi lấy một cái sọt. Bằng cái sọt này bác phải tống hết đi các sách, vở nhạc chất đống trên các giá. Bác thầm hỏi mình không biết số phận của những cuốn sách đẹp đẽ ra sao, những cuốn sách này thường đặt trên dương cầm và bà cô đã diễn đạt thành các giai điệu du dương. Người đàn bà to lớn đứng ngay bên cạnh bác canh không để một tờ nào sót lại. Chính bà ta không mó vào cái gì, hình như bà ta sợ chạm vào sẽ bị cháy tay. 
Sau cùng bà ra lệnh cho người đầy tớ đem cái sọt vào nhà phía trước. 
Bà cẩn thận khoá hết các cửa ở gian phòng ấy rồi đi theo Hăngri. Bà đi vào bếp, bất chấp Vêrônic mà những lúc đến thăm như thế này làm bác không hài lòng. Hăngri phải đặt sọt xuống và đi lấy kéo để cắt giấy ở phòng ăn. Bác bếp già vừa nhóm lửa cháy rừng rực để quay thịt. 
- Hôm nay chị sẽ tằn tiện củi, Vêrônic ạ! – Bà Hêluy nói và ném vào lửa một quyển vở đã mở ra. Các hộp bìa đẹp đẽ đựng bộ sưu tập thư bút quý giá để ở trên mặt sọt. Những núi băng lụa buộc được gỡ ra dưới ngón tay kiên trì của người đàn bà to lớn…Chà, cái này cháy mới tốt chứ! Ở chỗ này, còn loé sáng lần cuối tên của Gluck rồi cháy đỏ lên, chỗ kia những đầu nốt nhạc của âm điệu huy hoàng kết thúc Ximarosa sáng loé lên như những hạt ngọc trai bằng lửa để sau đó biến vào trong cái áo choàng lửa đã ngấu nghiến không phân biệt người Ý, người Pháp và người Đức. 
Thoạt đầu, Hăngri sửng sốt chứng kiến vụ hoả thiêu. Bác tức giận đến nghẹn họng. 
- Nhưng, thưa bà, – sau đó bác nói – có thể có chúc thư trong ấy. 
Bà Hêluy ngẩng bộ mặt đỏ rực vì hơi lửa toả ra, trên bộ mặt ấy hiện lên vẻ chua cay và bất mãn pha trộn nhau. 
- Ta cho phép anh nói với ta những nhận xét khôn ngoan ấy từ bao giờ thế? – bà hỏi giọng châm biếm. Bà đang cầm trên tay đúng bản thảo tiểu ca khúc của Bach. Bà xé mạnh gấp bội, cắt nhỏ những tờ giấy ấy ra và đút vào lò quay. 
Lúc ấy có người giật chuông cổng rất mạnh. Một nhân viên toà án bước vào cùng với người thừa phái. Ông cúi chào bà chủ nhà vừa vội vã bước ra khỏi bếp, và tự giới thiệu là người đại diện pháp luật được uỷ nhiệm đến niêm phong tài sản của bà Coocđula đã tạ thế. 
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, bà Hêluy mất thái độ bình tĩnh không nao núng của bà. 
- Niêm phong ư? – Bà ấp úng. 
- Có chúc thư trình toà. 
- Đây là sự nhầm lẫn – bà cãi – tôi biết rất rõ là theo di mệnh của người cha, bà ấy không được làm chúc thư, tất cả đều thuộc về nhà Hêluy. 
- Rất tiếc, thưa bà! – người viên chức nhún vai nói, – dù tôi rất tiếc sẽ phải buộc làm phiền bà, nhiệm vụ của tôi bắt phải tiến hành ngay việc niêm phong.
Bà Hêluy cắn môi cầm chìa khoá tầng xép và đi trước người đại diện. Hăngri đắc thắng lên chỗ Fêlixitê vừa nhận lại nhiệm vụ trông trẻ, trước sự kinh ngạc của Annet, cô ngồi im lặng và cứng đờ như một pho tượng bên cạnh con bé nói liến thoắng. 
Hăngri kể cho cô nghe việc vừa xảy ra. Khi nghe tả lại vụ đốt cháy cô giật nảy lên: 
- Bà ấy chỉ đốt mấy tờ rời thôi chứ? – cô hỏi giọng nghẹn lại. 
- Ừ, những tờ rơi đựng trong các hộp giấy đỏ, có dây lụa đẹp rủ xuống… 
Cô không nghe thêm nữa và vội vàng vào bếp. Các sọt còn đựng nhiều vở nhạc nhưng các hộp đều mở và vứt lung tung trên nền gạch, không còn một tờ giấy nào trong ấy, gió lùa đã kéo theo một mẩu giấy vào trong góc lò. Fêlixitê nhặt lên: “Khúc nhạc do chính tay Johann – Sebastien Bach viết, chính nhạc sĩ tặng để kỷ niệm năm 1707. Gôđơroy Đờ Xécbông”, đấy là điều cô đọc được, hai mắt mờ đi vì nước mắt… Đấy là tất cả những gì còn lại của bản thảo bí mật kia. 
Trong khi giáo sư vắng mặt, bà cô bị chôn cất không có một người mang họ Hêluy đi theo quan tài. 
Fêlixitê chịu đựng nỗi buồn sâu sắc ấy một cách lặng lẽ và với sự cứng cỏi chỉ có ở những tính cách độc đáo. Từ tuổi thơ ấu, cô đã có thói quen đơn độc chống chọi với những trớ trêu của số phận và để cho các vết thương trong trái tim rỉ máu mà không người nào ở ngay bên cạnh ngờ đến. Cô không tìm cách nhìn lại người chết. Cái nhìn nhận biết sau cùng người hấp hối như một lần nữa nói với cô lời vĩnh biệt cuối cùng rồi. Nhưng chiều hôm đưa tang, khi bà Hêluy ra khỏi nhà, cô cầm một chiếc chìa khoá treo trong nhà gần bếp, chìa khoá hành lang trong đó có buồng chứa đồ. Mỗi năm bà chủ nhà càng béo phệ ra nên bà hết sức tránh lên cầu thang, và vì lý do ấy, bác bếp đã từ lâu được tự do ra vào những nơi ở trên tầng thượng. 
Bà cô Coocđula chắc vẫn còn hoa tươi trên mộ trong ngày hôm ấy, nhưng không có loại hoa nào khác do chính tay bà đã trồng. Chỗ ở trên tầng xép đã bị niêm phong, không thể vào đấy để đi vào vườn treo mà vị đại diện pháp luật đã sơ suất không có một biện pháp phòng ngừa thận trọng nào… Sau chín năm trời, Fêlixitê mới lại dứng bên cửa sổ tầng xép nhìn cái mái nhà phủ đầy hoa… Biết bao sự việc đã diễn ra trong khoảng thời gian giữa ngày hôm nay và cái ngày khốn khổ mà tâm hồn trẻ thơ của cô, nạn nhân của những ngược đãi đã nổi loạn với con người và với Chúa! Nơi kia mới chính là tổ ấm của cô!… Ở nơi ấy bà già cô đơn đã ôm vào tấm lòng độ lượng và cao quý của bà đứa con gái của người diễn trò bị trục xuất để an ủi nó, ở đấy bà đã dùng mọi vũ khí tinh thần của bà để đẩy lùi mọi mưu toan tàn hại tâm hồn con người bà che chở. Chính ở đấy đứa bé đã nỗ lực học tập không ngừng và cũng là bắt đầu sống thực sự. Còn anh ta, lúc này anh ta đang hưởng thú vui dạo chơi trong những cánh rừng xán lạn ở Tuyringơ với phu nhân đẹp, anh ta không ngờ rằng kế hoạch giáo dục của anh ta căn cứ trên thành kiến và tư tưởng cuồng tín ảm đạm, đã thất bại nhờ có mấy bước chân ngẫu nhiên trên hai lòng máng lung lay dưới kia. 
Cần phải đi một lần nữa trên con đường này. Fêlixitê chui ra ngoài cửa sổ và vượt qua các mái nhà; cô đi nhanh và dễ dàng, chỉ giây lát sau cô đã đặt chân xuống nền hành lang bằng phẳng. 
Cô gái tỳ trán vào kính cửa và nhìn vào phòng phía trước. Ở đây vẫn có chiếc bàn một chân, trên để cuốn sách và trên trang sách mở là chiếc kính, Fêlixitê cảm động đọc mấy dòng… niềm vui trí tuệ cuối cùng mà bà cô đã thưởng thức ở trần thế này là diễn từ của Angtoan trong vở Juylơ Xêda của Sêchxpia… Kính tủ sáng lấp lánh ở chỗ kia, trong phòng khách. Nhìn qua kính thấy các tầng gỗ trống rỗng, cái đồ gỗ cổ xưa ấy đã bị đốt ra tro, nhưng nó giữ lại được những thứ khác chắc chắn hơn… Bà Hêluy đã uổng công tìm kiếm đồ bạc của bà Coocđula… Lúc này, cô gái giật mình. Ngăn bí mật trong rương không chỉ đựng nữ trang và đồ bạc, trong góc ngăn còn có một chiếc hộp nhỏ bằng bìa cứng màu xám. “Nó phải chết trước ta!” bà Coocđula đã nói thế. Chiếc hộp ấy đã được huỷ chưa?… Bằng bất cứ cách nào phải ngăn không cho nó rơi vào tay những kẻ hưởng gia tài, tuy nhiên bà cô chưa bao giờ có can đảm huỷ bỏ nó. Có nhiều khả năng nó vẫn tồn tại. Nếu di chúc chỉ chỗ giấu đồ bạc thì phải thấy ngay rằng bí mật mà bà già cô đơn có sức giấu mọi người sẽ bị bộc lộ. Dứt khoát không thể để cho điều ấy xảy ra được. 
Cửa kính được chốt bên trong. Không lưỡng lự, cô gái đập vỡ một ô kính và thò tay vào chốt. Chốt không đóng, người ta đã khoá và rút thìa. Cô gái nổi giận và định mệnh khốc liệt đã cản đường cô khi cô hy vọng sẽ hành động được vì bà cô Coocđula. Với nỗi buồn vì bà đã qua đời, giờ đây phải suy tính xem điều gì sắp xảy ra. Nội dung cái hộp xám có bác bỏ được tiếng đồn đại liên quan đến một khuyết điểm của bà cô không? 
Cô hái vội một bó hoa đẹp, đặt hai chậu hoa bông tai – loại hoa thích nhất của bà cô – vào giỏ và trở về bằng lối đi trên mái nhà lòng buồn rười rượi, buồn hơn lúc đến đây. 
Bây giờ cô có ba ngôi mộ để trông nom trong nghĩa trang rộng và im lìm: Đất đã phủ lên những người yêu qúy nhất của trái tim cô. Cô ngước mắt nhìn lên trời, cái nhìn đắng cay vô tả, khi cô rải hoa lên mộ bà Coocđula. Trời không thể cướp của cô một người nào nữa! Cha cô mất tích đã bao nhiêu năm rồi, có lẽ ông đã tan rữa trong một mảnh đất xa lạ. Phía kia, trên một khối đá hoa cương lộng lẫy, trên nấm mộ mẹ cô, nhờ sự quan tâm của bà Coocđula trong chín năm qua ngôi mộ lúc nào cũng đầy hoa đẹp. Hôm ấy, bia mộ đi sang bên cạnh rồi. Bác Hăngri nói cần phải làm rõ lại chữ khắc trên bia đang mờ dần. Chắc bia đã được chuyển dịch theo ý bác. Lúc trước bia lún xuống đến chỗ khắc tên người quá cố. Bây giờ tên đã lộ ra đầy đủ: “Mêta Đ’Ooclôpxca” . Fêlixitê đọc, nhưng ở dưới còn một cái tên mà trước kia đất đã phủ kín: sinh trong gia đình Xécbông ở Kien. 
Fêlixitê rơi vào những suy nghĩ sâu thẳm… Tên này có ghi trên bản thảo tiểu ca khúc của Bach; ông thuộc dòng dõi quý tộc cổ xưa miền Tuyringơ. Gia huy vẫn còn trang trí trên các bức tường trong ngôi nhà cổ của thương gia… Cái dấu nhỏ bằng bạc để trong chiếc túi bé cũng có hình con hươu đang nhảy chồm lên… Một câu đố kỳ lạ! 
Những người ruột thịt của mẹ cô còn tồn tại không? Cô gái tự trả lời câu hỏi này và mỉm cười chua chát: Dù thế nào đi nữa, họ không tồn tại với Mêta Đờ Xécbông.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3