Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)


Cầu đến
TERABITHIA

tera4.jpg


Tác giả: Katherine Paterson
Dịch giả: Kurz

Tình trạng sáng tác: Hoàn thành
Tình trạng đăng: Hoàn thành
Thể loại: Truyện ngắn/ Truyện thiếu nhi
Độ dài:13 chương
Giới hạn độ tuổi đọc: Không giới hạn độ tuổi
Nguồn: http://www.e-reading.club/bookreader.php/135126/Bridge_to_Terabithia.pdf

Bản dịch chưa được sự đồng ý của tác giả!

Mục lục

Lời đề tặng
1 - Jesse Oliver Aarons, Con
2 - Leslie Burke
3 - Đứa trẻ nhanh nhất khối Năm
4 - Luật của Terabithia
5 - Những sát thủ khổng lồ
6 - Sự xuất hiện của Hoàng tử Terrien
7 - Căn phòng vàng
8 - Lễ Phục sinh
9 - Lời nguyền độc
10 - Một ngày hoàn hảo
11 - Không!
12 - Bị bỏ lại
13 - Bắc cầu

 
Chỉnh sửa lần cuối:

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
DÀNH TẶNG:

Tôi viết cuốn sách này

cho con trai tôi

David Lord Paterson

nhưng sau khi đọc cuốn sách

con muốn tôi đặt vào đây tên của Lisa nữa,

và tôi sẽ làm thế.

Cho

David Paterson và Lisa Hill

Hurraayyyy.​
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
MỘT – Jesse Oliver Aarons, Con

Brừm, brừm, brừm (tiếng nổ máy). Tốt. Bố đã rời đi cùng chiếc xe bán tải. Nó có thể dậy được rồi. Jess trượt khỏi giường và trùm vào bộ áo liền quần. Nó còn chả thèm để tâm đến việc mặc thêm vào trong một cái áo vì một khi đã bắt đầu chạy thì nó sẽ thấy nóng như chảo mỡ đang sôi ấy dù không khí buổi sáng mát mẻ thế nào, và cả giầy nữa vì gan bàn chân nó bây giờ cũng cứng như đôi giầy thể thao sờn rách của nó vậy.

“Anh đi đâu thế Jess?” – May Belle ngẩng cái đầu ngái ngủ lên từ chiếc giường đôi chỗ nó và Joyce Ann ngủ.

“Suỵt” – Jess đe. Tường mỏng lắm. Mẹ sẽ bực kinh khủng nếu chúng đánh thức bà sớm thế này.

Nó vỗ nhẹ lên tóc Belle và kéo tấm mền lên tận cằm con bé. “Ngay bãi chăn thả thôi” – Nó thì thầm. May Belle mỉm cười và vùi đầu dưới tấm mền.

“Anh sẽ chạy à?”

“Chắc vậy.”

Đương nhiên là nó sẽ chạy. Nó đã dậy sớm mỗi ngày trong cả mùa hè này để chạy. Nó đồ rằng nếu nó chăm chỉ - và thề có Chúa, nó đã chăm chỉ - thì nó có thể sẽ là người chạy nhanh nhất khối Năm khi đi học lại. Nó phải là người nhanh nhất – không phải là một trong những người nhanh nhất hay gần như nhanh nhất, mà là đứa nhanh nhất. Nhất của nhất luôn.

Nó nhón chân ra khỏi nhà. Căn nhà ọp ẹp đến mức mỗi bước chân đặt xuống là cả ngôi nhà sẽ rít lên, nhưng Jess đã phát hiện ra là nếu nó nhón từng bước, ngôi nhà sẽ chỉ rên rỉ một chút xíu, và nó sẽ ra được khỏi cửa mà không đánh thức Mẹ, Ellie, Brenda hay Joyce Ann. May Belle lại là chuyện khác. Con bé sắp bảy tuổi, và tôn thờ thằng anh nó, điều mà thực ra cũng ổn thôi. Khi bạn là đứa con trai duy nhất trong năm chị em, và hai bà chị cả đã coi thường bạn kể từ khi bạn không cho chúng trang điểm và xoay bạn vòng vòng trong cái xe búp bê cũ gỉ sét của chúng nữa, và đứa nhỏ nhất khóc ngay khi bạn liếc nhìn nó, thì có một ai đó tôn thờ mình cũng khá dễ chịu. Mặc dù đôi lúc cũng khá là bất tiện đấy.

Thằng bé bắt đầu guồng chân qua sân. Hơi thở của nó phả vào không khí lạnh tháng Tám. Bây giờ vẫn còn sớm. Đến trưa lúc Mẹ bảo nó ra ngài làm việc thì sẽ trời nóng thôi.

Cô Bessie nhìn nó ngái ngủ lúc nó trèo qua đống sắt vụn rồi qua hàng rào vào bãi chăn thả. “Ụm bòòò”, Bessie kêu, và nhìn quanh giống như một bé May Belle với đôi mắt nâu to, mơ màng.

“Chào Bessie,” Jess nói dịu dàng. “Ngủ tiếp đi chứ.”

Bessie thơ thẩn đến chỗ cỏ xanh hơn – phần lớn bãi chăn thả đều khô cháy – và ngốn cả một miệng đầy.

“Có thế chứ. Cứ ăn sáng đi quý cô. Đừng để ý đến tôi.”

Nó luôn luôn bắt đầu từ phía Tây Bắc bãi chăn, quỳ xuống như những vận động viên điền kinh nó thấy trên tivi.

“Đoàng” (tiếng súng), nó kêu, và bắt đầu chạy như bay quanh bãi. Cô Bessie thơ thẩn giữa bãi, nhìn theo nó với đôi mắt mơ màng, nhai trệu trạo. Bessie trông không thông minh lắm, dù là với loài bò, nhưng cũng đủ thông minh để biết tránh khỏi đường của Jess.

Mái tóc xám tro xõa tung trước trán nó, tay chân nó chỉa ra mọi hướng khi nó chạy. Nó chưa bao giờ học chạy một cách bài bản cả, nhưng nó có cặp chân dài ở tuổi lên mười, và chẳng ai dai sức bằng nó cả.

Trường Tiểu học Lark Creek thiếu thốn đủ đường, đặc biệt là dụng cụ thể thao, thế nên mấy quả bóng lúc nào cũng rơi vào tay mấy lớp lớn vào giờ ra chơi sau bữa trưa. Dù cho lúc đầu khối Năm có bóng, thì chẳng đến nửa tiếng chúng cũng ở trong tay lớp Sáu, lớp Bảy rồi. Mấy thằng con trai lớn hơn luôn chiếm chỗ cao ráo giữa sân trên để chơi bóng, trong khi bọn con gái giành một chỗ nhỏ cũng ở trên ấy để nhảy lò cò, nhảy dây và tụm năm tụm ba buôn chuyện. Thế nên bọn con trai lớp dưới đành bắt đầu cái trò thi chạy này. Chúng xếp hàng ở một phía chỗ sân dưới, chỗ mà không đầy bùn sình thì cũng khô nát vết bánh xe. Earle Watson, thằng bé chạy thì kém nhưng được cái mồm to, sẽ kêu “Đoàng!” và bọn trẻ vùng chạy đến chỗ cái vạch mà chúng đánh dấu ở phía kia sân.

Jesse đã thắng một lần năm ngoái. Không phải mỗi một vòng mà cả cuộc đua. Mỗi một lần thôi. Nhưng nó đã được nếm hương vị chiến thắng. Trước giờ nó lúc nào cũng là “thằng bé dở hơi suốt ngày vẽ”. Nhưng hôm đó - ngày hai mươi hai tháng Tư, một ngày thứ Hai mưa phùn, mọi chuyện đã xảy ra như thế - nó chạy nhanh hơn tất cả bọn chúng, trong khi bùn đỏ tràn vào giày nó qua lỗ thủng ở đế.

Suốt cả ngày hôm đó, và đến tận bữa trưa hôm sau, nó đã là “đứa nhanh nhất của khối Ba, khối Bốn và khối Năm”, mà lúc ấy nó mới chỉ là một đứa lớp Bốn. Vào thứ Ba, Wayne Pettis lại thắng như thường lệ. Nhưng năm nay Wayne Pettis sẽ lên lớp Sáu. Nó đã bắt đầu chơi bóng đá sau Giáng Sinh và chơi bóng chày từ tháng Sáu với mấy đứa lớn hơn. Ai cũng có cơ hội trở thành người chạy nhanh nhất, và cùng với Cô Bessie, năm nay đó sẽ là Jesse Oliver Aarons, Con.

Jess vung tay mạnh hơn và chúi đầu về cái hàng rào phía xa. Nó có thể nghe thấy mấy đứa lớp Ba hét tên nó. Chúng sẽ đi theo nó như thể nó là một ngôi sao nhạc đồng quê. May Belle sẽ tự hào lắm. Anh nó là người chạy nhanh nhất, là người giỏi nhất. Và đó sẽ là điều mà bọn trẻ lớp Một kể đi kể lại.

Có khi cả Bố cũng tự hào ấy chứ. Jess cua một khúc ngoặt. Nó không thể chạy nhanh mãi được, nhưng vẫn tiếp tục chạy – điều này làm nó dẻo dai hơn. May Belle có thể kể với Bố, và như thế nó, Jess, trông sẽ không giống một kẻ huênh hoang.

Có thể Bố sẽ tự hào lắm và quên đi những mệt mỏi từ những chuyến xe đi về từ Washington cũng như công việc đào bới, kéo lê suốt cả ngày. Có thể Bố sẽ ngồi xuống sàn và cùng nó đấu vật như những ngày xưa. Bố hẳn sẽ ngạc nhiên lắm trước sức khỏe mà nó có được trong mấy năm qua.

Cơ thể nó rên rỉ đòi dừng lại, nhưng Jess vẫn tiếp tục. Nó phải dạy cái cơ thể yếu đuối này ai mới là chủ.

“Jess”. Là May Belle, kêu tên nó từ phía bên kia đống sắt vụn. “Mẹ bảo anh phải về và ăn ngay bây giờ. Để việc vắt sữa lại đó”.

Chết thật. Nó chạy lâu quá rồi. Bây giờ thì mọi người đều biết nó đã ra ngoài và sẽ la rầy nó cho xem.

“Ừ, được rồi.” Nó quay lại, vẫn chạy, và hướng về phía đống sắt vụn. Không lỡ mất nhịp nào, nó trèo qua hàng rào, qua đống sắt vụn, gõ vào đầu May Belle (“Ốiii!”), và bước vào nhà.

“Ê, nhìn ngôi sao Olympic này,” Ellie nói, dằn hai cái cốc xuống bàn, cà phê đen và đặc sánh ra ngoài. “Toát mồ hôi như một con la kiệt sức.”

Jess kéo mớ tóc ướt sũng ra khỏi mặt và quăng mình xuống băng ghế gỗ. Nó cho hai thìa đầy dường vào cốc của mình và vừa xì xụp uống vừa tránh để cà phê làm bỏng miệng.

“Ôiiiiii, Mẹ ơi, nó hôi quá.” Brenda kẹp lấy mũi bằng ngón út, cố tỏ ra tế nhị. “Bắt nó tắm đi.”

“Đến chỗ vòi và rửa ráy đi,” mẹ nó nói mà không rời mắt khỏi bếp. “Và nhanh lên. Cái đống kiều mạch này đã cháy xém dưới đáy nồi rồi đây này.”

“Ôi Mẹ à! Lại nữa sao.” Brenda rên rỉ.

Lạy Chúa, nó rất mệt. Chẳng có cơ bắp nào trong người nó không đau cả.

“Mày nghe Mẹ nói gì rồi đấy,” Ellie quát vào lưng nó. “Con không thể chịu nổi nữa, Mẹ ơi!” Brenda lại kêu. “Bảo nó với cái mùi kinh khủng của nó biến khỏi ghế đi.”

Jess áp má xuống mặt bàn thô nhám. “Jess-see!” Bây giờ thì Mẹ nó quay ra nhìn. “Và mặc áo vào.”

“Vâng Mẹ.” Nó kéo lê mình đến cái vòi. Chỗ nước nó vỗ lên mặt và tay châm vào lạnh như băng. Làn da nóng hổi của nó sởn gai ốc dưới dòng nước lạnh.

May Belle đang đứng ở cửa bếp nhìn nó.

“Lấy cho anh cái áo, May Belle.”

Con bé nhìn như thể nó chuẩn bị nói không, nhưng rồi nó nói, “Đáng ra anh không nên gõ vào đầu em,” và ngoan ngoãn đi lấy cái áo. Ôi May Belle tốt bụng. Joyce Ann hẳn sẽ gào lên chỉ vì cái gõ nhẹ đó. Tuổi lên bốn quả là một nỗi đau thuần túy.

“Mẹ có rất nhiều việc cần người ở đây sáng nay.” Mẹ chúng thông báo khi họ ăn xong cháo kiều mạnh với red gravy*. Mẹ chúng đến từ Georgia* và vẫn nấu ăn như mấy người ở đó.

“Ôi, Mẹ à!” Ellie và Brenda la lên oai oái. Hai đứa nó trốn việc còn nhanh hơn châu chấu nhảy qua ngón tay người ta.

“Mẹ à, Mẹ hứa là con và Brenda có thể đi Millburg mua sắm cho năm học mới mà.”

“ Các cô làm gì có tiền để mua sắm!”

“Mẹ. Chúng con chỉ đi thăm thú xung quanh thôi.” Ôi Chúa ơi, Jess chỉ mong Brenda ngừng cái trò rên rỉ của nó lại. “Sắp Giáng Sinh! Mẹ chả muốn chúng con có mấy niềm vui nào.”

Chút niềm vui” Ellie nghiêm túc chỉnh em nó.

“Ôi im đi.”

Ellie lờ con bé và tiếp, “Miz Timmons sẽ đến đón bọn con. Con bảo với Lollie hôm Chủ Nhật là Mẹ bảo được. Thật là xấu hổ nếu con gọi cho nó và bảo Mẹ đã thay đổi quyết định.”. “Ồ, nhưng mẹ chả có mấy tiền nào mà cho chúng mày.”

Ít tiền nào, một giọng thì thầm trong đầu Jess.

“Con biết, thưa Mẹ. Chúng con chỉ xin năm đô mà Bố đã hứa với chúng con thôi. Không hơn.”

“Năm đô nào?”

“Thôi nào, Mẹ nhớ mà.” Giọng Ellie chợt trở nên ngọt ngào hơn cả một thanh Mars Bar tan chảy. “Tuần vừa rồi Bố nói là chúng con nên đi mua gì đấy cho năm học mới.”

“Đây cầm lấy.”, Mẹ nói một cách cáu bẳn, với cái ví nhựa tổng hợp của mình chỗ cái giá trên bếp lò. Bà đếm lấy năm tờ tiền nhăn nhúm.

“Mẹ” – Brenda lại bắt đầu – “cho bọn con thêm một tờ nữa đi mà? Như thế mỗi đứa chúng con sẽ được ba tờ?”

“Không!”

“Mẹ, người ta chả mua được gì với hai đô rưỡi cả. Mỗi một túi giấy vở cũng đã – “

“Không!”

Ellie đứng dậy một cách ồn ào và bắt đầu lau bàn. “Đến lượt mày rửa bát, Brenda.” Nó nói lớn.

“Ơ kìaaaa, Ellie.”

Ellie gõ nó bằng cái thìa. Jesse đã nhìn thấy ánh mắt ấy. Breda im bặt lời rên rỉ đang sắp sửa thoát ra khỏi đôi môi bóng nhẫy son Rose Lustre của nó. Nó không thông minh bằng Ellie, nhưng cũng hiểu rằng đừng dại mà quá đà với Mẹ.

Đến lúc Jess phải bắt đầu công việc thường lệ rồi. Mẹ chả bao giờ sai bọn trẻ con làm việc, kể cả thằng bé có làm được một mình thì nó cũng thường hay nhờ May Belle làm cái gì đấy. Nó lại gục xuống bàn. Cuốc chạy sáng nay làm nó mệt. Nó nghe thấy tiếng động cơ chiếc Buick già nua của nhà Timmons – “Thèm dầu.” Bố nó thường bảo – và sau đấy là âm thanh ồn ào vui vẻ ngoài cửa khi Ellie và Brenda nhập hội với bảy người nhà Timmons.

“ Được rồi, Jesse. Nhấc cái thân lười biếng của con khỏi ghế đi. Bầu sữa của Cô Bessie có khi chạm đất rồi đấy. Mà con còn phải lượm đậu nữa cơ mà.”

Lười biếng. Nó chính là đứa lười biếng. Nó tì cái đầu nặng nề khốn khổ của mình thêm một phút nữa trên mặt bàn.

“Jess-se!”

“Vâng, thưa Mẹ. Con đi đây.”

May Belle là người đến chỗ vườn đậu và thông báo với nó là có người đang chuyển vào Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin ở trang trại kế bên. Jess vuốt tóc khỏi mắt và liếc nhìn. Đúng thật. Một chiếc U-Haul đang đỗ ngay ngoài một trong những cánh cửa lớn chắp vá. Mấy người này chắc phải dọn nhiều rác lắm. Nhưng cũng không lâu đâu. Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin là một ngôi nhà nông thôn cũ kĩ già nua mà người ta chuyển vào vì chả có chỗ nào khả dĩ để đi cả, và sẽ chuyển đi nhanh nhất có thể. Sau này nghĩ lại nó thấy thật dị thường rằng nơi ấy chắc chắn là nơi quan trọng nhất đời nó, vậy mà vào lúc đó nó xem như chả có gì hết.

Bọn ruồi vo ve xung quanh khuôn mặt và đôi vai đầy mồ hôi của nó. Nó thả đám đậu vào xô và vỗ hai tay vào nhau. “Đưa anh cái áo, May Belle.”. Bây giờ bọn ruồi là vấn đề lớn hơn bất cứ chiếc U-Haul nào.

May Belle đi đến và nhặt chiếc áo từ chỗ nó bị vứt xuống trước đó. Con bé quay lại với chiếc áo kẹp trong hai ngón tay đưa ra trước, cách mũi càng xa càng tốt.

“Eoooo, mùi kinh quá.” Nó nói, nghe giống hệt Brenda.

“Im đi.” Jess nói và lấy chiếc áo khỏi tay con bé.


Chú thích:
* Red gravy: Một loại sốt cà chua (Mọi chú thích đều là của người dịch)
* Một bang phía Nam nước Mỹ. Phong cách nấu ăn ở vùng này thường có nguyên liệu chính là bí đao, cà chua, ngô và kiều mạch.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
HAI – Leslie Burke

Đến tận bảy giờ Ellie và Brenda mới về. Jess đã hoàn thành việc hái lượm và giúp Mẹ đóng hộp chỗ đậu. Bà chẳng bao giờ đóng hộp bất cứ thứ gì trừ khi trời nóng như điên, và mấy việc xào nấu biến cái bếp thành một nơi nóng như địa ngục. Đương nhiên là tâm trạng của Mẹ cũng rất tệ, bà đã hét lên với Jess suốt cả chiều và giờ thì quá mệt để nấu bữa tối.

Jess làm bánh kẹp bơ lạc cho mình và hai cô em gái, và vì trong bếp vẫn nóng lắm, lại đầy mùi đậu đến phát buồn nôn nên ba đứa ăn tối ngoài trời.

Chiếc U-Haul vẫn đậu bên ngoài Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin. Jess chả thấy ai ra ngoài cả nên chắc là họ chuyển đồ đạc xong xuôi rồi.

“Em mong là họ có con gái, sáu hay bảy tuổi gì đấy,” May Belle nói. “Em muốn có bạn để chơi cùng.”

“Có Joyce Ann còn gì.”

“Em ghét nó. Nó là đồ trẻ con.”

Miệng Joyce Ann hé ra. Hai đứa lớn nhìn cơ thể nhỏ bé run run. Rồi nó rùng mình một cái và khóc rống lên.

“Đứa nào trêu em thế?” Mẹ chúng gào lên từ trong nhà.

Jess thở dài và nhét miếng bánh kẹp cuối cùng của mình vào cái mồm đang ngoạc ra của Joyce Ann. Mắt con bé trợn trừng, cố nuốt trôi xuống họng cái món quà bất ngờ. Chắc là bây giờ thằng bé sẽ được yên tĩnh một chút.

Jess khép cánh cửa chính nhẹ nhàng sau lưng nó rồi lướt qua Mẹ, bà đang lắc lư trên chiếc ghế bếp trong lúc xem tivi. Vào phòng nơi nó và hai đứa em gái ngủ, nó luồn xuống dưới tấm đệm, lôi ra tập giấy và cái bút chì. Rồi, bụng ẹp xuống giường, nó bắt đầu vẽ.

Jess vẽ người ta uống whiskey. Cảm giác yên ổn trùm lên những suy nghĩ rối bời rồi lan xuống khắp cơ thể mệt mỏi và những cơ bắp căng cứng của nó. Chúa ơi, thằng bé thích vẽ biết bao. Thường thì là vẽ động vật. Cơ mà không phải mấy con vật tầm thường như Cô Bessie hay lũ gà qué, mà là những con vật kì dị đầy vấn đề cơ – chả hiểu vì sao nó cứ muốn mấy con quái vật của mình thành ra vô phương cứu chữa. Giờ thì nó đang vẽ một chú hà mã vừa cất mình khỏi mỏm đá, bay vòng vòng – cứ nhìn mấy đường uốn lượn là biết ngay – hướng về mặt nước phía dưới chỗ mấy con cá ngoi lên với những đôi mắt trợn tròn kinh ngạc. Có một quả bóng bay phía trên chú hà mã – chỗ đáng ra là cái đầu nhưng lại bị thế bởi cái mông – “Ồ!” cái mông kêu. “Hình như tôi quên mất cặp kính của mình thì phải.”

Jesse mỉm cười. Nếu nó đem khoe bức tranh với May Belle, kiểu gì nó cũng phải giải thích trò đùa cho con bé hiểu, nhưng nếu nó có làm thế, con bé sẽ cười giòn tan như tiếng người ta hay nghe thấy trên mấy chương trình truyền hình cho mà xem.

Nó muốn khoe tranh vẽ của mình với Bố, nhưng lại không dám. Lúc nó mới học lớp Một, nó bảo với Bố là mình muốn làm họa sĩ lúc lớn lên. Nó cứ nghĩ Bố sẽ hài lòng lắm. Nhưng không. “Họ dạy cái gì ở ngôi trường quái quỷ đó thế?” Bố nó gắt. “Một lũ mấy mụ già biến con trai ta thành cái loại....” Ông ngừng lại trước khi bật ra từ ấy, nhưng Jess hiểu rồi. Đó là một chuyện mà người ta chả thể nào quên nổi, dù bốn năm đã trôi qua.

Điều tàn nhẫn là chả có giáo viên nào thích việc vẽ vời của nó cả. Mỗi khi bắt gặp nó đang nguệch ngoạc, họ lại phàn nàn nó đang phí phạm thời gian, giấy và tài năng của mình như thế nào. Trừ Cô Edmunds, giáo viên âm nhạc. Cô là người duy nhất mà nó dám khoe thứ gì đấy với, nhưng cô chỉ ở trường mỗi một năm, rồi sau đấy thì mỗi vào thứ Sáu.

Cô Edmunds là một trong những điều bí mật của Jess. Nó yêu cô. Không phải kiểu vớ vẩn mà Ellie và Brenda hay tám trên điện thoại đâu. Tình cảm của nó quá thật và quá sâu đậm để mà nói ra, thậm chí là nghĩ đến nhiều một chút. Suối tóc đen dài suôn mượt và đôi mắt xanh thẳm. Cô có thể chơi ghi-ta như một ngôi sao phòng thu, và chất giọng thì mềm mượt nhẹ bẫng khiến Jess quắn quéo. Chúa ơi, cô ấy quá tuyệt vời. Và cô ấy còn thích nó nữa chứ.

Vào một ngày mùa đông năm ngoái, nó đã đưa cô xem một bức tranh của mình. Chỉ là nhét vào tay cô sau giờ học và chạy biến. Thứ Sáu tuần sau đó cô yêu cầu nó ở lại một chút sau giờ học. Cô bảo rằng nó “tài năng một cách bất thường”, và rằng cô mong nó sẽ không để bất cứ điều gì làm nhụt chí, mà “cứ tiếp tục việc vẽ tranh”. Điều này làm Jess tin rằng cô nghĩ nó là đứa giỏi nhất. Không phải kiểu giỏi nhất được công nhận ở trường hay ở nhà, mà là một kiểu giỏi nhất rất đặc biệt. Nó giữ suy nghĩ này sâu kín trong lòng như một kho báu cướp biển. Nó giàu có, rất giàu có, nhưng không một ai được phép biết điều đó cả, trừ người bạn bí mật của nó, Julia Edmunds.

“Nghe cứ như dân híp-pi ấy nhỉ.” Mẹ bọn trẻ nhận xét sau khi Brenda, người vừa tốt nghiệp lớp Bảy năm ngoái, miêu tả cô Edmunds cho bà nghe.

Rõ ràng cô ấy là thế mà, Jess chẳng tranh cãi gì đâu, nhưng với nó cô là một vẻ đẹp hoang dã bị cầm tù ở ngôi trường bẩn thỉu già nua này, chắc là do nhầm lẫn. Nhưng nó mong rằng, ước thì đúng hơn, cô sẽ chẳng bao giờ thoát ra và bay biến mất. Nó cố gắng chịu đựng suốt cả tuần học nhạt nhẽo dài ngoằng chỉ mong đến nửa tiếng chiều thứ Sáu ấy, khi họ yên vị trên chiếc thảm sờn rách trong phòng giáo viên ( bởi chẳng có nơi nào khác trong tòa nhà để cô Edmunds trải hết đồ đạc của cô ra cả) và hát mấy bài hát kiểu như “Quả bóng bay xinh đẹp của tôi”, “Đây là đất nước của bạn”, “Được tự do là bạn và tôi”, “Cuốn theo chiều gió”*, và bởi Thầy Turner, hiệu trưởng, cứ kiên quyết đòi, bài “Chúa phù hộ Nước Mỹ”*.

Cô Edmunds thường chơi ghi-ta, trong khi bọn trẻ được phép thay phiên vọc cây đàn hạc điện tử, mấy cái kẻng tam giác, chũm chọe, lục lạc và trống bongo. Lạy Chúa, chả thể nào mà ồn ào hơn được! Tất cả giáo viên đều ghét ngày thứ Sáu. Và rất nhiều học sinh cũng giả vờ như vậy.

Nhưng Jess biết chúng giả tạo như thế nào. Vì vẻ “híp-pi” và “cuồng hòa bình”*, dù cho Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc và chả có vấn đề gì khi lại yêu hòa bình cả, bọn trẻ thường chế giễu sự vắng bóng của son trên môi hay những vết cắt trên quần cô Edmunds. Cô thì, đương nhiên rồi, là giáo viên nữ duy nhất từng thấy mặc quần ở trường Tiểu học Lark Creek. Ở Washington hay những vùng lân cận sôi động của nó, hoặc thậm chí là ở Millsburg, thì chẳng sao, nhưng Lark Creek là nơi cực kỳ lỗi mốt thời trang. Phải mất rất lâu để người dân ở đây chấp nhận rằng cái gì họ thấy trên tivi thì rất bình thường ở những nơi khác.

Thế là bọn học sinh trường Tiều học Lark Creek ngồi ở bàn học suốt cả ngày thứ Sáu, tim gõ từng nhịp hồi hộp khi chúng lắng nghe mớ âm thanh lộn xộn vui tai thoát ra từ phòng giáo viên, rồi trải qua nửa tiếng đồng hồ với cô Edmunds dưới sự phù phép của vẻ đẹp hoang dã cũng như mắc lưới trước nhiệt huyết tỏa ra nơi cô, cuối cùng khi rời đi lại giả vờ như chúng không thể bị bịp bởi lũ híp-pi mặc quần bó với một đống trang điểm trên mắt nhưng chả có tí nào ở mồm.

Jess luôn giữ im lặng. Nó chả thể bảo vệ cô Edmunds chống lại sự bất công và giả tạo được. Với lại, cô ấy cũng chả thèm để tâm đến mấy hành động ngu ngốc ấy. Chúng chả baogiờ động chạm được tới cô. Nhưng mỗi khi có cơ hội, Jess đều tranh thủ vài phút ngày thứ Sáu chỉ để được đứng gần cô một chút và lắng nghe giọng nói của cô, chất giọng mềm mại và ngọt ngào như da lộn, đảm bảo với nó rằng nó là một đứa “giỏi giang”.

Chúng mình giống nhau, Jess thường tự nhủ, mình và cô Edmunds. Ôi Julia xinh đẹp. Những âm tiết lượn qua đầu nó như những gợn hòa âm ghi-ta. Chúng mình chẳng thuộc về Lark Creek, Julia và mình. “Em là một viên kim cương thô.” Có lần cô bảo nó thế, chạm nhẹ chót mũi nó với đầu ngón tay mình. Nhưng chính cô mới là kim cương, tỏa sáng giữa cái khung cảnh bụi bẩn, thiếu sức sống và cũ mèm này.

“Jess-se!”

Jess nhét vội tập giấy và cây bút chì xuống dưới đệm và nằm bẹp xuống, tim nó đập liên hồi trên tấm mền.

Mẹ nó đứng ngay cửa. “Con vắt sữa chưa đấy?”

Nó nhảy ngay khỏi giường. “Con đang định đi đây.” Nó vòng tránh Mẹ và đi ra ngoài, tóm lấy cái xô bên cạnh vòi nước và cái ghế chỗ cánh cửa, bước thật nhanh trước khi Mẹ có cơ hội hỏi nó vừa làm gì.

Ánh sáng tràn ra ngoài từ cả ba tầng ở Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin. Trời sắp tối. Bầu sữa của Cô Bessie căng đầy, và con vật bồn chồn vẻ khó chịu. Đáng ra nó phải được vắt sữa từ mấy tiếng trước rồi mới phải. Jess trấn tĩnh ngồi lên ghế và bắt đầu vắt, dòng sữa nóng tuôn vào xô. Dưới đường một chiếc xe tải với đèn pha bật sáng cứ thỉnh thoảng lại tạt qua.

Bố nó sắp về rồi, và chắc là cả mấy đứa chị láu cá đã trốn đi chơi, bỏ lại Mẹ và nó với một đống việc. Nó tự hỏi hai chị đã mua gì với số tiền chúng có được. Lạy Chúa, nó chả tiếc gì để có được một tập vẽ mới với giấy vẽ xịn và một hộp bút vẽ có tên tuổi – màu sắc tuôn chảy trên giấy ngay từ khi bạn mới chỉ nghĩ thôi. Chứ không phải là đống màu sáp cụt ngủn một mẩu mà bạn cứ phải ấn xuống đến mức có người xì xào về việc bạn làm gẫy chúng.

Một chiếc xe tấp vào. Là nhà Timmons. Hai cô gái đã về trước Bố. Jess nghe chúng kêu lên vui vẻ khi cánh cửa xe sập lại. Mẹ sẽ chuẩn bị bữa tối cho chúng, và khi nó bước vào với xô sữa, nó sẽ thấy tất cả mọi ngời đều đang cười nói. Mẹ có khi còn quên luôn việc mình đang mệt và cáu như thế nào ấy chứ. Jess là người duy nhất phải chịu đựng tất cả những việc ấy. Thỉnh thoảng nó thấy thật cô đơn giữa đám phụ nữ này – ngay cả con gà trống duy nhất cũng chết rồi, và họ vẫn chưa mua một con mới. Bố thì đi suốt từ sáng tinh mơ đến tận tối mịt, có ai để mà quan tâm đến cảm giác của nó đâu? Cuối tuần cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Bố nó quá mệt với đủ thứ lao lực trong tuần và quá cố gắng để bắt kịp với mọi thứ đến mức khi không làm việc thì ông ngủ gục luôn trước cái tivi.

“Anh Jesse.” Là May Belle. Đứa trẻ ngốc nghếch chẳng để cho người ta được yên ổn suy nghĩ.

“Em muốn gì hả?”

Nó nhìn con bé rụt người lại. “Em có chuyện muốn nói với anh.” Con bé ôm lấy đầu mình.

“Đáng ra em phải ở trên giường rồi mới phải.” Thằng bé hơi cáu kỉnh, bực mình với bản thân vì làm con bé mất hứng.

“Ellie với Brenda đang về”

Đã. Đã về.” Sao nó không thể ngừng kiếm chuyện với con bé nhỉ? Nhưng tin tức của con bé quá sốt dẻo khiến thằng bé không thể ngừng nó nói tiếp. “Ellie mua cho chị ấy một cái áo sơ mi trong suốt, và Mẹ đang cáu điên lên ấy!”

Tốt, thằng bé nghĩ thầm. “Đấy đâu phải chuyện gì đáng vui mừng.”, nó nói.

Brừm, brừm, brừm. (tiếng xe)

“Bố về!” May Belle hét lên sung sướng và chạy biến ra đường. Jess nhìn bố nó đỗ chiếc xe tải, nhoài người qua để mở cửa cho May Belle chui vào. Nó quay đi. Đồ may mắn. Con bé có thể chạy theo ông ấy, bám lấy ông và hôn ông. Jess đau đớn khi thấy Bố áp mấy đứa bé lên vai, hay cúi xuống và ôm lấy chúng. Nó cảm thấy như thế mình đã quá lớn cho việc ấy kể từ khi được sinh ra thì phải.

Khi cái xô đã đầy, nó vỗ Cô Bessie bước tránh sang một bên. Kẹp cái ghế dưới cánh tay, nó xách cái xô thật cẩn trọng, để không giọt sữa nào sánh ra ngoài.

“Vắt sữa muộn thế, con trai?”. Đó là câu duy nhất Bố nói với nó cả buổi tối hôm ấy.

Sáng hôm sau nó suýt thì không dậy trước tiếng động cơ chiếc xe bán tải. Nó cảm thấy, trước cả khi hoàn toàn tỉnh táo, rằng nó mệt như thế nào. Nhưng May Belle cười nhăn nhở, thúc nó bằng một khuỷu tay. “Anh không chạy sao?”, con bé hỏi.

“Không”, nó trả lời, lật tấm mền qua một bên. “Anh sẽ bay.”

Vì mệt mỏi hơn bình thường, thằng bé sẽ phải cố gắng hơn nữa. Nó giả vờ như Wayne Pettis đang ở đó, ngay phía trước mình, và nhiệm vụ của nó là phải bắt kịp thằng bé. Đôi chân nó nện xuống mặt đất gồ ghề, đôi tay vung vẩy ngày càng mạnh. Jess phải bắt được nó. “Đợi đấy, Wayne Pettis,” nó rít qua kẽ răng “Tao sẽ bắt được mày. Mày không đánh bại tao được đâu.”

“Nếu cậu sợ con bò đến thế,” Một giọng nói cất lên, “thì sao không trèo qua hàng rào ấy.”

Thằng bé dừng khựng lại như một cảnh quay trên tivi và xoay người lại, suýt mất thăng bằng, đối diện với người vừa đặt câu hỏi đang ngồi đung đưa đôi chân trần rám nắng trên cái hàng rào gần Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin nhất. Người đó có mái tóc nâu lởm chởm ôm lấy khuôn mặt và mặc trên người một thứ trông như chiếc áo may ô màu xanh cùng chiếc quần bò bạc phếch ngắn trên đầu gối. Jess không nhận ra đó là con trai hay con gái nữa.

“Chào,” Thằng bé, hoặc con bé, nói, hất đầu về phía Ngôi nhà của Perkin, “chúng mình vừa chuyển đến.”

Jess vẫn đứng sững với cái nhìn chằm chằm trên mặt.

Đứa trẻ trượt khỏi hàng rào và tiến về phía Jess. “Mình nghĩ chúng mình có thể làm bạn với nhau đấy,” nó nói, “chả có ai khác ở gần đây cả.”

Con gái, thằng bé quyết định. Chắc chắn là con gái, nhưng nó cũng chả giải thích được tại sao nó khẳng định thế. Con bé trông có vẻ cao bằng nó – à không đến, Jess thấy dễ chịu vì nhận ra điều ấy khi con bé đến gần hơn.

“Tên mình là Leslie Burke.”

Nó thậm chí còn có cái kiểu tên ngu ngốc dùng được cho cả hai giới nữa chứ, nhưng giờ thì thằng bé biết là nó đã đúng.

“Sao thế?”

“Hở?”

“Có chuyện gì à?”

“Ừ. À không.” Thằng bé chỉ tay về phía nhà mình, gạt mớ tóc khỏi trán. “Jess Aarons.” Thật tệ là cô bạn theo mong ước của May Belle hơi quá tuổi. “À ừm.” Nó gật đầu với con bé. “Gặp lại sau nhé.” Nó quay lưng đi về nhà. Chả có ích gì nếu cố chạy tiếp bây giờ cả. Có lẽ nó nên vắt sữa cho Cô Bessie và khiến con bé biến khỏi đây.

“Ê!” Leslie đứng giữa bãi chăn thả, đầu ngẩng cao và tay chống nạnh. “Cậu đi đâu đấy?”

“Tôi có việc phải làm.” thằng bé nói qua vai. Khi nó quay lại với cái xô và chiếc ghế, con bé đã đi rồi.


Chú thích:
*Một số bài hát tiếng Anh: “My Beautiful Balloon”, “This Land Is Your Land”, “Free to be You and Me”, “Blowing in the Wind”, “God Bless America”.
*Cuồng hòa bình - Peacenik: Nhưng người tham gia vào việc phản đối chiến tranh bằng cách vận động, biểu tình, thường gây lùm xùm và mất trật tự.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
BA – Đứa trẻ nhanh nhất khối Năm

Jess không chạm mặt Leslie thêm lần nào cho đến ngày đầu tiên đi học trở lại, ngày thứ Ba của tuần sau đó, khi Thầy Turner đưa con bé vào lớp Năm của Cô Myers ở trường Tiểu học Lark Creek.

Leslie vẫn mặc quần mài rách và áo may ô xanh lần trước. Con bé đi giầy nhưng không đi tất. Bất ngờ xuất hiện giữa lớp học như nhiệt lượng tỏa ra từ nắp một bộ tản nhiệt. Tất cả mọi người đều ngồi ngay ngắn với bộ cánh Chủ Nhật đẹp nhất khoác trên mình. Ngay cả Jess cũng mặc một chiếc quần nhung với áo sơ mi đã ủi.

Phản ứng của mọi người có vẻ không làm phiền con bé. Nó đứng trước lớp, đôi mắt như muốn nói: “Được rồi, các bạn, tôi đây.”, đáp lại những cái mồm há hốc và những cái nhìn chằm chằm trong khi cô Myers kích động trong việc tìm ra một chỗ để đặt thêm một chiếc bàn. Phòng học vốn chỉ là một phòng chứa đồ nhỏ, và năm dãy bàn với sáu chiếc mỗi dãy đã quá đủ để chiếm hết không gian rồi.

“Ba mươi mốt,” Cô Myers cứ lẩm bẩm trên cái cằm hai ngấn của cô, “Ba mươi mốt. Mấy người khác chả ai có hơn hai mươi chín cả.” Cuối cùng cô quyết định đặt chiếc bàn lên phía trước, chỗ sát tường. “Tạm thời cứ thế đã, ờ, Leslie. Bây giờ thì thế là tốt nhất rồi. Đây là một phòng học rất đông đúc đấy.” – Cô nói và ném một cái nhìn sắc nhọn về phía thầy Turner đang rút lui khỏi lớp học.

Leslie im lặng chờ đợi mấy thằng bé lớp Bảy được cử xuống với chiếc bàn mới và ráp nó chặt cứng vào bên cạnh chiếc máy sưởi, ngay dưới cái cửa sổ đầu tiên. Không gây một tiếng động nào, con bé đẩy chiếc bàn lên một chút xa khỏi chiếc máy sưởi và ngồi vào đó. Sau đó nó lại liếc nhìn cả lớp một cái nữa.

Ba mươi cặp mắt chợt nhìn dán vào mấy vết khắc trên các mặt bàn. Jess di ngón tay quanh một hình trái tim với hai từ viết tắt, BR + SK, cố gắng tìm ra ai đã ngồi ở bàn này trước nó. Chắc là Sally Koch. Bọn con gái khối Năm thường vẽ nhiều trái tim hơn bọn con trai. Với lại BR chắc chắn phải là Billy Rudd, và Billy thì được biết là thích Myrna Hauser vào mùa xuân năm ngoái. Đương nhiên, mấy vết rạch này có thể đã ở đây từ lâu lắm rồi, mà như thế thì…

“Jesse Aarons. Bobby Greggs. Giúp tôi phát sách toán. Làm ơn.” Cô Myers kết thúc câu nói của mình bằng nụ cười ngày-đầu-đi-học nổi tiếng của mình. Mấy đứa khối trên kháo nhau rằng cô Myers chẳng bao giờ cười trừ ngày đầu tiên và ngày cuối cùng của năm học. Jess đứng dậy và đi lên phía trước. Lúc nó đi qua bàn của Leslie, con bé cười tít mắt và động đậy mấy ngón tay chào nó. Jess đáp lại bằng một cái gật đầu. Nó không thể không thấy thương con bé. Chắc hẳn phải xấu hổ lắm khi phải ngồi trước cả lớp trong khi ăn mặc rõ lố bịch vào ngày đầu đi học. Và nó còn chả quen ai nữa chứ. Jess đặt mấy quyển sách xuống theo chỉ dẫn của cô Myers. Gary Fulcher tóm lấy tay nó lúc nó đi ngang qua. “Chạy chứ?”, Jess gật và Gary cười giả lả. Nó nghĩ nó thắng được mình à, thằng ngốc. Jess nghĩ và cảm thấy bụng nó cuộn lên. Nó biết là nó đã giỏi hơn mùa xuân trước nhiều lắm. Fulcher hẳn nghĩ rằng nó sẽ là người giỏi nhất, vì giờ thì Wayne Pettis đã lên lớp Sáu rồi, nhưng nó, Jess, sẽ cho Fulcher một bất ngờ nho nhỏ lúc trưa nay. Và Jess thấy chộn rộn như nó vừa nuốt một con châu chấu vậy. Thật không thể nào mà đợi được.

Cô Myers phát mấy quyển sách như thể cô là Tổng thống Hoa Kỳ, kéo dài lê thê việc phân phát như các bản kí kết và các lễ nghi vô nghĩa. Điều này làm Jess nghĩ rằng ngay cả cô cùng đang cố trì hoãn việc học hành càng lâu càng tốt. Những lúc không phải lượt nó phát sách, Jess lén lấy ra một mẩu giấy vở và vẽ. Nó có ý định làm một quyển vở toàn các hình vẽ. Thường thì thằng bé chọn một nhân vật chính và vẽ truyện về nhân vật đó. Nó nguệch ngoạc vô vàn những con vật và cố nghĩ ra một cái tên. Một tiêu đề tốt sẽ tạo động lực cho nó. Hồn ma chú Hà mã? Nó thích cái âm điệu này. Herby – Hồn ma chú Hà Mã? Còn tuyệt hơn. Vụ con Cá sấu Vặn vẹo. Cũng không tệ.

“Mày vẽ cái gì thế?” Gary Fulcher rướn người lên từ chỗ ngồi của nó.

Jess lấy tay che đi tờ giấy. “Có gì đâu.”.

“Thôi nào. Cho tao xem đi.”

Jess lắc đầu.

Gary với tới và cố kéo tay Jess khỏi tờ giấy. “Vụ con Cá sấu – thôi nào, Jess” nó thầm thì bằng giọng khàn khàn, “tao chả làm gì mày đâu mà.” nó lại nói và kéo mạnh ngón cái của Jess.

Jess bỏ cả hai tay đè lên tờ giấy và tấn gót đôi giày đế mềm của nó lên ngón chân của Gary Fulcher.

“Áiiii!”

“Các chàng trai!” Nụ cười mềm mại như bánh chanh đã biến mất khỏi khuôn mặt cô Myers.

“Nó dẫm vào chân em.”

“Ngồi xuống đi, Gary.”

“Nhưng nó - ”

“Ngồi xuống!”

“Jess Aarons. Thêm một tiếng động từ phía anh thì ở lại đây vào giờ ra chơi cho tôi. Chép từ điển.”

Mặt Jess đỏ bừng. Nó nhét mảnh giấy vở xuống dưới ngăn bàn và cúi gằm xuống. Nguyên một năm thế này. Rồi lại tám năm nữa y hệt thế này. Nó không chắc mình có thể chịu đựng nổi không nữa.

Bọn trẻ ăn trưa ngay tại bàn của mình. Trên quận đã hứa cho Lark Creek một phòng ăn suốt từ hai mươi năm nay rồi, nhưng hình như chả bao giờ có đủ kinh phí cả. Jess sợ mất mấy phút ra chơi quý giá đến nỗi ngay cả lúc này nó cũng đang nhai miếng bánh kẹp của mình với đôi môi mím chặt và cặp mắt nhìn như dán dính vào trái tim với cặp tên viết tắt trên bàn. Xung quanh nó bọn trẻ nói chuyện rì rầm. Chúng đáng ra không được trò chuyện trong khi ăn, nhưng hôm nay là ngày đầu đến lớp nên con rồng cái Myers cũng ít thét ra lửa hơn bình thường.

“Nó ăn kem chua chúng mày ạ.” Trước Jess hai hàng ghế, Mary Lou Peoples diễn vai của mình là đứa con gái thích càu nhàu thứ hai trong cả khối Năm.

Sữa chua đấy, đồ đần. Mày không xem tivi à?” Câu này phát ra từ chỗ Wanda Kay Moore, đứa hay càu nhàu nhất, ngồi đúng chóc ngay trước mặt Jess.

“Eo.”

Chúa ơi, sao chúng nó không thể để người ta yên nhỉ? Mà sao Leslie Burke không được phép ăn bất cứ cái quỷ gì mà nó thích chứ?

Thằng bé quên mất là nó đang cố ăn trong yên lặng và hút sữa của nó cái rột.

Wanda Moore quay xuống, mặt rõ trịch thượng. “Jess Aarons. Tiếng ấy thực sự rất kinh đấy.”

Jess nhìn con bé thách thức rồi lại hút rột thêm cái nữa.

“Mày tởm thật đấy.”

Renggggg. Tiếng chuông báo hiệu giờ chơi đã vang lên. Với một tiếng kêu sung sướng, bọn con trai xô đẩy nhau để được ra cửa trước nhất.

“Tất cả con trai ngồi hết xuống.” Ôi trời. “Con gái xếp thành một hàng và ra sân chơi đi. Ưu tiên phụ nữ.”

Bọn con trai bám vào cạnh bàn của chúng chặt đến phát run, chả khác nào mấy chú bướm đang đấu tranh để thoát khỏi tổ kén. Chả lẽ mụ không cho chúng đi thật ư?

“Được rồi, bây giờ đến các anh...” Chúng không cho bà giáo thời gian để thay đổi ý kiến. Và trước khi cô nói hết câu thì chúng đã chạy qua được hơn nửa khoảnh sân rồi.

Hai đứa đến đầu tiên bắt đầu dùng ngón chân vẽ để vạch đích. Mặt đất có mềm đi sau mùa mưa vừa qua, nhưng đã cứng lại dưới cái nắng gay gắt của mùa hè, cuối cùng bọn trẻ phải từ bỏ việc dùng chân và vẽ vạch đích bằng một cái que. Bọn con trai khối Năm, phấn khích trước vị trí và quyền lực mới có của mình, chỉ đạo lũ nhóc khối Bốn sắp xếp đội hình hết kiểu này đến kiểu khác, trong khi lũ nhỏ cố tìm chỗ đứng cho mình để trông không bị nổi bật quá.

“Đứa nào sẽ chạy hả?” Gary Fulcher xướng lên.

“Tao-tao-tao.” Bọn trẻ đồng loạt hét lên.

“Thế thì nhiều quá. Không một đứa lớp Một, Hai hay Ba nào được chạy trừ anh em nhà Butcher với Timmy Vaughn. Tất cả lũ còn lại dẹp đường đi.”

Mấy đứa nhóc đành tránh ra một cách tuân phục với đôi vai rũ xuống.

“OK. Thế là hai sáu, hai bảy, nào đứng yên đi, hai tám. Thế là hai mươi tám, đúng không Greg?” Fulcher hỏi Greg Williams, cặp bài trùng của nó.

“Ờ là hai tám đấy.”

“Nào bây giờ thì chúng ta sẽ loại trừ như mọi khi. Cứ bốn đứa một. Sau đấy thì tất cả sẽ chạy cùng nhau vòng một, rồi vòng hai...”

“Rồi rồi, biết cả rồi.” Bọn trẻ mất hết kiên nhẫn với Gary, cái thằng cứ muốn thể hiện sao cho giống Wayne Pettis của năm học này.

Jess là một đứa chạy ở lượt thứ tư. Nó không thể đợi để được chạy, nhưng cũng không phiền khi có cơ hội được xem xem mấy đứa khác làm ăn thế nào từ đợt mùa xuân. Fulcher chạy đầu tiên, lẽ tất nhiên, nó luôn muốn tự mình bắt đầu mọi thứ. Jess nhăn răng cười với cái lưng của Fulcher và nhét tay vào túi chiếc quần nhung của nó, ngó ngoáy ngón trỏ qua cái lỗ thủng ở đó.

Gary thắng lượt đầu tiên một cách dễ dàng và vẫn còn đủ hơi sức để sắp xếp lượt thứ hai. Mấy thằng nhóc bé hơn đã chọn cho mình một khoảng đồi giữa sân trên và sân dưới để chơi trò Vua Núi*. Từ khóe mắt, Jess thấy ai đó đang đi xuống từ sân trên. Nó liền quay lưng lại và giả vờ như đang chú ý đến cái giọng chỉ huy eo éo của Fulcher.

“Chào.” Leslie Burke xuất hiện bên cạnh nó.

Thằng bé hơi quay người đi. “Ừ.”

“Cậu không chạy à?”

“Lát nữa.” Nếu Jess không nhìn con bé, chắc nó sẽ quay về sân trên nơi nó đáng ra phải có mặt lúc này.

Gary bảo Earle Watson ra hiệu bắt đầu cuộc đua. Jess quan sát. Trong đám đấy chẳng

được mấy đứa giỏi. Nó đánh mắt xuống phần thắt lưng đám trẻ và cúi mình xuống.

Một vụ ẩu đả nổ ra giữa Jimmy Mitchell và Clyde Deal ở chỗ vạch đích. Bọn trẻ ùa đến xem. Jess biết là Leslie Burke ở ngay sau nó, nhưng nó cẩn thận tránh nhìn về phía cô nàng.

"Clyde." Gary Fulcher tuyên bố. " Clyde thắng."

"Hòa mà, Fulcher," Một đứa lớp Bốn phản đối. "Nãy tao đứng ngay đây."

"Clyde Deal."

Jimmy Mitchell nghiến chặt răng. "Tao thắng, Fulcher. Mày nhìn thế quái nào được từ phía đấy."

"Deal thắng." Gary phớt lờ những lời phản đối. "Mà chúng ta đang lãng phí thời gian đấy. Bọn lượt ba vào hang. Ngay lập tức."

Jimmy giơ nắm đấm lên. "Không công bằng, Fulcher."

Gary quay lưng đi về phía vạch xuất phát.

"Ê, cứ để cả hai bọn nó chạy trong trận chung kết đi. Có chết ai đâu?" Jess nói lớn.

Gary ngừng bước và quay lại nhìn nó. Lúc đầu thằng bé nhìn Jess, rồi nhìn sang Leslie Burke. “Sau đấy,” nó nói, giọng đầy mỉa mai, “sau đấy thì mày muốn cho cả lũ con gái chạy hả.”

Mặt Jess đỏ bừng. “Ừ đấy,” nó nói một cách bất cần. “Tại sao không chứ?” Rồi nó quay ngoắt sang Leslie. “Chạy không?” nó hỏi.

“Ừ.” Con bé cười toe. “Sao lại không chứ?”

“Mày không sợ đến mức không cho con gái chạy chứ, Fulcher?”

Trong một khoảnh khắc nó tưởng Gary sẽ đấm nó và cứng người lại. Nó không thể để Fulcher nghi ngờ là nó sợ một cú đấm móc được. Nhưng Gary bỏ đi rất nhanh và bắt đầu chỉ đạo bọn lượt ba xếp hàng cho màn khởi động của chúng.

“Cậu có thể chạy với bọn lượt bốn, Leslie.” Jess nói thật to để chắc là Fulcher có nghe thấy nó rồi lại tập trung vào những tay đua. Thấy chưa, nó tự nhủ, mày có thể đối đầu với đứa như Fulcher mà không đổ giọt mồ hôi nào nhé.

Bobby Miller thắng lượt ba một cách dễ dàng. Nó là đứa nhanh nhất khối Bốn, gần như nhanh bằng Fulcher. Nhưng còn khướt mới bằng mình, Jess nghĩ. Nó bắt đầu phấn khích không chịu nổi nữa. Chả có đứa nào ở lượt bốn đủ trình đua với nó cả. Nhưng cứ chạy thật tốt để Fulcher sợ chơi.

Leslie đứng vào bên cạnh nó, chuẩn bị chiến đấu. Nó liền dịch một xíu sang bên trái, nhưng cô nàng hình như chả để tâm.

Jess bật người về phía trước ngay khi có tín hiệu bắt đầu. Mọi thứ mang lại cảm giác thật tuyệt, kể cả mặt đất đầy sỏi đá cọ vào lòng bàn chân qua đế đôi giày mòn vẹt. Nó đang chạy rất tốt. Thậm chí nó có thể ngửi thấy trong không khí sự ngạc nhiên của Gary Fulcher trước tiến bộ mà nó đạt được. Đám đông khán giả ồn ào hơn hẳn so với các lượt đua trước. Chắc hẳn tất cả mọi người đều nhận thấy sự tiến bộ của nó. Jess thực sự muốn ngoái lại xem xem lũ đối thủ của nó đang ở đâu, nhưng nó kìm được. Nó sẽ trông giống một đứa khoe khoang nếu quay lại nhìn. Jess tập trung vào vạch đích trước mặt. Đường kẻ tiến gần lại nó sau mỗi nhịp chạy. “Ôi, Bessie, giá mà mày nhìn thấy tao lúc này.”

Nó cảm thấy điều đó trước khi tận mắt nhìn thấy. Một ai đó đang cố vượt lên. Nó liền tự động guồng chân nhanh hơn. Người đó giờ đã lọt vào khóe mắt nó ở đường chạy bên cạnh. Và đột nhiên vượt qua nó. Giờ thì Jess dốc tất cả sức lực của mình ra. Từng hơi thở dội vào mạng sườn nó đau đớn, và mắt nó thì đầy mồ hôi. Nhưng nó vẫn nhận ra cái dáng hình vừa vượt mình. Chủ nhân chiếc quần bò rách bạc màu vượt qua vạch đích trước nó ba thước tròn.

Leslie quay lại với một nụ cười toét tận mang tai trên khuôn mặt rám nắng. Jess vấp ngã và không một lời, nửa đi nửa lê về phía vạch xuất phát. Hôm nay đáng lẽ ra là ngày mà nó trở thành người chiến thắng – người chạy nhanh nhất khối Bốn và khối Năm, thế mà giờ nó còn chả thắng nổi vòng loại. Không có một tiếng hoan hô nào ở cả hai đầu sân. Tất cả lũ con trai đều kinh ngạc như nó. Chắc chắn sau này chúng nó sẽ trêu chọc, Jess biết thế, nhưng ít nhất ngay lúc này đây thì chả đứa nào thốt được nên lời.

“OK.” Fulcher lên tiếng. Nó cố thể hiện là mình đang nắm quyền. “Được rồi, chúng mày. Xếp hàng cho vòng chung kết đi.” Rồi nó đi đến chỗ Leslie. “ Này, mày đã được vui chơi rồi. Giờ thì biến về sân trên của mày đi.”

“Nhưng tao thắng vòng loại mà.” Con bé kêu.

Gary cúi đầu xuống như một con bò đấu. “Con gái thì không được chơi ở sân dưới. Lên đó đi trước khi bất cứ giáo viên nào nhìn thấy mày.”

“Tao muốn chạy.” Con bé nói khẽ.

“Mày đã được chạy rồi.”

“Sao thế, Fulcher?” Cơn giận làm Jess bùng nổ. Và thằng bé không thể ngừng nó lại. “Chuyện gì thế? Mày sợ đấu với bạn ấy à?”

Fulcher giơ nắm đấm lên. Nhưng Jess quay lưng đi. Fulcher sẽ cho con bé chạy, nó biết thế. Và Fulcher đã làm thế, một cách giận dữ và miễn cưỡng.

Con bé giành chiến thắng. Nó bước tới trước và lướt đôi mắt to và sáng khắp lượt những gương mặt đầy mồ hôi vừa đần độn, vừa tức giận. Chuông reo. Jess băng ngang qua khoảnh sân, tay nhét sâu trong túi quần. Leslie bắt kịp nó. Thằng bé liền rút tay ra khỏi túi và vung vẩy đi về phía đồi. Con bé đã đem lại cho nó quá nhiều rắc rối rồi. Nhưng Leslie tăng tốc, không chịu bị lờ đi.

“Cảm ơn.” nó nói.

Ờ? Tại sao chứ?”, thằng bé nghĩ.

“Cậu là đứa duy nhất trong cả cái trường ngu ngốc này đáng để tâm* đến.”. Thằng bé không chắc lắm, nó nghĩ giọng con bé có vẻ hơi run rẩy, nhưng nó sẽ không thấy tội nghiệp cho con bé nữa đâu.

“Thế đập* tôi đi.”, thằng bé đáp.

Trên xe buýt về nhà chiều hôm ấy, thằng bé làm một điều mà nó chưa từng làm trước đây. Nó chọn chỗ ngồi cạnh May Belle. Đó là cách duy nhất để chắc chắn rằng nó sẽ không phải ngồi cạnh Leslie. Chúa ạ, con bé ấy chả thèm để ý tí nào đến những điều người khác làm hoặc không làm. Thằng bé nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, nhưng nó biết rằng con bé đã đến và ngồi ngay hàng ghế đối diện với chúng bên kia lối đi.

Nó nghe thấy con bé gọi “Jess” một lần, nhưng trên xe khá ồn ào nên nó có thể giả vờ là chưa nghe thấy gì hết. Khi xe dừng ở bến, thằng bé tóm lấy tay May Belle và kéo cô nhóc xuống xe, vẫn cảm thấy Leslie ngay sau lưng chúng. Nhưng con bé không thử nói chuyện với
nó thêm một lần nào nữa, cũng không đi theo hai đứa. Con bé chỉ đơn giản là bắt đầu chạy về phía Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin. Jess không thể ngăn mình nhìn theo. Con bé chạy như thể đó là bản năng của nó vậy. Dáng chạy của nó làm Jess nhớ đến vũ điệu của bầy vịt trời vào mùa thu. Rất thanh thoát. Cụm từ “đẹp đẽ” lướt qua đầu thằng bé, nhưng nó xua ý nghĩ đó đi và cắm cúi đi về nhà mình.

Chú thích:

* Vua Núi - King of the Mountain: Một trò chơi trẻ con, giống trò đánh trận giả của Việt Nam.
*để tâm/đập – shooting/shoot: (chơi chữ) Jess cố ý hiểu sai câu nói của Leslie.
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
BỐN– Luật của Terabithia

Bởi trường bắt đầu hoạt động vào thứ Ba đầu tiên sau Lễ Lao Động, nên tuần học đầu tiên khá ngắn. Đó là một điều may mắn bởi mỗi ngày dường như tệ hơn ngày trước đó. Leslie tiếp tục tham gia cùng bọn con trai trong những cuộc đua, và đều giành chiến thắng. Đến thứ Sáu thì một phần lũ con trai khối Bốn và khối Năm đã bỏ đi chơi Vua Núi trên sườn đồi giữa hai khoảng sân. Bởi vì số người còn lại tham gia chạy chỉ đếm được trên đầu ngón tay, chúng thậm chí chả phải thi vòng loại nữa, và như thế thì sự hồi hộp cũng gần như biến mất. Thi chạy không còn vui nữa. Và tất cả đều là lỗi của Leslie.

Jess biết nó sẽ chẳng bao giờ trở thành đứa chạy nhanh nhất khối Bốn, khối Năm, và niềm an ủi duy nhất mà nó có được là Gary Fulcher cũng thế. Chúng vẫn tiếp tục cuộc đua vào ngày thứ Sáu, nhưng khi tàn cuộc và Leslie lại thắng lần nữa, tất cả mọi người đều biết, mà không cần trao đổi lời nào, là cuộc đua tranh như vậy là kết thúc.

Ít ra thì hôm ấy là thứ Sáu, và cô Edmunds đã quay trở lại. Khối Năm có tiết Âm nhạc ngay sau giờ nghỉ. Jess đã gặp cô Edmunds trong hành lang sớm hôm ấy, cô chặn nó lại và đổ lên nó tới tấp một đống câu hỏi. “Em vẫn vẽ trong đợt nghỉ hè vừa rồi chứ?”

“Cô có được phép xem các bức tranh của em không hay đó là bí mật?”

Jess gạt mớ tóc của nó khỏi cái trán đỏ bừng. “Em sẽ cho cô xem chúng.”

Cô cười khoe hàm răng trắng đều như bắp và lắc đầu cho suối tóc đen suôn mượt chảy dài sau lưng. “Tuyệt!”, cô nói. “Hẹn gặp lại.”

Jess gật đầu và mỉm cười. Nó thấy người ngây ngất và tê dại đến tận đầu ngón chân.

Giờ khi đã yên vị trên tấm thảm trong phòng giáo viên, cảm giác ấm áp ấy lại xuất hiện và quét ngang người nó cùng với âm điệu trầm bổng trong giọng cô Edmunds. Ngay cả khi cô nói một cách bình thường, chất giọng ấy cũng như nở ra từ bên trong cô, đa sắc và đầy nhạc điệu.

Cô Edmunds nghịch cây ghi-ta của mình một lúc, vẫn nói trong khi vừa chỉnh lại dây chiếc vòng tay leng keng của cô, vừa lướt ngón tay qua những dây đàn. Cô mặc chiếc quần bò thường mặc và ngồi đó trước bọn trẻ, chân này vắt lên chân kia như thể đó là việc mọi giáo viên đều làm. Cô hỏi một số đứa về tình hình cũng như kì nghỉ hè của chúng. Và bọn chúng lẩm bẩm gì đó đáp lại cô. Cô không nói chuyện trực tiếp với Jess, nhưng nhìn nó với đôi mắt quả hạnh xanh biếc làm lồng ngực nó rung lên như một trong những chiếc dây đàn mà cô vừa lướt tay qua.

Cô hướng sự chú ý đến Leslie và yêu cầu một lời giới thiệu, và một đứa trong lũ con gái đã làm điều đó một cách hết sức tỉ mỉ. Sau đó, cô Edmunds cười với Leslie, và con bé cười đáp lại – nụ cười đầu tiên mà Jess có thể nhớ được từ sau khi con bé thắng cuộc đua hôm thứ Ba. “Em muốn hát bài gì, hả Leslie?”

“Ồ, gì cũng được ạ.”

Cô Edmunds gảy một vài hợp âm không ăn nhập gì và bắt đầu hát, nhỏ hơn những lần trước khi hát bài hát này rất nhiều:

Trước mắt tôi là một vùng đất thật tươi sáng và quang đãng. Sắp đến lúc rồi đấy. Chúng ta sẽ sống ở đây. Bạn và tôi, tay trong tay.” *

Và mọi người bắt đầu hòa giọng, lúc đầu khá nhỏ, để hòa với tâm trạng của cô giáo, nhưng khi bài hát lên đến cao trào ở phần cuối, giọng bọn trẻ cũng ngân lên theo, và thế là khi hát đến câu cuối “Được tự do là bạn và tôi.”, thì cả trường đều nghe thấy giọng hát của họ. Cuốn theo niềm hân hoan của khung cảnh lúc này, Jess quay sang và bắt gặp ánh mắt của Leslie. Nó cười với con bé. Chuyện quái gì vậy? Chả có lý do gì để nó không làm thế cả. Nó sợ cái gì cơ chứ? Chúa ơi. Thỉnh thoảng nó xử sự cứ như một con gõ kiến bụng vàng* chính hiệu ấy. Thằng bé gật đầu và mỉm cười lần nữa. Và con bé đáp lại nụ cười ấy. Jess cảm thấy ngay lúc ấy, trong phòng giáo viên, rằng một trang mới trong cuộc đời nó vừa được mở ra, và nó không ngần ngại để điều ấy xảy ra.

Thằng bé không cần phải thông báo với Leslie rằng nó đã thay đổi cách nhìn nhận con bé. Con bé đã biết rồi. Nó quăng mình xuống cạnh Jess trên xe buýt chiều hôm ấy và lùi sát về phía thằng bé để lấy chỗ cho May Belle ngồi cùng với chúng. Con bé kể về Arlington*, về ngôi trường lớn ở ngoại ô mà nó đã theo học với phòng học nhạc tuyệt đỉnh, nhưng không có một giáo viên nào xinh đẹp hay tốt bụng như cô Edmunds.

“Các cậu có sân tập không?”

“Có chứ. Mà tớ nghĩ trường nào chả có. À ý tớ là phần lớn các trường.” Con bé thở dài. “Tớ nhớ nó lắm. Tớ thực sự giỏi thể dục dụng cụ mà.”


“Chắc cậu ghét ở đây lắm.”

“Ừ.”

Con bé im lặng một lúc, suy tư, Jess cũng suy nghĩ về ngồi trường cũ của con bé, ngôi trường mà chỉ qua lời kể nó đã thấy vừa to vừa mới, lại có cả một sân tập sáng bóng to hơn cả cái ở trường trung học tổng hợp.

“Vậy chắc cậu cũng có nhiều bạn ở đó lắm.”

“Ừ.”

“Sao cậu lại về đây?”

“Bố mẹ tớ cần sắp xếp lại thứ tự các giá trị của họ.”

“Hả?”

“Bố mẹ tớ cho rằng họ đã quá chú trọng vào tiền bạc và thành công, nên họ mua lại cái trang trại cũ mèm đó để trồng trọt và suy nghĩ xem cái gì mới là quan trọng.”

Jess há hốc miệng nhìn con bé chằm chằm. Nó biết vậy nhưng không tài nào khép miệng lại được. Đó là điều kì cục nhất mà nó từng nghe từ trước tới nay.

“Nhưng cậu là người phải chịu thiệt.”

“Ừ.”

“Sao họ không nghĩ cho cậu chứ?”

“Gia đình tớ đã bàn bạc rồi.”, con bé nhẫn nại giải thích. “Tớ cũng muốn đến đây nữa.” Nó nhìn qua vai Jess ra ngoài cửa sổ. “Cậu chẳng bao giờ biết được cái gì đang chờ đợi phía trước hết.”

Xe buýt dừng. Leslie nắm lấy tay May Belle và dẫn cô nhóc xuống. Jess đi theo, vẫn băn khoăn vì sao hai người lớn và một cô gái thông minh như Leslie lại muốn từ bỏ cuộc sống thoải mái ở vùng ngoại ô và đến sống ở một nơi như thế này.

Ba đứa nhìn chiếc xe rời đi một cách ồn ào.

“Cậu không thể kiếm sống bằng cách trồng trọt trên một cái trang trại vào thời đại này đâu, cậu biết đấy,” cuối cùng Jess lên tiếng. “Bố tớ phải đến Washington để làm việc, không thì bọn tớ sẽ không có đủ tiền.”

“Tiền không phải là vấn đề.”

“Tiền chính là vấn đề đấy.”

“Ý tớ là,” con bé nói một cách cứng nhắc, “không phải với gia đình tớ.”

Jess phải mất một lúc mới hiểu ra ý con bé. Nó không thể tưởng tượng được loại người mà với họ tiền không phải là vấn đề. “Ồ”. Thằng bé cố nhớ rằng không bao giờ được nói với Leslie về vấn đề tiền bạc nữa.

Nhưng Leslie có nhiều vấn đề ồn ào khác phải đối mặt ở Lark Creek hơn là thiếu tiền. Một trong số chúng là vấn đề về tivi.

Câu chuyện bắt đầu khi Cô Myers đọc trước lớp bài làm của Leslie về sở thích của con bé. Tất cả học sinh trong lớp phải viết một bài về sở thích của chúng. Jess viết về bóng bầu dục, thứ mà nó thực sự rất ghét, nhưng nó cũng đủ thông minh để hiểu rằng nếu viết về vẽ vời thì mọi người sẽ cười vào mũi nó mất. Phần lớn bọn con trai đều thề rằng xem đội Washington Redskins thi đấu trên tivi là sở thích của chúng. Bọn con gái thì chia bè chia phái: mấy đứa chả quan tâm mấy đến những điều cô Myers nghĩ thì chọn sở thích là xem các chương trình truyền hình, con đám con gái giống như Wanda Kay Moore, lũ vẫn cố gắng cho được một điểm A thì viết về việc đọc các cuốn sách hay. Nhưng cô Myers chỉ đọc trước lớp mỗi bài của Leslie mà thôi.

“Tôi muốn đọc bài này cho cả lớp nghe. Có hai lý do. Thứ nhất, bài này được viết rất hay. Và thứ hai, nó nói về một sở thích khá bất thường – đối với một cô gái.” Cô Myers hướng nụ-cười-ngày-đầu-tiên-đi-học sáng lóa vào Leslie. Con bé dán mắt nhìn cái bàn của mình. Trở thành học trò cưng của cô Myers đúng là kinh khủng ở Lark Creek này. “Lặn – bởi Leslie Burke.”

Giọng đọc sắc lẹm của cô Myers cắt câu chữ của Leslie thành những đoạn rất buồn cười, nhưng dù vậy, sức mạnh trong từng con chữ của Leslie như kéo tuột Jess xuống dưới làn nước đen lạnh cùng con bé. Bỗng dưng thằng bé thấy khó thở. Tưởng tượng bạn đang ở dưới đáy sâu và mặt nạ bảo hộ của bạn đầy tràn nước biển và bạn không tài nào ngoi lên mặt nước kịp? Thằng bé nghẹt thở và vã mồ hôi. Nó cố giảm thiểu sự hốt hoảng của bản thân. Đây là sở thích của Leslie Burke. Không ai có thể giả vờ rằng lặn là môn thể thao ưa thích của họ nếu sự thực không phải vậy. Thế nghĩa là Leslie đã lặn rất nhiều lần. Và con bé không hề sợ hãi việc phải đi đến một nơi sâu thật sâu, một thế giới không có không khí và rất ít ánh sáng. Chúa ạ, nó đúng là một thằng nhát cáy. Sao mà nó có thể run rẩy đến vậy khi mới chỉ nghe cô Myers đọc chứ? Nó còn giống một đứa con nít hơn cả Joyce Ann nữa. Bố muốn nó là một người đàn ông. Và bây giờ thì nó đang để một đứa con gái thậm chí còn chưa được mười tuổi dọa nó sợ mất mật chỉ bằng cách nói cho nó biết cảm giác thăm thú cảnh vật dưới đáy biển. Ngớ ngẩn, ngu ngốc, đần độn.

“Tôi chắc chắn là,” Cô Myers nói, “Tất cả các em đều bị ấn tượng như tôi về bài làm thú vị của Leslie.”

Ấn tượng. Chúa ơi. Nó suýt chết đuối rồi ấy.

Trong lớp học vang lên tiếng sột soạt của những bàn chân lê trên đất và các loại giấy tờ. “Bây giờ tôi muốn giao cho các em một bài tập về nhà.” – tiếng rên rỉ lan khắp phòng – “mà tôi chắc rằng các em sẽ thích.” – một đợt rên rỉ không đồng tình nữa – “Tối nay lúc tám giờ trên Kênh bảy sẽ có một chương trình đặc biệt về nhà thám hiểm dưới nước nổi tiếng – Jacques Cousteau. Tôi muốn tất cả các em xem chương trình đó. Sau đó viết một trang về những điều các em học được.”

“Cả một trang ấy ạ?”

“Ừ.”

“Đánh vần thì có được tính không ạ?”

“Có lúc nào mà em không đánh vần không, Gary?”

“Cả hai mặt giấy ư thưa cô?”

“Một mặt là được rồi, Wanda Kay. Nhưng đương nhiên tôi sẽ thưởng điểm cho những em làm việc cần mẫn hơn.”

Wanda Kay nở một nụ cười điệu. Ai cũng có thể thấy được mười trang giấy đã và đang hình thành trong cái khuôn đầu ngẩng cao ấy.

“Thưa cô Myers.”

“Sao thế Leslie?” Lạy Chúa, cô Myers sẽ bị nứt mặt mất nếu cô ấy cứ tiếp tục cười cái kiểu như thế.

“Nếu em không xem được chương trình đó thì sao ạ?”

“Cứ nói với bố mẹ em rằng đó là bài tập về nhà. Cô tin họ sẽ không phản đối đâu.”

“Nhưng nếu - ”, giọng Leslie trùng xuống; rồi con bé lắc đầu và hắng giọng để lời nói phát ra được mạnh mẽ hơn – “nếu nhà em không có tivi thì sao ạ?”

Chúa ơi, Leslie. Đừng nói thế chứ. Cậu luôn có thể xem ở nhà tớ mà. Những đã quá muộn để cứu con bé. Những tiếng rít hoài nghi giờ đã hòa vào thành một cơn xì xào của sự khinh bỉ.

Cô Myers chớp mắt. “Ồ để xem nào.” Và cô lại chớp mắt tiếp. Có thể thấy rằng cô cũng đang tìm cách cứu Leslie. “Ờ, trong trường hợp đó em có thể viết một trang giấy về một thứ gì đó khác. Được không Leslie?”. Cô cố mỉm cười với Leslie qua lớp học đang hết sức chộn rộn, nhưng chả được tích sự gì cả. “Cả lớp! Các em! Trật tự!”. Nụ-cười-Leslie đột ngột chuyển thành vẻ cau có đáng ngại có thể dập tắt cả một cơn bão.

Cô Myers phát cho cả lớp nhưng tờ bài tập toán giống nhau. Jess liếc trộm về phía Leslie. Khuôn mặt con bé, cúi sát xuống tờ bài tập toán, đỏ bừng và đầy giận dữ.

Vào giờ nghỉ khi Jess đang chơi Vua Núi, nó thấy Leslie bị một lũ con gái dẫn đầu bởi Wanda Kay bao vây. Nó không nghe được lũ con gái nói gì, nhưng qua dáng điệu hất đầu về phía sau một cách kiêu hãnh của Leslie thì nó có thể đoán được rằng lũ kia đang cười nhạo con bé. Ngay lúc ấy Greg Williams túm lấy nó, và trong khi hai thằng vật lộn, Leslie biến mất. Đó chẳng phải việc của nó, thật vậy, nhưng nó đẩy Greg xuống sườn đồi mạnh hết sức có thể rồi la lên một cách bâng quơ, “Tao đi đằng này một lát.”

Nó đứng canh ngay đối diện cửa phòng vệ sinh nữ. Và một vài phút sau Leslie đi ra. Nó có thể cam đoan rằng con bé vừa khóc xong.

“Leslie ơi.” Nó gọi một cách nhẹ nhàng.

“Đi đi!” Con bé quay lưng đột ngột và đi thật nhanh về hướng ngược lại. Vừa canh chừng cánh cửa văn phòng, thằng bé vừa chạy đuổi theo. Không ai được phép lảng vảng trong hành lang vào giờ nghỉ cả. “Leslie. Có chuyện gì thế?”

“Cậu biết rõ là có chuyện gì mà, Jess Aarons.”

“Ừ.” Thằng bé vò rối tóc mình. “Giá mà cậu đừng nói gì hết. Cậu luôn luôn có thể xem tivi ở nhà...”

Nhưng con bé đã xoay ngược lại lần nữa, và hướng về phía hành lang. Trước khi thằng bé có thể nói hết câu và bắt kịp con bé, Leslie đã đóng sập cánh cửa phòng vệ sinh nữ trước mặt nó. Jess chuồn khỏi tòa nhà. Nó không thể mạo hiểm để Thầy Turner tóm được khi loanh quanh gần phòng vệ sinh nữ được, cứ như thể nó là thằng biến thái nào không bằng.

Ngay sau khi tan học Leslie lên xe buýt và đi thẳng về phía hàng ghế dài ở cuối xe – ngay bên phải chỗ ngồi của đám lớp Bảy. Jess hất đầu về phía Leslie, ra hiệu cho con bé đi lên phía trên, nhưng con bé chẳng thèm nhìn nó lấy một cái. Thằng bé có thể thấy bọn lớp Bảy đang đi về phía xe buýt – lũ con gái béo ú, đẫy đà, hách dịch và bọn con trai xấu tính, gầy nhẳng, mắt gườm gườm độc địa. Chúng nó sẽ giết con bé vì dám xâm phạm lãnh thổ của chúng mất. Thằng bé nhảy lên xe, chạy đến cuối và kéo tay Leslie. “Cậu phải trở về chỗ ngồi thường nhật của cậu Leslie.”

Ngay cả trong khi nói, nó vẫn cảm thấy lũ to con ấy đang dồn cục sau lưng nó trên lối đi hẹp. Đúng như dự đoán, Janice Avery, đứa khối Bảy nguyện dành cả đời mình để dọa mất mật bất cứ ai nhỏ hơn nó, đang đứng ngay sau lưng Jess. “Dẹp đê nhóc.” Nó nói.

Jess đứng vững hết sức có thể, mặc cho tim đập thình thình vào be sườn. “Nào Leslie,”, nó nói, ép mình quay lại và nhìn Janice Avery một lượt từ mái tóc vàng uốn xoăn cứng đơ, chiếc áo sơ mi quá chật đến chiếc quần bò ngoại cỡ và đôi giày mềm khổng lồ. Nhìn hết một lượt, Jess nuốt khan, rồi nhìn thẳng vào gương mặt giận dữ của cô ta, và nói bằng một giọng đều đều, “Có vẻ như ở đây không có đủ chỗ cho cả cậu và Janice Avery đâu.”

Ai đó la lên. “Weight Watchers đang đợi mày đấy Janice!”

Mắt Janice long lên sòng sọc, nhưng nó vẫn tránh đường cho Jess và Leslie đi về chỗ của chúng.

Leslie liếc về phía sau khi chúng ngồi xuống, rồi ghé lại. “Nó sẽ đập cậu cho xem, Jess ạ. Nó tức điên đấy.”

Jess thấy vui vì sự thán phục trong giọng nói của Leslie, nhưng nó vẫn không dám quay lại nhìn. “Gì cơ,” nó nói, “Cậu nghĩ tớ sẽ để cái đồ bò cái đần độn ấy dọa nạt á?”

Đến khi xuống xe, cuối cùng nó cũng có thể nuốt nước bọt mà không thấy nghẹn ở cổ nữa. Nó thậm chí còn phác một nét vẫy về phía băng ghế cuối khi chiếc xe rời đi.

Leslie nhe răng cười với nó qua đầu May Belle.

“Ừm,” Jess nói vui vẻ. “Hẹn gặp lại nhé.”

“Này, cậu có muốn mình cùng làm gì đấy chiều nay không?”

“Em nữa! Em cũng muốn làm gì đấy.” May Belle ré lên. Jess nhìn Leslie thăm dò. Mắt con bé nói không. “Không phải lần này, May Belle. Hôm nay Leslie và anh có một vài việc mà chỉ có bọn anh mới làm được thôi. Em đem sách vở của anh về và báo với Mẹ là anh ở bên nhà Burke nhé. Được không?”

“Anh chẳng có gì phải làm hết. Anh chẳng có kế hoạch gì cả.”

Leslie tiến đến và cúi xuống May Belle, đặt tay lên bờ vai nhỏ nhắn của con bé. “May Belle, em có thích một bộ thay đồ cho búp bê giấy mới không?”

May Belle đảo tròn mắt háo hức. “Búp bê loại gì cơ?”

“Những Thổ dân Châu Mỹ.”

May Belle lắc đầu. “Em thích Cô dâu hoặc Hoa hậu Mỹ cơ.”

“Em có thể vờ như chúng là búp bê cô dâu. Chúng có nhiều váy dài đẹp lắm.”

“Thế có vấn đề gì với chúng ạ?”

“Không. Chúng mới tinh đấy.”

“Thế sao chị lại không thích chúng nữa nếu chúng tuyệt như thế?”

“Khi mà em bằng tuổi chị” – Leslie thở dài thật khẽ - “em sẽ không thích chơi với búp bê nữa. Bà chị gửi cho chị những con búp bê này. Em biết đấy, những người bà luôn quên rằng các cháu của họ đã lớn lên rồi.”

May Belle có một người bà đang sống ở Georgia, và bả chả bao giờ gửi cho con bé bất cứ thứ gì. “Chị đã cắt chúng ra chưa?”

“Chưa. Thực ra thì mọi thứ, kể cả y phục đều được cắt sẵn rồi. Em sẽ không cần dùng đến kéo đâu.”

Hai đứa lớn có thể thấy con bé đang chùn lại. “Hay là,”, Jess lên tiếng, “em đi cùng bọn anh và xem xem, nếu em thích chúng thì em có thể đem chúng về nhà và nói với Mẹ rằng anh đang ở đâu, được chứ?”

Sau khi nhìn May Belle băng ngang quả đồi, ghì chặt kho báu mới của nó, Jess và Leslie quay lại và chạy về phía cánh đồng hoang đằng sau Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin, rồi xuống con nước cạn chia cắt khu đất trồng trọt với cánh rừng. Ở đó mọc một cây táo gai già, ngay bên cạnh con nước, mà trên cành của nó một người đã bị lãng quên từ lâu đã treo lên một sợi dây thừng.

Hai đứa trẻ thay phiên nhau đánh đu qua con nước trên chiếc dây thừng. Đó là một ngày mùa thu tuyệt đẹp, và nếu chúng nhìn lên trong lúc đang đu đưa trên dây, thì sẽ có cảm giác như đang trôi bồng bềnh vậy. Jess ngửa ra và thu vào hết sức cái màu sắc kì diệu và trong sáng của bầu trời. Thằng bé cứ đung đưa qua lại như một đám mây trắng béo ú đang trôi lơ đãng qua sắc trời xanh biếc.

“Cậu biết chúng mình cần gì không?” Leslie gọi nó. Say sưa với khung cảnh thiên đường xung quanh, Jess không thể nghĩ ra được là nó còn cần bất cứ cái gì trên mặt đất nữa.

“Chúng mình cần một nơi nào đấy,” con bé nói, “chỉ cho riêng chúng mình thôi. Đó sẽ là một bí mật mà chúng ta sẽ không bao giờ kể cho bất cứ ai trên trái đất này hết.” Jess đu về phía con bé và ghì chân xuống đất để phanh lại. Con bé hạ giọng xuống gần như nói thầm. “Đó sẽ là một quốc gia bí mật,” con bé tiếp tục, “và cậu cả tớ sẽ cai trị nơi đó.”

Những lời nói của con bé khuấy động cái gì đó trong Jess. Nó cũng thích được cai trị một cái gì đó. Kể cả khi cái đó không có thật đi chăng nữa. “Ừ, được rồi,” thằng bé đáp. “Chúng mình sẽ xây dựng nó ở đâu hả?”

“Trong khu rừng phía kia kìa, như thế sẽ không ai tìm ra và đảo lộn chỗ ấy lên được.”

Có một phần của khu rừng mà Jess rất ghét. Những khoảng tối âm u như thể dưới nước vậy, nhưng nó không nói gì cả.

“Tớ biết rồi” – Leslie ngày càng hào hứng – “đó sẽ là một đất nước phép thuật giống như Narnia, và cách duy nhất để đến được nơi ấy là cậu phải đu qua chiếc dây thừng màu nhiệm này.” Mắt con bé sáng rỡ. Nó túm lấy sợi dây thừng, “Nào, lại đây,” con bé nói. “Cùng tìm một chỗ để xây dựng thành trì vững chắc của chúng mình nào.”

Chúng mới đi dược vài thước vào khu rừng phía sau con nước thì Leslie dừng lại.

“Chỗ này thì sao?” con bé hỏi.

“Chắc chắn rồi.” Jess hấp tấp đồng ý, nhẹ nhõm vì không phải tiến sâu hơn vào khu rừng. Đương nhiên là nó có thể đưa con bé vào đó, nó đâu phải một kẻ hèn nhát mà phải ngại một chút khám phá chỗ này chỗ kia, sâu hơn vào nơi tối tăm vĩnh cửu giữa những cây thông khổng lồ. Nhưng như một lẽ thường tình, như thể đã được sắp đặt sẵn như thế, đây chính là nơi mà nó sẽ chọn – nơi mà những xoan đào và gỗ đỏ chơi trốn tìm dưới những tán sồi và thường xanh, và vầng mặt trời vẩy mình thành những dải vàng long lanh qua tán cây và vỗ nhè nhẹ hơi ấm vào bàn chân lũ trẻ.

“Chắc chắn rồi.” Thằng bé lặp lại lần nữa, gật đầu thật dứt khoát. Đám cây lùm cây bụi ở dưới đã chết khô và sẽ dễ dàng được dọn sạch. Mặt đất cũng khá là bằng phẳng. “Quả là một chỗ đẹp để đặt móng đấy.”

Leslie đặt tên vùng đất bí mật của chúng là “Terabithia”, và nó cũng cho Jess mượn tất cả sách của mình về Narnia, có thế thì thằng bé mới biết được mọi thứ hoạt động thế nào trong một thế giới phép thuật – muông thú và cỏ cây phải được bảo vệ ra sao và một người cai trị phải cư xử như thế nào. Đấy mới là phần khó. Khi Leslie nói, lời nói tuôn chảy một cách huy hoàng, người nghe luôn biết được con bé là một nữ hoàng thực thụ. Nhưng Jess còn chẳng nói trôi chảy được Tiếng Anh, nữa là ngôn ngữ đầy chất thơ của một vị vua.

Bù lại thằng bé có bàn tay vàng. Hai đứa thu nhặt những tấm ván cũng như các vật liệu khác từ đống phế liệu bên cạnh bãi chăn thả của cô Bessie và dựng lên đền đài thành quách ở chỗ chúng đã chọn trong rừng. Leslie chất đầy một cái lon cà phê ba pao* với bánh quy mặn và hoa quả sấy và một cái lon một pao với dây dợ và đinh. Chũng cũng tìm thấy năm chai Pepsi cũ, rửa sạch và đong đầy nước, để phòng trường hợp, theo lời Leslie thì là, “bị vây hãm.”

Như Đức Chúa trời trong Kinh thánh, chúng ngắm nhìn thành quả của mình và thấy rất hài lòng.

“Cậu nên vẽ một bức tranh về Terabithia để chúng mình treo trong lâu đài.” Leslie đề nghị.


“Tớ không thế.” Làm sao nó có thể giải thích cho Leslie hiểu được niềm khao khát được tiếp cận và nắm bắt cái vẻ đẹp non nớt của sự sống ở nó, và rằng khi nó thử làm điều ấy, mọi thứ cứ trôi tuột khỏi ngón tay nó và để lại những vật chì khô khốc trên trang giấy? “Tớ không thể lột tả được sự nên thơ của những tán lá này đâu.”, cuối cùng thằng bé nói.

Con bé gật nhẹ. “Đừng lo,” nó nói. “Cậu sẽ làm được thôi.” Và Jess tin con bé bởi trong ánh sáng mờ ảo bao bọc thành trì của chúng, mọi thứ dường như đều khả thi. Giữa hai đứa trẻ là thế giới của riêng chúng và không một kẻ thù nào có khả năng đánh bại được chúng, dù là Gary Fulcher, Wanda Kay Moor, Janice Avery, hay những nỗi sợ và những khoảng trống rỗng bí mật trong tâm hồn Jess, hoặc kể cả bè lũ kẻ thù với dã tâm tấn công Terabithia trong tưởng tượng của Leslie.

Vài ngày sau khi hai đứa hoàn thành việc xây dựng lâu đài, Janice Avery trượt chân trên xe buýt của trường và kêu lên rằng Jess đã ngáng chân nó khi nó đi ngang qua. Nó cứ làm um xùm vụ đấy lên đến mức cuối cùng thì Bà Prentice, tài xế xe buýt, đã phải yêu cầu Jess xuống xe, và thằng bé phải đi bộ ba dặm đường để về đến nhà.

Khi Jess đến được Terabitha thì nó thấy Leslie đang loay hoay bên dưới một vết nứt trên mái tòa lâu đài, cố tìm chỗ đủ sáng để đọc sách. Trên bìa sách là bức tranh vẽ một con cá voi sát thủ đang tấn công một chú cá heo.

“Cậu làm gì thế?” Thằng bé đi vào và ngồi xuống trên sàn cạnh con bé.

“Tớ đọc. Tớ chả có gì để làm hết. Con mụ đó!”. Cơn giận của con bé bùng phát một cách nhanh chóng.

“Không sao đâu mà. Đi bộ từng ấy với tớ chỉ là muỗi.” Mà thực ra thì đó cũng chỉ là một chuyến ngao du nhỏ nếu so với những gì Janice Avery có trong cái đầu kinh dị của nó.

“Đấy là nguyên tắc cơ bản của mọi chuyện thôi Jess. Cậu phải hiểu điều ấy. Cậu phải chặn những kẻ như thế lại. Nếu không thì chúng sẽ trở thành những tên bạo chúa độc tài.”

Thằng bé với lấy cuốn sách trên tay con bé và giả vờ ngâm cứu bức tranh bạo lực ở bìa sách. “Có ý tưởng gì hay ho không?”

“Gì cơ?”

“Tớ tưởng cậu vừa bảo là chúng ta sẽ ngăn chặn Janice Avery.”

“Không, hâm à. Chúng mình đang cố cứu loài cá voi. Chúng sẽ tuyệt chủng mất thôi.”

Thằng bé đưa trả cuốn sách cho con bé. “Cậu muốn cứu cá voi và khử con người à?”

Con bé cười phá lên. “Ờ thì cũng từa tựa thế. Cậu đã bao giờ nghe câu chuyện về Moby Dick chưa?”

“Ai cơ?”

“Ừm, ngày xưa có một con cá voi trắng khổng lồ tên là Moby Dick...”. Và Leslie bắt đầu tuôn ra một câu chuyện tuyệt vời về chú cá voi trắng và vị thuyền trưởng điên rồ luôn tìm cách giết chú. Tay Jess ngứa ngáy muốn vẽ ngay câu chuyện lên giấy. Giá mà nó có màu xịn hơn nhỉ, thế mới vẽ được chứ. Chắc chắn phải có cách nào đấy để màu trắng của con cá voi trở nên sinh động trên nền biển đen sẫm chứ.

Lúc đầu thì hai đứa trẻ tránh mặt nhau ở trường học, nhưng đến tầm tháng Mười thì bọn chúng chả quan tâm che giấu tình bạn của mình nữa. Gary Fulcher, cũng như Brenda, rất lấy làm vui thích được trêu chọc Jess về “cô bạn gái” của nó. Điều ấy cũng chả làm phiền Jess mấy. Nó biết bạn gái là cái loại cứ đuổi theo người ta trên sân chơi, cố tóm và hôn người ta cơ. Mà thằng bé không tài nào tưởng tượng được cảnh Leslie đuổi theo bất cứ thằng con trai nào, quái dị y như việc quý bà hai-cằm Myers leo lên cột cờ ấy. Gary Fulcher cứ việc đi đến cái chỗ-mà-ai-cũng-biết-là-chỗ-nào-đấy để mà làm nóng mấy ngón chân của nó lên.

Thực sự là ở trường chả có lúc nào để nghỉ ngơi trừ giờ giải lao, và vì bây giờ không còn cuộc thi chạy nào nữa, Jess và Leslie thường tìm một nơi yên ắng trên sân chơi và ngồi nói chuyện với nhau. Trừ nửa giờ đồng hồ kì diệu vào ngày thứ Sáu, giờ nghỉ là điều duy nhất Jess trông ngóng khi ở trường. Leslie luôn nghĩ ra những điều thú vị và làm cả ngày dài chán nản trở nên chấp nhận được. Thường thì trò đùa của chúng nhắm vào cô Myers. Leslie là loại học sinh nghiêm túc ngồi yên lặng ở bàn của mình, không thì thầm nói chuyện, không mơ mộng giữa ban ngày, không nhai kẹo cao su, và bài tập thì luôn được hoàn thành một cách xuất sắc, nhưng đầu óc con bé chứa đầy những suy nghĩ nghịch ngợm đến mức nếu giáo viên của chúng có thể một lần nhìn xuyên qua cái mặt nạ hoàn hảo của con bé, thì kiểu gì nó cũng bị tống bay ra ngoài trong một cơn thịnh nộ ngút trời.

Jess khó có thể giữ khuôn mặt mình nghiêm trang trong lớp khi cố gắng tưởng tượng những gì có thể đang diễn ra đằng sau cái vẻ bề ngoài thiên thần của Leslie. Một buổi nọ, như Leslie kể với nó trong giờ giải lao sau đó, con bé đã dành cả buổi sáng hôm ấy để tưởng tượng cô Myers ở trong một cái trại giảm béo dưới mạn Arizona. Trong tưởng tượng của con bé, cô Myers là một kẻ phàm ăn chính hiệu, kiểu người sẵn sàng giấu kẹo ở những chỗ rất kì quặc – trên bình nóng lạnh chẳng hạn! – nhưng cuối cùng kiểu gì cũng bị phát hiện ra và bị phê bình trước toàn thể những người phụ nữ béo tròn béo trục khác. Cả chiều hôm ấy Jess cứ giữ trong đầu hình ảnh cô Myers không mặc gì khác ngoài một chiếc coóc xê màu hồng đang đứng trên bàn cân. “Cô lại nói dối nữa rồi, Gussie!”, vị nữ giám sát gầy nhẳng kết tội. Và cô Myers trông như sắp khóc đến nơi.

“Jess Aarons!”. Giọng nói sắc lẹm của bà giáo phá nát dòng tưởng tượng của thằng bé. Nó không thể nhìn thẳng vào gương mặt béo tròn của cô giáo được. Nó sẽ phá ra cười mất thôi. Thế là thằng bé để điểm nhìn rơi vào nếp váy lộn xộn của bà giáo.

“Vâng thưa cô.”. Chắc là nó phải để Leslie huấn luyện cho vài bữa mới được. Lần nào cô Myers cũng bắt được nó trong lúc nó đang mơ mộng, nhưng lại chả bao giờ tóm được Leslie khi con bé mất tập trung. Leslie đang chìm đắm trong cuốn sách Địa của nó, ít ra là mọi người thấy nó thế.

Đến tháng Mười Một thì ở Terabithia rất lạnh. Hai đứa không dám đốt lửa trong lâu đài, nhưng thỉnh thoảng chúng nhóm một đống lửa ở ngoài và trò chuyện bên cạnh đó. Leslie thó được hai cái túi ngủ và giữ nó trong lâu đài được một thời gian, nhưng đến tháng Mười Hai thì bố con bé nhận ra sự biến mất ấy và con bé phải đem trả chúng lại. Thực ra là Jess bảo con bé trả chúng lại. Không phải là thằng bé sợ ông bà Burke hay gì. Bố mẹ Leslie đều còn trẻ, với hàm răng trắng đều đặn và rất nhiều tóc – cả hai người họ. Leslie gọi họ là Judy và Bill, điều này làm Jess khó chịu hơn là nó tưởng. Nó không có nhiệm vụ phải bận tâm xem Leslie gọi bố mẹ con bé là gì. Nhưng chỉ là nó không thể quen với cách gọi ấy được.

Cả hai vợ chồng Burke đều là nhà văn. Bà Burke viết tiểu thuyết, và theo như Leslie nói thì bà nổi tiếng hơn người chồng của mình, ông viết về chính trị. Được nhìn thấy sách của họ trên giá đem lại một cảm giác thực sự đặc biệt. Bút danh của bà Burke theo như trên bìa sách là “Judith Hancock”, điều này có thể làm người ta ngạc nhiên lắm, nhưng sự kinh ngạc sẽ hết ngay khi người ta nhìn thấy tấm ảnh của bà ở mặt sau quyển sách, trông rất ư là trẻ và nghiêm túc. Ông Burke thì cứ phải đi đi lại lại giữa Lark Creek và Washington, ông phải đến đó để hoàn thành một cuốn sách ông đang viết chung với một người khác, nhưng ông ấy đã hứa với Leslie rằng sau Giáng Sinh ổng sẽ nghỉ phép để sửa sang lại căn nhà, bắt đầu công việc trồng trọt, nghe nhạc, đọc sách và chỉ viết khi ông rảnh rỗi.

Trông họ không giống như tưởng tượng về những người giàu có của Jess, nhưng kể cả thế thì nó vẫn có thể cam đoan rằng những chiếc quần bò họ mặc không được bày bán ở mấy cửa hàng kiểu Newberry. Tại tư gia của nhà Burke không có tivi, nhưng có hàng đống đĩa nhạc và một dàn âm thanh trông như được lấy nguyên từ một cảnh trong phim Star Trek. Và cho dù xe của họ trông vừa nhỏ vừa bẩn, nó vẫn có xuất xứ từ Ý và đắt tiền vô cùng.

Ông bà Burke luôn đối xử tốt với Jess mỗi khi nó đến chơi, nhưng họ cứ đột ngột nói về nền chính trị Pháp và tứ tấu đàn dây (mà lúc đầu Jess cứ tưởng đó là một cái hộp lập phương được tạo nên bởi những sợi dây), hay làm thế nào dể bảo vệ loài sói xám/gỗ đỏ/loài cá voi, tất cả những việc này làm Jess không dám mở miệng ra và để lộ rằng mình ngu ngốc đến mức nào.

Nó cũng không thích lắm việc Leslie đến nhà mình chơi. Joyce Ann thì cứ nhìn chằm chằm, ngón tay trỏ của con bé kéo trễ khuôn miệng của nó xuống và tạo cho nó một vẻ ngoài nước dãi lòng thòng. Brenda với Ellie chả bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để đưa ra nhận xét của chúng về “cô bạn gái”. Mẹ bọn trẻ thì cứ nửa cứng nhắc nửa đùa cợt, đúng kiểu bà hay cư xử mỗi khi phải đến trường vì việc gì đó. Không lâu sau thì bà bắt đầu đưa ra nhận xét về kiểu ăn mặc “không giống ai” của Leslie. Leslie luôn luôn mặc quần, kể cả khi đi học. Tóc con bé thì “ngắn hơn cả tóc bọn con trai”. Nhị vị phụ huynh thì “chẳng khác nào bọn híp-pi”. May Belle không cố gắng chen vào chơi chung với hai đứa thì lại hờn dỗi vì bị bỏ rơi. Bố thằng bé cũng đã nhìn thấy Leslie vài lần và cái gật đầu cho thấy ông có chú ý đến sự có mặt của con bé, nhưng Mẹ bọn trẻ bảo bà khá chắc rằng Bố chúng đang rất băn khoăn tại sao đứa con trai duy nhất của ông lại chỉ chơi với con gái, và rằng họ đều lo lắng cho tương lai của thằng bé.

Jess không quan tâm lắm đến cái gọi là “tương lai của thằng bé”. Lần đầu tiên trong suốt cuộc đời, nó thức dậy mỗi sáng với một điều gì đó để mong ngóng. Leslie không chỉ là bạn của nó. Con bé là một phiên bản khác, một phiên bản thú vị hơn của nó – là cánh cửa dẫn nó đến Terabithia và cả những thế giới kì diệu khác.

Terabithia là bí mật giữa chúng, điều mà thực ra cũng tốt thôi, vì Jess cũng chả biết làm thế nào để giải thích về nơi này với bất cứ ai khác. Ngay như việc đi xuống đồi để vào rừng đã làm nó thấy ấm áp như có một dòng thép nóng chảy suốt từ đầu đến chân vậy. Càng đến gần con nước cạn và cây táo gai nơi treo sợi dây thừng, tim thằng bé càng đập nhanh. Nó tóm lấy đầu sợi dây và tung mình với một niềm hứng khởi hoang dại rồi đáp xuống một cách nhẹ nhàng trên đôi chân của mình ở bờ bên kia của con nước, cảm thấy mình cao lớn hơn, mạnh mẽ hơn và thông thái hơn ở vùng đất kì bí này.

Địa điểm yêu thích thứ hai của Leslie sau tòa lâu đài chính là Rừng thông. Nơi mà những tán cây dày đến nỗi ánh sáng mặt trời như được lọc qua một lớp mạng mỏng. Không một cây lùm cây bụi nào có thể sinh trưởng được dưới cái ánh sáng lờ mờ ấy, vậy nên mặt đất là một tấm thảm được dệt nên bởi toàn những lá kim bằng vàng ròng.

“Trước đây tớ cứ nghĩ là chỗ này bị ám.” Jess thú nhận với Leslie vào buổi chiều đầu tiên khi nó dám lấy hết can đảm để đưa con bé tới đây.

“Ừ thì đúng mà,” con bé đáp. “Nhưng đừng sợ gì hết. Thứ ám nơi này không hề độc ác đâu.”

“Sao cậu biết?”

“Cậu có thể cảm thấy mà. Lắng nghe đi.”

Lúc đầu thằng bé chẳng thấy gì ngoài sự tĩnh lặng. Chính cái sự tĩnh lặng đã luôn làm nó sợ trước đây, nhưng lần này sự tĩnh lặng ấy rất giống cái khoảnh khắc khi cô Edmunds kết thúc một bài hát, ngay sau khi hợp âm cuối cùng lắng vào hư vô. Leslie đã đúng. Hai đứa đứng đó, không di chuyển mảy may, không muốn tiếng lạo xạo của đám lá kim dưới chân chúng phá vỡ phép màu này. Từ xa thật xa nơi thế giới cũ của chúng vọng đến tiếng kêu của một chú ngỗng đang bay về phương Nam.

Leslie hít một hơi thật sâu. “Đây chẳng phải một nơi bình thường,” con bé thì thầm. “Ngay cả những người trị vì của Terabithia cũng chỉ được phép đến đây khi nỗi đau chạm đến đáy vực sâu thẳm nhất của nỗi buồn hay trong thời khắc huy hoàng nhất của niềm hạnh phúc tươi vui. Chúng mình phải gắng sức bảo vệ sự thiêng liêng này. Có thế thì mới không làm kinh động đến các Linh hồn.”

Jess gật đầu, và không nói một lời, chúng quay lại con nước cũ, chia nhau một bữa ăn thịnh soạn gồm nh quy và hoa quả sấy khô.

Chú thích:

* “Trước mắt...trong tay.”: Một phần lời bài hát “Free to be You and Me” đã đề cập ở trên.
* gõ kiến bụng vàng - Yellow-bellied Sapsucker: Một loài chim gõ kiến sống ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.
* Arlington: Một thành phố ở bang Texas, Hoa Kỳ
* pao – pound: đơn vị đo khối lượng của Anh (1 pound =453.59237 gam)
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
NĂM – Những sát thủ khổng lồ

Leslie rất thích thêu dệt lên những câu chuyện về bọn khổng lồ đe dọa sự yên bình của Terabithia, nhưng cả hai đứa đều biết rằng tên khổng lồ duy nhất trong cuộc đời tụi nó chính là Janice Avery. Lẽ tất nhiên là Jess và Leslie không phải mục tiêu duy nhất của nó. Con bé có hai đứa bạn chí cốt, Wilma Dean và Bobby Sue Henshaw, thân hình hai đứa nó cũng to ngang ngửa Janice, và bộ ba này thường đi vòng vòng quanh sân chơi, lấy sỏi của bọn chơi nhảy ô, chạy ù qua đám nhảy dây, và lớn tiếng cười nhạo trong khi lũ lớp Hai la hét. Chúng thậm chí còn đứng canh ở cửa phòng vệ sinh nữ mỗi buổi sáng, trấn lột tiền quà sáng của mấy đứa con gái nhỏ hơn trước khi cho phép chúng đi vào.

May Belle, thật không may, quả là một đứa chậm tiêu. Bố mua cho con bé một thanh Twinkies*, và con bé sung sướng đến mức ngay khi lên xe buýt thì nó quên sạch những bài học trước đây và hét lên với một đứa lớp Một khác: “Ê xem trưa nay tớ ăn gì này Billy Jean!”

“Gì thế?”

“Twinkies!”. Con bé hét to đến mức nếu có một người điếc ngồi ở băng ghế cuối thì anh ta cũng phải nghe thấy. Từ khóe mắt, Jess nghĩ nó nhìn thấy khuôn mặt Janice Avery bừng lên một niềm hứng khởi.

Khi chúng đã yên vị, May Belle vẫn không ngừng rú rít về thanh Twinkies chết tiệt của nó, át cả tiếng động cơ đang gào rú. “Bố tớ đem về từ Washington đấy!”

Jess liếc thêm cái nữa về phía băng ghế cuối xe. “Em nên thôi khoe khoang về thanh Twinkies ngu ngốc đó đi.” Thắng bé thì thầm vào tai đứa nhỏ.

“Anh chỉ ghen tị vì Bố chả mua cho anh cái gì hết thôi.”

“Ờ.” Thằng bé nhún vai với Leslie, ngầm bảo Tớ cảnh báo nó rồi, đúng không? và Leslie gật đầu đồng ý.

Cả hai đứa đều chẳng lấy làm ngạc nhiên lắm khi May Belle vừa chạy về phía chúng vừa gào khóc vào giờ nghỉ giải lao.

“Chị ta cướp Twinkies của em rồi!”

Jess thở dài. “May Belle, anh chưa bảo em sao?”

“Anh phải giết Janice Avery. Giết mụ ta đi! Giết! Giết!”

“Yên nào.” Leslie nói, xoa đầu May Belle, nhưng con bé không cần sự cảm thông, con bé muốn trả thù.

“Anh phải tẩn mụ ta ra bã!”

Với kinh nghiệm đối đầu với quý cô Godzilla của mình, thằng bé nói. “Bạo lực không đem lại cho em cái gì đâu, May Belle. Thanh Twinkies của em giờ chắc sắp thành tấm lót dưới đáy dạ dày Janice Avery rồi.”

Leslie cười khúc khích, nhưng May Belle không để bị lung lay. “Anh đúng là đồ tồi, Jesse Aarons. Nếu không phải một tên tồi, anh phải đập cái đứa đã lấy Twinkies của em gái anh chứ.” Và con bé bắt đầu thổn thức.

Jess cứng người lại, lảng tránh ánh mắt của Leslie. Chúa ơi, chả còn cách nào khác cả. Nó phải chiến đấu với con khỉ đột ấy thôi.

“Coi nào, May Belle,” Leslie lên tiếng. “Nếu Jess đánh nhau với Janice Avery, em biết chuyện gì sẽ xảy ra mà.”

May Belle chùi mũi vào mu bàn tay. “Nó sẽ cho anh ấy một trận tơi tả.”

“Ồ không đâu. Nhưng anh trai em sẽ bị đuổi học vì đánh một đứa con gái. Em biết thái độ của thầy Turner về chuyện con trai đánh con gái như thế nào mà.”

“Nhưng con mụ đó cướp Twinkies của em.”

“Chị biết, May Belle. Và bọn chị sẽ tìm ra một cách để trả đũa nó. Jess nhỉ?”

Thằng bé gật đầu thật mạnh. Bất cứ việc gì bây giờ cũng đều mở ra một viễn cảnh tốt hơn việc đối đầu với Janice Avery.

“Hai người định làm gì?”

“Chị cũng chưa biết. Chắc là sẽ phải lên kế hoạch vô cùng kĩ càng, nhưng chị hứa với em, May Belle, bọn chị sẽ bắt nó trả giá.”

“Chị sẽ thề danh dự chứ?”

Leslie trịnh trọng vắt tay chéo ngang ngực. May Belle nhìn sang Jess, thằng bé cũng làm y như vậy, cố không nghĩ việc này thật ngu ngốc, thề thốt với một đứa lớp Một ở giữa sân chơi.

May Belle xì mũi cái rột. “Vẫn chả tốt bằng việc thấy con mụ đó bị dần ra bã.”

“Ừ,” Leslie nói, “Chắc chắn là không bằng rồi, nhưng một khi thầy Turner vẫn nắm quyền điều hành ở đây, thì đây là điều tốt nhất chúng mình có thể làm, phải không Jess?”

“Chứ gì nữa.”

Chiều tối hôm ấy, chụm đầu trong thành lũy của mình ở Terabithia, hai đứa trẻ thiết lập một hội đồng chiến tranh. Làm thế nào để trả đũa được Janice Avery mà không bị dần cho nhừ tử hay bị đình chỉ học – đó là vấn đề lớn nhất của chúng.

“Hay là làm nó bị tóm khi đang làm chuyện gì đấy?” Leslie đề xuất một ý tưởng mới sau khi cả hai đứa loại bỏ kế hoạch trét mật ong vào ghế ngồi xe buýt và bỏ hồ dán vào nước rửa tay của Janice. “Cậu biết đấy, nó hút thuốc trong phòng vệ sinh nữ. Hay chúng mình cứ làm thế nào đấy để dụ thầy Turner đi ngang qua chỗ đó khi khói tuôn ra ngoài – ”

Jess lắc đầu một cách bất lực. “Nó chẳng cần quá năm phút để tìm ra đứa đã quang quác cái mỏ đâu.” Và hai đứa cùng im lặng cân nhắc những điều Janice Avery dám làm với bất cứ đứa nào dám tố nó với thầy hiệu trưởng. “Chúng mình phải làm cái gì mà nó không biết được ai đã làm cơ.”

“Ừ,” Leslie nhai trệu trạo một quả mận sấy. “Cậu biết mấy đứa như Janice Avery ghét gì nhất không?”

“Gì?”

“Bị bẽ mặt.”

Jess nhớ lại khuôn mặt Janice Avery trên xe hôm ấy khi nó làm cả lũ cười con bé. Leslie lại đúng nữa. Cứ như là đã có một vết rạn trên cái mặt nạ của con hà mã già ấy. “Ừ”. Thằng bé gật đầu, mỉm cười. “Đúng đấy. Hay là khiến nó bị trêu chọc vì béo?”

“Thế còn,” Leslie nói chậm rãi, “Còn bọn con trai thì sao? Nó có thích ai không hả?”

“Willard Hughes, chắc vậy. Tất cả lũ con gái khối Bảy đổ rạp dưới chân nó.”

“Tuyệt,” mắt Leslie sáng lấp lánh. Cả kế hoạch hiện ra trong một chớp mắt. “Chúng mình sẽ viết thư cho con mụ đó, cậu hiểu không, trả vờ đó là từ Willard.”

Jess với trong lon ra một mẩu bút chì và lấy một tờ giấy chèn dưới cục đá. Nó đưa cả cho Leslie.

“Không, cậu viết đi. Chữ tớ quá đẹp so với một đứa như Willard Hughes.”

Thằng bé chỉnh lại tư thế và chờ đợi.

“Được rồi,” Con bé nói, “Xem nào. Janice thân mến. Không. Janice thân yêu nhất.”

Jess ngập ngừng, tỏ vẻ không tin tưởng lắm.

“Tin tớ đi, Jess. Nó sẽ tin sái cổ thôi. Nào. Janice thân yêu nhất, chắc em không tin điều này, nhưng Anh yêu em.”

“Cậu chắc là nó sẽ...?” Thằng bé hỏi trong khi chép vào giấy.

“Tớ bảo cậu rồi mà, nó sẽ tin. Mấy đứa con gái như Janice Avery sẽ tin những điều nó muốn tin trong trường hợp thế này. Nào, tiếp tục. Nếu em từ chối tình cảm của anh, anh sẽ đau lòng lắm. Vậy nên xin em đừng. Và nếu em cũng yêu anh nhiều như anh yêu em, nữ hoàng của anh -

“Từ từ đã. Tớ không viết kịp.”

Leslie chờ đợi, và khi thằng bé ngước lên nhìn, con bé lại tiếp tục bằng một giọng ma mị. “ – xin hãy gặp anh đằng sau trường học lúc chiều nay. Đừng sợ lỡ xe buýt. Anh muốn cùng em đi bộ về nhà và bàn chuyện về CHÚNG MÌNH – viết hoa chúng mình nhé – em yêu của anh. Yêu em, hôn em, Willard Hughes.

“Hôn á?”

“Ờ, hôn. Cứ cho thêm mấy hàng x vào nữa đi.” Con bé ngừng lời để kiểm tra qua vai thằng bé những thứ nó đã viết. “Và nữa. Thêm Tái bút.”

Thằng bé viết thêm.

“Uhm. Đừng nói với ai – bất kỳ ai. Hiện giờ hãy giữ bí mật về tình cảm này cho riêng chúng mình nhé.

“Sao lại cho dòng này vào?”

“Để chắc chắn là con đó sẽ kể với người khác chứ sao, cậu ngốc thế.” Leslie đọc lại bức thư lần nữa, gật đầu hài lòng. “Tốt. Cậu viết sai chính tả tin với hai này.” Con bé lại nghiên cứu bức thư thêm vài phút nữa. “Oài, tớ giỏi trò này thật đấy.”

“Hẳn rồi. Chắc cậu phải có mấy cái thiên tình sử bự lắm lúc ở Arlington.”

“Jess Aarons, tớ giết cậu đấy.”

“Này cô em, cậu mà giết vua của Terabithia thì sẽ rắc rối đấy.”

“Ám sát hoàng đế.” Con bé đáp một cách tự hào.

“Ám gì cơ?”

“Tớ chưa bao giờ kể cho cậu câu chuyện về Hamlet à?”

Thằng bé nằm lăn ra. “Chưa đâu.” Giọng nó đầy hứng khởi. Chúa ơi, nó thích những câu chuyện của Leslie biết bao. Một lúc nào đó, khi nó đã giỏi rồi, nó sẽ bảo con bé viết thành sách những câu chuyện ấy và nó sẽ là người vẽ tranh minh họa.

“Xem nào,” con bé bắt đầu kể, “Ngày xửa ngày xưa có một vị hoàng tử Đan Mạch tên là Hamlet.”

Jess phác họa trong đầu mình một tòa lâu đài u tối nơi vị hoàng tử bị tra tấn đang gõ nhịp lên lan can. Làm thế nào để vẽ được một con ma hiện lên từ làn sương? Màu sáp thì không được rồi, nhưng nếu dùng màu nước thì nó có thể vẽ từng lớp màu mỏng chồng lên nhau, và như thế thì có thể vẽ được một hình bóng mờ nhạt đang di chuyển trong chiều sâu của bức tranh. Người thằng bé run lên. Nó biết nó có thể vẽ được như thế nếu Leslie cho nó mượn màu vẽ của con bé.

Phần khó nhất trong kế hoạch của bọn trẻ là làm sao để gửi được bức thư cho Janice Avery. Chúng lẻn vào tòa nhà trước khi hồi chuông đầu tiên gióng lên. Leslie đi trước vài thước để nếu hai đứa có bị bắt thì trông cũng không giống là chúng đang đi cùng nhau. Thầy Turner chúa ghét bọn con trai và con gái bị bắt gặp lén lút ở hành lang cùng nhau. Con bé đến trước cửa phòng lớp Bảy và lẻn vào. Rồi ra hiệu cho Jess tiến đến. Lông tơ trên gáy thằng bé dựng hết cả lên. Lạy Chúa.

“Làm thế nào mà tìm được bàn nó bây giờ?”

“Tớ tưởng cậu biết nó ngồi đâu.”

Thằng bé lắc đầu.

“Thế chắc cậu phải ngó từng cái ngăn bàn một cho đến khi tìm thấy bàn con mụ ấy rồi. Nhanh lên. Tớ canh cho.” Leslie đóng cánh của lại thật nhẹ nhàng và để thằng bé lại kiểm tra từng ngăn bàn một, cố không gây ra bất cứ xê dịch đáng kể nào, nhưng đôi tay ngu ngốc của nó run đến mức thật khó để lôi ra bất cứ cái gì để mà xem cái tên ghi trên đó.

Đột nhiên thằng bé nghe thấy tiếng Leslie. “Ôi, cô Pierce, em đang đợi cô đây ạ.”

Lạy Chúa. Một giáo viên khối Bảy đang đứng ngay trên hành lang ngoài đó và đang tiến về phòng này. Thằng bé chết đứng. Nó không thể nghe dù chỉ một lời cô Pierce đang nói với Leslie qua cánh của đóng chặt.

“Vâng thưa cô. Có một cái tổ rất thú vị ở góc phía nam của tòa nhà này, và vì - ” Leslie càng nói to hơn, “ – vì cô biết rất nhiều về khoa học. Em hy vọng rằng cô có thể đi cùng em vài phút và cho em biết đó là tổ của con gì ạ.”

Có tiếng rì rầm đáp lại.

“Ôi tuyệt quá, cô Pierce.” – Leslie gần như hét lên “Sẽ không lâu đâu ạ, và điều này thực sự có ý nghĩa với em nhiều lắm!”

Ngay khi nghe tiếng chân bước xa dần, Jess nhanh chóng xem xét nốt mấy cái bàn còn lại, cho đến khi may mắn thay nó tìm thấy một ngăn bàn với một quyển sách ghi tên Janice Avery trên bìa. Nó nhét bức thư lên trên mọi thứ có trong cái ngăn bàn đó rồi chạy như bay sang phòng vệ sinh nam, trốn trong một buồng vệ sinh cho đến khi chuông reo và trở về phòng học của nó.

Vào giờ nghỉ giải lao, Janice Avery trông vô cùng hấp tấp khi đi cùng Wilma và Bobby Sue. Thay vì phá đám lũ con gái nhỏ hơn, ba đứa chúng tay trong tay đi xem bọn con trai lớp lớn đá bóng. Khi bộ ba đi ngang qua, Jess thấy mặt Janice ửng hồng vẻ tự hào lắm. Nó đảo mắt nhìn Leslie và con bé cũng đảo mắt nhìn lại.

Khi xe buýt chuẩn bị lăn bánh chiều hôm ấy, một đứa con trai lớp Bảy, Billy Morris, hét lên với bà Prentice là Janice Avery không có mặt trên xe.

“Không sao đâu thưa cô Prentice,” Wilma Dean lên tiếng. “Hôm nay nó không đi xe buýt đâu.” Và nó thì thầm to tướng, “Thế mọi người không biết là Janice có hẹn với người mà ai cũng biết là ai đấy à.”

“Ai?” Billy hỏi.

“Willard Hughes. Thằng đó thích con nhỏ đến phát điên. Thậm chí nó còn muốn đưa con bé về nhà.”

“Thế á? Xe ba mươi tư vừa chạy với Willard Hughes ngồi ở ghế sau đấy. Nếu thằng đó thực sự có hẹn, chắc nó quên khuấy mất rồi.”

“Mày là đồ dối trá, Billy Morris!”

Billy chửi thề, và ở hàng ghế cuối bùng ra một cuộc tranh cãi nóng hổi về việc liệu có đúng là Janice Avery và Willard Hughes yêu nhau không và liệu hai đứa nó có hẹn hò bí mật không.

Khi Billy xuống xe, nó nói với lên với Wilma, “Mày nên nói cho Janice biết là Willard sẽ cáu điên khi nó biết về những điều mà con nhỏ đó đang lan truyền khắp trường!”

Mặt Wilma đỏ bầm khi con bé hét qua cửa sổ, “Để rồi xem thằng ngu! Mày cứ hỏi Willard đi. Rồi xem. Cứ hỏi nó về lá thư ấy đi! Mày sẽ biết tay!”

“Tội nghiệp con mụ già Janice Avery.” Jess nói khi hai đứa đã yên vị trong lâu đài.

“Tội nghiệp con mụ già Janice á? Nó đáng bị thế vì những điều nó đã làm!”

“Tớ biết,” Thằng bé thở dài. “Nhưng mà - ”

Leslie có vẻ chùn lại. “Cậu không tiếc vì mình đã làm điều ấy chứ?”. “Không, tớ không tiếc vì những điều mình đã làm, nhưng nó vẫn - ”

“Vẫn làm sao?”

Thằng bé cười toe. “Chắc tớ thấy thương Janice Avery giống kiểu cậu thương mấy con cá voi sát thủ ấy.”

Con bé thụi vào vai thằng bé. “Đi ra ngoài và tìm mấy tên khổng lồ hay mấy thây ma để tẩn đi. Tớ chán ngấy Janice Avery rồi.”

Ngày hôm sau Janice Avery bước uỳnh uỳnh lên xe buýt, ánh mắt con bé thách thức bất cứ ai dám nói một lời nào. Leslie huých nhẹ May Belle.

Mắt con bé dại đi. “Hai người đã - ?”

“Suỵt. Ừ.”

May Belle xoay ngoắt lại và nhìn chằm chằm vào bắng ghế sau, sau đó quay lại và châm chọc. “Hai người làm mụ ta điên đến thế cơ à?”

Jess gật đầu thật khẽ, cố gắng cử động càng ít càng tốt.

“Bọn chị đã viết lá thư ấy,” Leslie thì thầm. “Nhưng em không được kể với ai đâu đấy, không thì nó giết bọn chị mất.”

“Em biết rồi,” May Belle trả lời, mắt con bé sáng rỡ. “Em biết mà.”


Chú thích:
*Twinkies: Một loại bánh ăn vặt nhân kem của Hoa Kỳ.
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
SÁU – Sự xuất hiện của Hoàng tử Terrien

Tận gần một tháng nữa mới đến Giáng Sinh, vậy mà ở nhà Jess mấy đứa con gái đã phát rồ lên rồi. Năm nay Ellie và Brenda đã có bạn trai là học sinh trung học nên vấn đề tặng gì cho họ và mong nhận được gì từ họ trở thành nguyên nhân cho những cuộc cãi vã vô tận. Cãi vã, bởi như một lẽ đương nhiên, Mẹ bọn trẻ phàn nàn về việc không có đủ tiền để mua quà Giáng Sinh cho lũ trẻ, lấy đâu ra mà dư thừa để mua đĩa nhạc hay áo phông cho hai thằng con trai bà còn chưa bao giờ biết mặt mũi thế nào.


“Mày tặng gì cho bạn gái mày hả Jess?”. Brenda nhăn mặt theo cái kiểu xấu xí của riêng nó. Jess cố lờ nó đi. Thằng bé đang đọc một cuốn sách Leslie cho mượn, và câu chuyện về chuyến phiêu lưu của người phụ tá chăn lợn quan trọng với nó hơn nhiều lần sự mỉa mai của Brenda.

“Mày không biết hả Brenda?” Ellie chen vào. “Jess làm gì có bạn gái.”

“Ờ, cái này thì mày đúng. Chả ai có mắt thẩm mỹ mà lại đi gọi cái que củi ấy là con gái cả.” Brenda dí mặt nó vào mặt thằng bé và rít lên từ “con gái” qua đôi môi trét dầy son của nó. Một cái gì đó khổng lồ và nóng hổi trào lên trong lồng ngực thằng bé, và nếu nó không đứng bật dậy khỏi ghế và bỏ đi thì chắc nó đã đập chị nó một trận rồi.

Nó cố tìm ra nguyên nhân khiến nó cáu giận đến vậy. Một phần, thật rõ ràng, nó thấy bực vì một đứa đần độn như Brenda lại nghĩ rằng nó có quyền lấy Leslie ra làm trò đùa. Lạy Chúa, ruột thằng bé quặn thắt lại khi nó nhớ ra chính Brenda mới là chị ruột của nó, và sự thực là, trên một góc nhìn khác, nó và Leslie chả liên quan gì đến nhau cả. Có khi nào, thằng bé nhủ thầm, nó là một đứa con nuôi, như trong truyện ấy. Trở về ngày ấy khi con nước cạn vẫn còn đầy nước, nó đã trôi đến vùng này trong một cái giỏ liễu gai phết hắc ín chống thấm nước. Bố đã tìm thấy nó và mang nó về nhà bởi ông đã luôn khao khát có được một đứa con trai, nhưng những gì ông có khi ấy chỉ là mấy đứa con gái ngu ngốc. Và bố mẹ đẻ của nó, cùng với các anh chị em nó sinh sống ở một nơi xa lắm – xa hơn cả phía Tây Virginia, xa hơn cả Ohio. Ở một nơi nào đó nó có một gia đình, những người sở hữu nhiều căn phòng chất đầy sách, những người vẫn khóc thương cho đứa con bị bắt đi của họ.

Thằng bé lắc đầu để trở về với công cuộc tìm kiếm cội nguồn cơn giận của mình. Nó cũng bực mình vì sắp tới Giáng Sinh rồi mà nó chả có gì để tặng Leslie cả. Con bé không có vẻ gì là đòi hỏi một món quà đắt tiền từ nó; chỉ là việc nó tặng quà cho Leslie cũng cần thiết như việc nó phải ăn khi đói vậy.

Nó đã nghĩ đến việc tặng con bé một quyển tranh do nó vẽ. Nó thậm chí đã thó màu sáp và giấy trắng ở trường để làm điều ấy. Nhưng chẳng có bức tranh nào làm nó hài lòng cả, nó cứ vẽ được một nửa thì lại nguệch ngoạc vào đấy rồi búng vào bếp để đốt.

Vào tuần học cuối cùng trước kỳ nghỉ, thằng bé bắt đầu tuyệt vọng. Chả có ai để giúp đỡ nó hay cho nó lời khuyên cả. Bố bảo rằng ông sẽ cho nó tiền để mua quà cho mọi người trong nhà, mỗi người một đô, nhưng kể cả nó có ăn gian chút xíu từ số tiền ấy thì cũng không có chuyện đủ tiền để mua bất cứ cái gì xứng đáng để tặng cho Leslie cả. Với lại May Belle đã đòi một bộ búp bê mới, nó đã hứa với con bé sẽ cắt xén bớt tiền mua quà cho Brenda với Ellie để sắm cho con bé cái món ấy. Cuối cùng hóa ra giá cả đã tăng vọt, và để mua được quà cho May Belle thì Jess đã phải ăn bớt vào tiền quà cho tất cả những thành viên còn lại trong gia đình. Dù sao thì năm nay cũng cần tặng cho May Belle một món quà đặc biệt. Con bé lúc nào cũng ở bên cạnh nó cả. Nó và Leslie không thể cho con bé tham gia cùng vào những trò chơi của chúng, nhưng rất là khó để giải thích điều ấy với một người như May Belle. Sao con bé không chơi với Joyce Ann nhỉ? Jess không thể lúc nào cũng chơi với con bé được. Dù sao thì cũng phải tặng búp bê cho con bé.

Thế là thằng bé vừa không có tiền, vừa quay cuồng trong nỗ lực tìm kiếm một thứ gì đó cho Leslie. Con bé không giống Brenda hay Ellie. Nó sẽ không cười Jess dù thằng bé tặng nó bất cứ cái gì. Nhưng vì chính bản thân mình, Jess sẽ phải tặng con bé cái gì đấy mà nó thấy tự hào được.

Nếu thằng bé có tiền, nó sẽ tặng Leslie một cái tivi. Một cái tivi Nhật Bản nhỏ xíu để con bé giữ trong phòng nó, không làm phiền đến Judy và Bill. Việc họ chả có tivi thật vô lý khi đặt cạnh số tiền mà họ có. Leslie không có vẻ gì là giống Brenda – một người cứ ngồi dán vào tivi hàng giờ liền, mắt lồi ra và miệng thì há hốc như một con cá vàng. Nhưng thỉnh thoảng thì người ta cũng phải xem tivi chứ. Ít nhất thì nếu con bé có tivi, mấy đứa ở trường sẽ hết cái để mà bàn tán. Nhưng đương nhiên là chả có cách nào mà Jess có thể mua tivi cho con bé được. Thực ra thì nguyên cái việc nghĩ đến điều ấy đã khá là ngu ngốc rồi.

Chúa ơi, thì nó ngu ngốc thật mà. Thằng bé nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ xe buýt. Việc một người như Leslie dành thời gian cho nó quả là một điều kỳ diệu. Nhưng cũng vì chả có ai khác cả. Nếu con bé tìm thấy bất kỳ một ai khác ở cái trường ngu ngốc này – thằng bé ngốc đến nỗi suýt nữa thì nó không nhận ra cái biển hiệu ấy. Nhưng trong đầu thằng bé một cái công tắc vừa được bật lên, và nó bật dậy, gạt May Belle và Leslie ra.

“Gặp lại sau nhé.” Thằng bé thì thầm, rồi tìm đường đi xuyên qua lối đi đầy những cặp chân thò ra.

“Cô cho em xuống đây nhé cô Prentice?”

“Đây có phải điểm dừng của cậu đâu.”

“Mẹ em giao việc cho em cô ạ.” Thằng bé nói dối.

“Miễn là cậu đừng đem lại rắc rối cho tôi là được.” Bà nói và đạp phanh.

“Không đời nào đâu thưa cô, cảm ơn cô ạ.”

Thằng bé nhảy xuống trước cả khi chiếc xe kịp dừng hẳn và chạy ngược về phía cái biển hiệu ấy.

“Cún con,” Trên bảng ghi. “Miễn phí.”

Jess hẹn Leslie đến gặp nó ở lâu đài vào chiều Giáng Sinh. Cả gia đình Jess đã đến Trung tâm mua sắm Millsburg để mua nốt những thứ đồ cần thiết, nhưng thằng bé không đi cùng. Chú cún nhỏ bé là một phép màu với bộ lông nâu đen và một đôi mắt nâu to tròn. Jess thó một dải ruy băng từ ngăn kéo của Brenda, vội vàng băng ngang cánh đồng, đi xuống đồi với chú cún cựa quậy trong vòng tay nó. Trước khi thằng bé đến được con nước cạn, chú cún đã liếm khô hết mặt nó và tè một bãi vào chiếc áo khoác của nó, nhưng thằng bé không tài nào giận được. Nó ghì chú cún thật chặt trong vòng tay và đu sang phía bờ kia của con nước nhẹ nhàng hết sức có thể. Thằng bé đáng lẽ có thể lội ngang qua lòng mương. Như thế thì dễ hơn nhiều, nhưng nó không thể lờ đi cái cảm giác rằng người ta chỉ có thể tiến vào Terabithia bằng cách sử dụng lối đi được định sẵn ấy. Và nó không thể phá vỡ luật lệ chỉ vì chú cún này. Như thế thì cả hai sẽ gặp vận xui mất.

Vào đến lâu đài rồi, Jess buộc dải ruy băng quanh cổ chú cún, thằng bé bật cười khi chú cún cứ cố lẩn tránh và tìm cách nhai dải băng. Đó quả là một chú cún nhỏ nhắn lanh lợi, đầy sức sống – là một món quà mà Jess có thể lấy làm tự hào được.

Vẻ hạnh phúc bừng sáng trên gương mặt Leslie thật không lẫn đi đâu được. Con bé quỳ thụp xuống trên mặt đất lạnh giá, ôm chú cún lên và đưa lại gần sát mặt mình.

“Cẩn thận đấy,” Jess cảnh báo. “Nó còn phun phì phì nhiều hơn cả một khẩu súng nước nữa.”

Leslie liền tránh xa ra một chút. “Nó là đực hay cái thế?” Thật hiếm khi có dịp để Jess dạy con bé một điều gì đấy. “Một chàng trai.” Thằng bé nói vui vẻ.

“Vậy chúng mình sẽ đặt tên cậu chàng là Hoàng tử Terrien và để cậu ta làm người canh giữ Terabithia nhé.”

Con bé đặt chú cún xuống và đứng lên.

“Cậu đi đâu thế?”

“Đến rừng thông,” con bé đáp. “Bây giờ chính là thời khoắc huy hoàng nhất của niềm hạnh phúc tươi vui đấy.”

Chiều muộn hôm ấy Leslie tặng Jess món quà con bé đã chuẩn bị. Một bộ màu nước với hai mươi tư màu, ba cái chổi vẽ và một tập giấy vẽ dày.

“Chúa ơi,” thằng bé kêu. “Cảm ơn cậu.” Nó cố nghĩ ra một câu khác để nói, nhưng chả nghĩ ra được gì. “Cảm ơn cậu”, thằng bé lặp lại.

“Không được tuyệt như món quà của cậu,” con bé lẩm bẩm, “nhưng tớ mong là cậu thích.”

Nó muốn nói với con bé xiết bao rằng con bé khiến nó cảm thấy bản thân đáng tự hào và tốt đẹp đến mức nào, rằng Giáng Sinh chả còn làm phiền nó nữa vì hôm nay là một ngày tuyệt đẹp, nhưng chẳng có từ nào thoát ra khỏi miệng nó được. “Ừ, phải, được rồi.”, thằng bé nói, ngồi dậy và bắt đầu hòa ca với Hoàng tử Terrien. Chú cún chạy vòng tròn quanh thằng bé, kêu ăng ẳng một cách vui vẻ.

Leslie bật cười. Jess như được tiếp lửa. Thằng bé bắt chước mọi cử chỉ của chú cún, lăn xuống sàn với cái lưỡi thè ra. Leslie cười dữ đến nỗi con bé gặp khó khăn trong việc nói cho rõ ràng. “Cậu-cậu điên thật đấy. Làm sao chúng mình huấn luyện nó thành một người canh giữ chân chính được bây giờ? Cậu đang biến nó thành một chú hề đấy.”

“Gâ-ââuu”, hoàng tử Terrien kêu lên, ngửa mặt lên trời. Jess và Leslie lăn ra cười. Chúng cười đến phát đau luôn.

“Tớ nghĩ là,” cuối cùng Leslie nói. “Chúng ta hãy để nó làm một anh hề hoàng gia.”

“Còn tên nó thì sao?”

“Thì cứ để nó giữ tên đấy. Kể cả một hoàng tử” – con bé nói bằng chất giọng Terabithia của mình – “kể cả một hoàng tử thì cũng được phép ngốc nghếch chứ.”

Niềm hạnh phúc từ buổi chiều vẫn đọng lại trong thằng bé đến tận tối. Thậm chí trận cãi vã của chị em nó về thời gian mở quà cũng chả làm nó phiền lòng. Nó giúp May Belle bọc những món quà của con bé và thậm chí còn hát vang bài “Ông già Nô-en đã đến rồi” với con bé và Joyce Ann. Đột nhiên Joyce Ann bật khóc vì nhà họ không có ống khói và ông già Nô-en sẽ không thể vào nhà được, Jess thấy tội nghiệp cho con bé vì đã đến Trung tâm mua sắm Millsburg, nhìn thấy tất cả những thứ đồ hào nhoáng ở đó và cầu mong rằng một gã nào đó mặc đồ màu đỏ sẽ tặng cho nó những thứ mà nó muốn. May Belle, ở tuổi lên sáu, đã biết khá nhiều rồi. Và con bé chỉ mong chờ mấy con búp bê ngốc nghếch ấy thôi. Thằng bé thấy mừng vì nó đã mua được món đó. Joyce Ann thì sẽ chả quan tâm kể cả khi nó chỉ tặng con bé một cái cặp tóc. Con bé sẽ đổ lỗi cho ông già Nô-en, chứ không phải thằng anh trai, vì tội ki bo.

Jess quàng tay qua vai con bé một cách ngượng nghịu. “Coi này, Joyce Ann. Đừng khóc. Ông già Nô-en biết đường mà. Ổng không cần đến ống khói đâu, đúng không hả May Belle?”. May Belle đang nhìn nó bằng đôi mắt to tròn đầy vẻ nghiêm túc. Jess nháy mắt đồng lõa với con bé phía trên đầu Joyce Ann. Và điều đấy làm con bé mềm lòng.

“Phải đấy Joyce Ann. Ổng biết đường mà. Cái gì ổng chả biết.”.Con bé phồng má lên cố đáp trả cái nháy mắt của ông anh trai. Quả là một cô bé ngoan. Thằng bé thực sự rất yêu quý May Belle.

Sáng hôm sau thằng bé phải giúp em gái nó thay đồ cho búp bê trên dưới ba mươi lần. Tròng chiếc váy bó qua đầu và cánh tay con búp bê, cũng như đóng những cái cúc bé xíu dường như là một việc quá sức với những ngón tay mũm mĩm của một cô bé sáu tuổi.

Jess nhận được một bộ ô tô điều khiển từ Bố, nó cố chơi để làm ông vui lòng. Đó không phải loại ô tô mà người ta quảng cáo trên tivi, nhưng cũng là loại chạy điện, và thằng bé biết bố nó đã tiêu nhiều tiền vào đó hơn dự định. Nhưng cái xe ngu ngốc cứ chết máy mỗi khi đến khúc cua, điều này khiến Bố cuối cùng cũng phải chửi thề với vẻ mất kiên nhẫn thấy rõ. Jess chỉ mong sao chiếc xe đừng giở chứng. Nó muốn bố cũng thấy tự hào với món quà của ông như nó đã thấy tự hào về chú cún.

“Tuyệt lắm bố ạ. Thật đấy, chỉ là con chưa quen thôi.” Mặt thằng bé đỏ bừng khi nó gạt mớ tóc khỏi mắt, tì người vào mô hình đường đua tám làn bằng nhựa.

“Đúng là một mớ rác rưởi.” Ông bố đá chân một cách nguy hiểm gần cái mô hình. “Đừng bao giờ xì tiền ra mà chả làm được cái gì.”

Joyce Ann đang la hét trên giường vì nó đã rút một sợi dây từ con búp bê biết nói của mình ra, và giờ thì con búp bê không nói được nữa. Brenda cứ trề môi ra vì Ellie nhận được một chiếc quần bó trong khi nó thì chỉ được tặng một đôi tất bông. Ellie thì càng khiến tình hình tệ đi bằng cách giễu qua giễu lại trong chiếc quần mới của nó, biến việc giúp Mẹ chuẩn bị bữa tối gồm giăm bông và khoai tây ngọt trở thành sàn diễn của mình. Chúa ơi, nhiều khi Ellie cũng khó chịu y như Wanda Kay Moore vậy.

“Thưa cậu trẻ Jesse Oliver Aarons, tôi sẽ hạnh phúc lắm nếu cậu dành một chút thời gian quý giá của cậu để đi vắt sữa, thay vì chơi với mấy cái đồ ấy. Kể cả cậu có nghỉ lễ thì Bessie cũng không được nghỉ đâu.”

Jess bật dậy, mừng vì có một lý do chính đáng để tách mình khỏi mấy đường đua mãi không chịu hoạt động cho tốt, khiến thằng bé không tài nào làm Bố hài lòng được. Mẹ thằng bé có vẻ không thấy được sự khẩn trương trong phản ứng của nó, nên bà tiếp tục nói giọng phàn nàn, “Tôi không biết phải xoay xở thế nào nếu không có Ellie nữa. Nó là đứa duy nhất

quan tâm xem tôi sống hay chết.” Ellie nở nụ cười thiên thần rất kịch với Jess rồi với Brenda, người đang ngó nó trân trân.

Chắc hẳn là Leslie rất muốn gặp Jess, bởi ngay khi thằng bé vừa bắt đầu băng ngang qua khoảnh sân thì nó đã thấy con bé chạy về phía nó từ Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin., chú cún con nửa chạy nửa vấp trong khi chạy vòng vòng quanh chân con bé.

Hai đứa gặp nhau ở lán của cô Bessie. “Tớ tưởng là cậu sẽ chẳng ra ngoài sáng nay đấy.”

“Ừ thì, Giáng Sinh, cậu biết mà.”

Hoàng tử Terrien bắt đầu chơi trò chụp bắt với mấy cái móng của cô Bessie. Cô nàng liền dậm chân tỏ vẻ khó chịu lắm. Leslie bế chú cún lên để Jess bắt đầu vắt sữa. Chàng hoàng tử bắt đầu giãy dụa và liếm láp khắp nơi, làm Leslie khó có thể nói cho ra tiếng được. Con bé khúc khích một cách hạnh phúc, “Con cún này ngốc thật đấy.”, giọng con bé đầy tự hào.

“Chuẩn.” Và cảm giác Giáng Sinh lại ngập tràn.
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
BẢY – Căn phòng vàng

Ông Burke đã bắt tay vào sửa sang lại Ngôi nhà cũ của gia đình Perkin. Sau Giáng Sinh, bà Burke tiếp tục với cuốn sách đang dang dở của mình, vì vậy bà không rảnh để giúp đỡ trong bất cứ việc gì, và Leslie đảm nhận công việc tìm kiếm và mua vui như một lẽ tất nhiên. Dù rất thông thái trong lĩnh vực âm nhạc và chính trị, ông Burke quả là một người đãng trí. Ông có thể bỏ chiếc búa trong tay xuống để cầm lên quyển cẩm nang hướng dẫn, sau đó thì làm mất cây búa trong đống lộn xộn và quên luôn công việc mình đang làm dở. Leslie rất giỏi trong việc dò ra tung tích các dụng cụ cho ông, và ông cũng thích có con bé ở bên. Mỗi khi con bé từ trường về nhà, hay trong kì nghỉ cuối tuần, bố con bé luôn muốn nó bầu bạn cùng ông. Và Leslie giải thích tất cả những điều này với Jess.

Jess thử đến Terabithia một mình, nhưng chẳng được tích sự gì cả. Phải có Leslie thì mới có phép màu. Thằng bé sợ nó sẽ phá hỏng tất cả nếu cố tự mình tạo ra phép màu, rõ ràng là phép màu không tự nhiên mà đến với nó được.

Nhưng về nhà thì hết mẹ bắt nó làm cái gì đấy, lại đến May Belle bắt nó chơi búp bê cùng. Lạy Chúa, nó ước một triệu lần rằng nó đã không tặng con bé con búp bê đần độn ấy. Thằng bé chỉ vừa kịp nằm xuống sàn chuẩn bị vẽ là y như rằng May Belle sẽ chạy đến bắt nó cài một cúc áo hay lắp lại một cánh tay bị rời ra. Joyce Ann còn tệ hơn nữa. Con bé có một thú vui độc ác mới mẻ là nhảy cái bịch lên mông thằng anh trai mỗi khi nó nai lưng ra làm việc. Nếu thằng bé quát con bé tránh khỏi người nó, kiểu gì con bé cũng ngậm tay vào miệng rồi òa khóc. Mà điều này, như một lẽ đương nhiên, sẽ làm Mẹ bọn trẻ cáu điên.

“Jesse Oliver! Để con bé yên xem nào, mà anh làm cái trò gì mà cứ nằm ườn ra sàn chả làm gì hết thế hả? Tôi chưa nói với anh là tôi không thể nấu được bữa tối nếu anh không cho củi vào bếp lò à?”

Thỉnh thoảng thằng bé lẻn đến Nơi ở cũ của nhà Jenkin và thấy Hoàng tử Terrien kêu khóc ở hiên trước, nơi nó bị ông Burke đày ra. Cũng không trách ông ấy được. Chẳng ai làm được cái gì nên hồn với một chú cún con cứ bám vào tay và nhảy lên liếm mặt người ta. Vậy là thằng bé bế H.T.T lên và cả hai cùng nô đùa ở sân trước của nhà Burke. Những ngày thời tiết ôn hòa, cô Bessie thường kêu một cách bồn chồn từ phía bên kia hàng rào. Dường như nó vẫn chưa thể quen với những tiếng sủa rền rĩ và tiếng vật lộn. Hoặc có thể là do thời tiết khi ấy, chất cặn của mùa đông còn lắng lại làm mọi thứ đều có vẻ tồi tệ. Không một ai có thể thấy vui vẻ được, dù là con người hay động vật.

Trừ Leslie. Con bé dường như phát điên với việc sửa sang lại phần nhà bị hư hại. Con bé thích cảm giác bố nó cần nó. Hơn nửa thời gian đáng ra dành để sửa chữa thì họ chỉ toàn buôn chuyện. Con bé đang cố gắng tìm cách, như nó nói một cách tự hào trong giờ nghỉ giải lao, để “thấu hiểu” cha nó. Jess chưa từng nghĩ rằng bất cứ ông bố bà mẹ nào cần được thấu hiểu, điều ấy cũng điên rồ ngang việc cái két sắt ở Millsburg First National đòi thằng bé phá nó vậy. Bố mẹ là bố mẹ; và giải mã họ không phải việc mà bọn trẻ có thể quyết định được. Có một cái gì đó khá là dị trong việc một người đàn ông trưởng thành muốn làm bạn với con cái của ông ta. Ông ấy phải có bạn bè của mình và để con bé có bạn bè của riêng nó chứ.

Cảm giác của Jess với bố Leslie cứ thế tấy lên như một vết thương. Bạn càng cắn nó, nó càng loét rộng hơn và tệ hơn chứ chằng tốt lên được. Và bạn phải mất rất nhiều thời gian để cố đừng có cắn vào đó. Nhưng bây giờ là Giáng Sinh, kiểu gì bạn cũng quên mất phải giữ mồm giữ miệng và cắn thẳng vào vết thương ấy. Chúa ạ, ông bố ấy lúc nào cũng xen vào được. Thậm chí còn hủy hoại cả khoảng thời gian thằng bé có với Leslie nữa. Con bé vẫn ngồi mơ mộng trong giờ giải lao như bình thường, và mọi chuyện gần như chẳng thay đổi so với trước đây; nhưng rồi bất thình lình, không hề báo trước, con bé nói, “Bill nghĩ thế này này.” Phập. Ngay vào vết thương cũ.

Cuối cùng, cuối cùng thì con bé cũng nhận ra. Phải đến tận tháng Hai, và đối với một cô gái thông minh như Leslie thì đó quả là một khoảng thời gian rất, rất dài.

“Sao cậu không thích Bill?”

“Ai bảo cậu là tớ không thích?”

“Jess Aarons. Cậu nghĩ tớ ngu đến mức nào?”

Đôi lúc rất là ngu đấy. Nghĩ là vậy nhưng thằng bé nói, “Điều gì làm cậu nghĩ là tớ không thích ông ấy?”

“Uhm, cậu không đến nhà tớ nữa. Lúc đầu thì tớ nghĩ là do lỗi của tớ. Nhưng không phải. Vì cậu vẫn nói chuyện với tớ ở trường. Nhiều lần tớ thấy cậu ở trên bãi cỏ, chơi đùa với H.T.T, nhưng cậu thậm chí còn chả thèm đến gần cửa trước.”

“Cậu lúc nào cũng bận mà.” Thằng bé khó chịu nhận thấy mình nghe giống hệt Brenda khi nói thế.

“Ồ, vì Chúa! Cậu có thể giúp mà.”

Cảm giác cứ như đèn lại sáng sau một cơn chập điện. Chúa ơi, giờ ai mới là đồ ngu đây?

Mặc dù vậy, thằng bé vẫn mất vài ngày mới thấy thoải mái khi ở gần bố của Leslie được. Một phần của vấn đề là vì thằng bé không biết phải gọi ông thế nào. “Ơ,”, thằng bé nói, và cả Leslie lẫn bố con bé đều quay lại. “Ờ, thưa ông Burke?”

“Bác mong con gọi bác là Bill, Jess à.”

“Ồ”. Thằng bé lóng ngóng với cái tên gọi ấy mất vài ngày, nhưng được luyện tập nhiều thì cũng quen dần. Và thực ra cũng khá là vui khi biết những điều mà Bill cùng với bộ não và đống sách của ổng không biết. Jess thấy mình rất có ích, chứ không phải một kẻ phiền toái khiến mọi người phải chịu đựng hoặc bị đày ra hiên như H.T.T.

“Thật tuyệt vời,” Bill nói. “Con học mấy cái đó ở đâu vậy Jess?”. Jess cũng chả biết tại sao nó lại biết mấy điều ấy, nó thường nhún vai và để Bill cùng Leslie hết lời khen ngợi nó – mặc dù kết quả công việc cũng đủ là một lời khen rồi.

Đầu tiên họ gỡ bỏ những tấm ván che chắn cái lò sưởi cũ, tìm ra và cùng xem xét những viên gạch cũ bạc màu như những chuyên gia thăm dò tầng đá mẹ. Tiếp đến họ lột giấy dán tường khỏi những bức tường trong phòng khách – cả năm lớp giấy sặc sỡ sắc màu. Đôi khi trong lúc lắp ráp các đồ vật hay sơn tường, họ cùng nghe những đĩa nhạc của Bill hoặc ca hát, Leslie và Jess dạy Bill một số bài hát của cô Edmunds và ngược lại Bill dạy chúng những bài mà ông biết. Những lúc khác thì họ trò chuyện, Jess lắng nghe một cách trầm tư khi Bill nói về những sự kiện đang xảy ra trên thế giới. Nếu Mẹ có cơ hội nghe ông trò chuyện, chắc chắn bà sẽ nghĩ đó là một ông Walter Cronkite chứ không phải một gã híp-pi.”. Cả nhà Burke đều thật giỏi giang. Có lẽ không giỏi trong việc tìm kiếm hoặc trồng trọt các kiểu, nhưng giỏi theo cái cách mà Jess chưa từng gặp trong đời thực trước đây. Ví dụ như hôm nọ khi mọi người đang làm việc, Judy từ trên tầng đi xuống và đọc cho mọi người nghe, chủ yếu là thơ, trong đó có một số bài bằng tiếng Ý mà đương nhiên là Jess không hiểu được, nhưng đầu óc thằng bé trôi đi trong âm điệu đẹp đẽ của ngôn từ và nó để bản thân chìm đắm vào sự tuyệt vời của gia đình Burke.

Họ sơn tường phòng khách màu vàng. Leslie và Jess thích màu xanh hơn, nhưng Bill nhất quyết đòi màu vàng, màu mà cuối cùng hóa ra đẹp đến nỗi hai đứa trẻ thấy mừng vì đã đồng thuận. Cuối buổi chiều, ánh nắng mặt trời sẽ nghiêng vào phòng từ phía Tây và khiến căn phòng ngập tràn ánh sáng.

Cuối cùng Bill thuê một người thợ đánh bóng từ Trung tâm thương mại Millsburg, họ đặt những tấm lát sàn màu đen lên một tấm sồi rộng và đánh bóng lại chúng.

“Không thảm đâu nhé.” Bill tuyên bố.

“Ừ,” Judy đồng tình. “Có thảm cứ như kiểu đeo mạng cho Mona Lisa ấy.”

Sau khi Bill và bọn trẻ đã sơn lượt cuối cùng khung cửa sổ và đánh bóng các ô kính, họ gọi Judy xuống từ phòng đọc trên lầu của bà để xem kết quả. Cả bốn người ngồi xuống sàn và ngắm nhìn xung quanh. Mọi thứ đều tuyệt đẹp.

Leslie thở dài một cách khoan khoái. “Con yêu căn phòng này,” con bé nói. “Mọi người có thấy cái sắc vàng mê hoặc của nó không? Nó xứng đáng được” – Jess nhìn lên đầy cảnh cáo – “ở trong một tòa lâu đài.”. Cảm giác nhẹ nhõm. Những lúc như này, một người rất dễ để lộ bí mật. Nhưng con bé thì không, kể cả với Bill và Judy, mà đấy là thằng bé còn biết con bé cảm thấy thế nào về bố mẹ nó. Con bé chắc đã nhìn thấy sự lo lắng của Jess vì nó nháy mắt với thằng bé qua Bill và Judy, giống hệt lúc thằng bé nháy mắt với May Belle qua đầu Joyce Ann. Terabithia vẫn chỉ thuộc về riêng hai đứa nó.

Chiều hôm sau bọn trẻ gọi H.T.T và tiến về Terabithia. Hơn một tháng đã trôi qua kể từ lần cuối chúng cùng nhau đến đây, và chúng đi chậm lại khi đến gần con nước cạn. Jess không chắc rằng mình còn nhớ cách để làm một vị vua.

“Chúng ta đã đi xa nhiều năm rồi,” Leslie thì thầm. “Ngài nghĩ vương quốc đã ra sao khi chúng ta vắng mặt?”

“Chúng ta đã đi đâu vậy?”

“Chinh phục những kẻ thù địch mọi rợ trên biên giới phía Bắc của chúng ta,” con bé trả lời. “Nhưng cổng liên lạc đã bị cắt đứt, và vì thế chúng ta không nhận được tin tức gì từ quê hương yêu dấu trong một thời gian dài rồi.”. Đây là cách mà một nữ hoàng thường nói sao? Jess mong nó đủ sức bắt kịp được. “Nàng nghĩ có gì tồi tệ đã xảy ra à?”

“Chúng ta phải dũng cảm lên, đức vua của ta. Rất có thể là như vậy đấy.”

Chúng đu một cách lặng lẽ qua con nước cạn. Sang đến bờ bên kia, Leslie nhặt lên hai thanh củi. “Hãy cầm lấy thanh gươm này, thưa bệ hạ.” con bé thì thầm.

Jess gật đầu. Chúng gập người xuống và rón rén từng bước về phía tòa thành như những tay thám tử trên tivi.

“Hoàng hậu! Cẩn thận! Đằng sau nàng!”

Leslie quay ngoắt lại và bắt đầu đọ kiếm với kẻ thù tưởng tượng. Nhiều tên khác tràn đến vây lấy hai đứa và âm thanh chiến trận tràn ngập Terabithia. Người bảo vệ của vương quốc chạy vòng tròn trong vũ điệu cún con hạnh phúc, quá trẻ để hiểu hết sự nguy hiểm đang bao vây họ lúc này.

“Chúng rút lui rồi!” Vị hoàng hậu dũng cảm thét lên.

“Đuổi chúng đi cho khuất mắt, để chúng không bao giờ dám quay lại và đe dọa người dân của chúng ta nữa.”

“Biến đi ngay! Cút! Cút hết!” Suốt quãng đường đến con nước cũ, hai đứa đánh đuổi bè lũ kẻ thù, mồ hôi chảy đầm đìa dưới lớp áo khoác của chúng.

“Cuối cùng. Terabithia lại được độc lập.”

Đức vua ngồi xuống trên một khúc cây và lau mồ hôi trên mặt, nhưng hoàng hậu không để ông nghỉ ngơi lâu. “Thưa bệ hạ, chúng ta phải đến Rừng thông và cảm tạ vì chúng ta đã chiến thắng.”

Jess theo chân con bé vào khu rừng, nơi chúng đứng lặng im trong ánh sáng nhạt nhòa.

“Chúng ta cảm tạ ai?”, thằng bé thì thầm.

Vẻ chần chừ thoảng qua gương mặt con bé. “Hỡi đấng Toàn năng,”, con bé lên tiếng. Nhưng có vẻ con bé thấy pháp thuật dễ chịu hơn tôn giáo. “Hỡi Những linh hồn của Rừng thông.”

“Cánh tay phải của người đã cho chúng con chiến thắng.”. Thằng bé không nhớ nổi mình đã nghe câu này ở đâu, nhưng nó có vẻ phù hợp. Leslie nhìn thằng bé vẻ đồng tình.

Con bé tiếp lời. “Xin người hãy bảo vệ Terabithia, những người dân của nó, và cả chúng con, những kẻ trị vì.”

“Ẳngggggg”

Jess cố nín cười. “Và cả chú cún con của nó nữa.”

“Và cho Hoảng tử Terrien, người canh giữ kiêm anh hề của vương quốc. Amen.”

“Amen.”

Bằng cách nào đó cả hai đứa đã nén được những tiếng khúc khích chực bùng nổ cho đến khi ra khỏi vùng đất thiêng.

Một vài ngày sau cuộc tấn công của kẻ thù nhằm vào Terabithia, chúng gặp phải một kẻ thù khác ở trường. Vào giờ giải lao Leslie kể với Jess rằng nó vừa định đi vào nhà vệ sinh nữ thì bị ngăn lại bởi tiếng khóc phát ra từ một buồng vệ sinh. Con bé hạ giọng xuống. “Điều này nghe có vẻ điên rồ,”, con bé nói. “Nhưng nhìn chân thì tớ chắc đó là Janice Avery.”

“Cậu đùa à.”. Thằng bé thật không thể tưởng tượng nổi cảnh Janice Avery ngồi khóc trên bệ xí.

“Thì, nó là đứa duy nhất trong trường viết tên Willard Hughes lên giầy thể thao. Với lại khói thuốc lá trong ấy dày đến nỗi ai đi vào cũng cần một cái mặt nạ phòng độc.”

“Cậu chắc là nó khóc không?”

“Jess Aarons, tớ phân biệt được khi nào người ta khóc mà.”

Chúa ơi, có vấn đề gì với thằng bé vậy? Janice Avery chằng đem lại lại gì cho nó ngoài rắc rối cả, và giờ thì nó cảm thấy tiếc cho con bé – như kiểu nhà Burke cảm thấy với một con sói xám hoặc một con cá voi. “Nó đâu có khóc lúc bọn kia trêu nó với Willard sau vụ bức thư.”

“Ừ, tớ biết.”

Thằng bé nhìn Leslie. “Vậy,”, nó nói. “Chúng mình nên làm gì?”

“Làm gì?”, con bé hỏi. “Ý cậu chúng mình nên làm gì là sao?”. Làm sao thằng bé giải thích cho con bé hiểu được đây? “Leslie, nếu con mụ đó là một động vật ăn thịt thì chúng mình có nghĩa vụ phải giúp đỡ nó.”

Leslie trao cho thằng bé một cái nhìn tức cười.

“Ờ thì, cậu lúc nào cũng bảo tớ là phải quan tâm hơn.”, thắng bé nói.

“Nhưng mà Janice Avery á?”

“Nếu con đó khóc, chắc chắn phải có chuyện gì cực kỳ tệ.”

“Thế, cậu có kế hoạch gì?”

Thằng bé đỏ mặt. “Tớ không vào phòng vệ sinh nữ được.”

“À, hiểu rồi. Cậu sắp cho tớ vào hàm cá mập. Không, cảm ơn, thưa ông Aarons.”

“Leslie, tớ thề - tớ thề là tớ sẽ vào đó nếu tớ có thể.”. Và thằng bé thực sự nghĩ là nó dám làm vậy. “Cậu không sợ nó mà, đúng không Leslie?”. Thằng bé không có ý thách thức con bé, nó chỉ thấy cái ý tưởng rằng Leslie sợ bất cứ thứ gì thật ngu ngốc.

Con bé lườm thằng bé và hất cằm lên một cách kiêu hãnh. “Được rồi, tớ sẽ vào. Nhưng tớ muốn cậu biết điều này, Jess Aarons, tớ nghĩ đây là ý tưởng ngu ngốc nhất cậu từng có từ ngày cậu sinh ra đấy.”

Thằng bé rón rén theo Leslie vào sảnh và trốn vào góc tường gần cửa phòng vệ sinh nữ nhất. Nó phải ở đó, ít nhất để đỡ con bé nếu Janice tống con bé ra ngoài.

Có một khoảng lặng sau khi đánh cửa đóng lại sau lưng Leslie. Tiếp đến thằng bé nghe Leslie nói gì đó với Janice. Liền đó là một tiếng chửi thề to đến nỗi khó mà nghe nhầm sau cánh cửa đóng chặt. Rồi một tràng thổn thức, không phải từ Leslie, tạ ơn Chúa, sau đó là một tràng thổn thức lẫn tiếng nói chuyện và rồi – tiếng chuông.

Thằng bé không thể để bị bắt gặp nhìn chằm chằm vào cửa phòng vệ sinh nữ, nhưng sao nó có thể bỏ đi được? Nó sẽ bị nguyền rủa trên lửa tà hà khắc. Dòng người ùa vào tòa nhà đã giải quyết được vấn đề của thằng bé. Nó để mình bị cuốn đi và tìm đường đến mấy bậc thang chỗ tầng hầm, trong đầu vẫn tràn ngập âm thanh những tiếng chửi rủa và thổn thức.

Khi về đến phòng học của mình, thằng bé cứ dán mắt vào cửa ra vào. Một phần trong nó hy vọng thấy Leslie bước vào phẳng dẹt như con sói trong Road Runner*. Nhưng con bé đi vào, miệng mỉm cười và không có dấu vết gì của một con mắt bị bầm dập. Con bé lướt qua cô Myers và thì thầm lời xin lỗi vì vào trễ, và cô Myers cười với nó cái nụ cười đã được mệnh danh là “Leslie Burke đặc biệt”.


Làm thế nào để thằng bé biết được điều gì đã xảy ra nhỉ? Nếu nó truyền giấy, mấy đứa khác sẽ đọc mất. Leslie lại ngồi tít ở góc trên, chả gần giỏ rác hay chỗ gọt bút bì, nên thằng bé cũng không thể trả vờ là đang đi đến chỗ nào đấy để trao đổi với con bé được. Con bé cũng không đi xuống chỗ nó làm gì. Chắc chắn là vậy. Con bé đang ngồi thẳng thớm ở bàn mình, vẻ mặt hài lòng như thể một tay đua xe gắn máy vừa bay qua một lượt mười bốn chiếc xe tải.

Leslie vẫn giữ vẻ mặt ấy cho đến hết buổi chiều, cả lúc lên xe buýt nơi Janice Avery cười với con bé một nụ cười vặn vẹo trên đường xuống bắng ghế cuối, Leslie nhìn Jess cái kiểu “Thấy chưa!”. Thằng bé tưởng như phát điên vì tò mò. Con bé thậm chí còn bắt thằng bé đợi thêm khi xe buýt đã đi khỏi bằng cách hất đầu về phía May Belle như muốn nói, “Chúng mình không bàn chuyện này trước mặt trẻ con thì hơn.”

Cuối cùng, cuối cùng thì trong cái bóng tối an toàn của tòa lâu đài, con bé cũng chịu kể cho thằng bé.

“Cậu có biết tại sao con bé ấy khóc không?”

“Làm sao mà tớ biết được chứ? Chúa ạ, Leslie, cậu sẽ nói cho tớ biết chứ? Cái đồ mắc dịch gì đã xảy ra thế?”

“Janice Avery là một người rất tội nghiệp. Cậu có biết không?”

“Rốt cuộc thì tại sao nó khóc, xin cậu nói đi, vì Chúa?”

“Đây là một trường hợp rất phức tạp. Giờ thì tớ đã hiểu tại sao Janice hay gây sự với mọi người như thế.”

“Cậu sẽ kể cho tớ chuyện đã xảy ra trước khi tớ bị thoát vị chứ?”

“Cậu có biết là bố nó đánh nó không?”

“Một đống đứa bị bố đánh. Cậu bỏ qua phần đấy được chứ?”

“Không, ý tớ là đánh thật ấy. Kiểu đánh đập khiến người ta bị bắt vào tù ở Arlington”. Con bé lắc đầu vẻ không tin nổi. “Cậu không tưởng tượng được đâu...”

“Vậy đấy là lý do nó khóc à? Vì bố nó đánh nó?”

“Ồ, không. Con bé bị đánh suốt. Nó sẽ không khóc ở trường vì chuyện ấy đâu.”

“Thế nó khóc vì cái gì?”

“Uhm - ”. Chúa ơi, Leslie thích cảm giác này thì phải. Nó cứ bắt thằng bé chờ dài cả cổ. “Uhm, hôm nay con bé giận bố đến nỗi nó kể với những người-được-gọi-là-bạn của nó, Wilma và Bobby về điều ấy.”

“Và?”

“Và hai – hai - ”. Con bé cố tìm một từ đủ để miêu tả sự xấu xa của những người bạn của Janice mà không thấy. “Hai đứa ấy phun hết ra cho cả khối Bảy biết.”

Cảm giác thương hại cho Janice Avery quét qua người thằng bé.

“Cả giáo viên cũng biết chuyện.”

“Ôi trời.”. Lời lẽ bật ra như một tiếng thở dài. Có một luật ngầm ở Lark Creek, quan trọng hơn bất cứ luật nào thầy Turner đừng đưa ra và phát rồ vì chúng. Luật đó nói rằng bạn không bao giờ được phép lẫn lộn những vấn đề ở nhà với cuộc sống ở trường. Dù các bậc phụ huynh nghèo khổ, thiếu quan tâm hay ác độc, thậm chí là không tin tưởng vào việc sử dụng tivi, thì những đứa con của họ cũng có nghĩa vụ bảo vệ họ. Đến ngày mai thôi là toàn bộ học sinh và giáo viên ở trường tiêu học Lark Creek sẽ bàn tán, thì thầm to nhỏ về bố của Janice Avery. Cũng chẳng vấn đề gì nếu bố của chính họ đang nằm trong bệnh viện quốc gia hay trong nhà tù liên bang, họ không phản bội bố của họ, còn Janice thì có.

“Cậu biết gì nữa không?”

“Gì?”

“Tớ kể với Janice chuyện nhà tớ không có tivi và tất cả mọi người đều cười nhạo. Tớ bảo nó là tớ hiểu cảm giác bị tất cả mọi người nghĩ rằng mình dở hơi.”.

“Thế nó nói gì về chuyện ấy?”

“Nó biết là tớ nói thật. Nó còn xin lời khuyên của tớ như kiểu tớ là Dear Abby* ấy.”

“Và?”


“Tớ bảo nó là cứ vờ như không hiểu những điều Wilma với Booby Sue nói hay cái nguồn mà chúng nó lấy được cái câu chuyện điên rồ ấy và rồi mọi người sẽ quên hết trong vòng một tuần.”. Con bé nghiêng người qua, đột nhiên trở nên căng thẳng. “Cậu có nghĩ đấy là một lời khuyên tốt không?”

“Chúa ạ, sao tớ biết được? Nó có thấy khá hơn không?”

“Tớ nghĩ là có. Nó có vẻ khá hơn nhiều lắm.”

“Thế thì đấy là một lời khuyên tốt đấy.”

Con bé ngồi thẳng trở lại, vui vẻ và thoải mái. “Biết gì không, Jess?”

“Gì?”

“Nhờ có cậu, tớ nghĩ là giờ tớ có một và một người bạn rưỡi ở trường Lark Creek này.”

Thằng bé thấy đau đớn vì việc có bạn bè lại có ý nghĩa nhiều như thế với Leslie. Đến bao giờ con bé mới hiểu rằng điều đấy không đáng để nó gặp nhiều rắc rối như thế? “Ôi dào, cậu có nhiều bạn hơn thế mà.”

“Không. Một và một rưỡi. Quái vật Mồm rộng Myers không được tính.”

Ở đó trong nơi chốn bí mật của chúng, cảm giác của thằng bé sôi lên trong nó như món hầm trên bếp – một phần nỗi buồn vì sự cô đơn của con bé, nhưng cũng lại có rất nhiều niềm vui. Được là người bạn thực sự duy nhất của Leslie trên thế giới này giống như con bé đối với nó – Jess không thể không thấy thỏa mãn với điều ấy.

Tối hôm đó khi thằng bé chuẩn bị lên giường, vặn đèn thật nhỏ để không đánh thức mấy đứa con gái, nó ngạc nhiên khi nghe May Belle gọi líu ríu. “Jess.”

“Sao em chưa ngủ thế?”

“Jess, em biết anh với chị Leslie hay trốn đi đâu.”

“Ý em là sao?”

“Em đã theo dõi hai người.”

Thằng bé đến bên giường đứa nhỏ chỉ bằng một bước nhảy. “Ai cho phép em theo dõi bọn anh!”

“Sao lại không chứ?”. Giọng con bé đầy bướng bỉnh.

Thằng bé nắm lấy vai con bé và bắt con bé nhìn vào mặt mình. Con bé chớp mắt trong ánh sáng chập chờn như một chú gà đang hoảng hốt.

“Em nghe rõ đây, May Belle Aarons,” thằng bé thì thầm một cách gắt gỏng, “Nếu anh còn thấy em theo dõi anh một lần nữa, thì đời em không còn giá trị gì nữa đâu.”

“Rồi, rồi.” Thằng bé trườn về giường mình. “Trời ạ, anh xấu tính quá. Em mách Mẹ cho xem.”

“Coi nào, May Belle, em không thể làm thế được. Em không được nói với mẹ anh với Leslie đi đâu.”

Con bé trả lời bằng một tiếng khịt mũi nhỏ.

Thằng bé lại tóm vai con nhóc một lần nữa. Nó có vẻ tuyệt vọng. “Anh nói thật đấy, May Belle. Em không được nói với bất cứ ai bất kỳ điều gì!”. Thằng bé thả con bé ra. “Giờ thì, anh không muốn nghe thêm bất kỳ điều gì về việc em theo dõi anh hay bép xép với mẹ nữa, em hiểu không?”

“Nhưng tại sao không?”

“Tại nếu em làm thế, anh sẽ nói với Billy Jean Edwards là thỉnh thoảng em vẫn đái dầm.”

“Ai cho phép anh chứ!”

“Này, cô nương, tốt nhất cô đừng thử anh.”

Thằng bé bắt con nhóc thề trên cuốn Kinh thánh là sẽ không bao giờ nói cũng như không bao giờ theo dõi nữa, nhưng thằng bé vẫn thức thao láo mất một lúc lâu. Làm sao mà nó có thể đặt tất cả những thứ quan trọng với nó vào tay một đứa trẻ sáu tuổi cứng đầu chứ? Đôi khi nó nghĩ đời mình chẳng khác nào một bông bồ công anh. Chỉ cần thổi khẽ từ một hướng, và nó sẽ vỡ ra thành hàng ngàn mảnh.

Chú thích:

*Road Runner: Bộ phim hoạt hình của hãng Warner Bros. Nội dung kể về một con sói cố gắng bắt một con gà lôi đuôi dài (Roadrunner)
*Deer Abby: Một loại hình tư vấn các vấn đề tâm lý, tình cảm trên báo. Giồng như Chị Thanh Tâm của Việt Nam.
 

Kurz

Gà con
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
20/4/17
Bài viết
18
Gạo
1,0
Re: Cầu đến Terabithia - Hoàn thành - Katherine Paterson (Kurz dịch)
TÁM– Lễ Phục sinh

Mặc dù đã gần đến lễ Phục sinh, thời tiết ban đêm vẫn khá lạnh, không đủ ấm để có thể để cô Bessie ngủ ngoài trời. Lại còn mưa nữa chứ. Cả tháng Ba đều ướt nhẹp. Lần đầu tiên trong suốt nhiều năm con nước cũ lại có nước trở lại, không phải chỉ một lạch nhỏ, mà nhiều đến nỗi khi bọn trẻ đu qua sợi dây thừng, cảm giác sẽ khá là sợ khi chúng nhìn xuống dòng nước chảy xiết phía dưới. Jess mang theo Hoàng tử Terrien trong áo khoác của nó khi đu qua, nhưng chú cún lớn nhanh quá đến nỗi nó dễ dàng làm bung khóa kéo và có khả năng rơi xuống dòng nước rồi chết đuối bất cứ lúc nào.

Ellie và Brenda đã bắt đầu tranh cãi về việc chúng sẽ mặc gì đến nhà thờ. Kể từ khi Mẹ phát điên với ngài mục sư ba năm trước, Phục sinh là dịp duy nhất trong năm mà nhà Aarons đến nhà thờ, và vì thế đấy không phải chuyện đùa. Mẹ bọn trẻ luôn than thở về sự nghèo đói của mình, nhưng bà lại đặt rất nhiều tâm huyết và cũng từng đấy tiền, số mà bà có thể trang trải được, vào việc đảm bảo bà sẽ không bị cười nhạo vì cách ăn mặc của gia đình mình. Nhưng vào hôm trước ngày Mẹ đã lên kế hoạch đưa bọn trẻ đến Trung tâm mua sắm Millsburg để mua quần áo mới, Bố bọn trẻ về nhà từ Washington sớm hơn thường lệ. Ông đã bị sa thải. Năm nay không có quần mới áo miếc gì nữa.

Một trận kêu gào bùng lên từ Ellie và Brenda như hai cái còi báo động hỏa hoạn. “Mẹ không thể bắt con đến nhà thờ được đâu,”, Brenda kêu lên. “Con chả có gì để mặc hết, Mẹ biết thế mà.”

“Tại chị béo quá thôi.”, May Belle lẩm bẩm.

“Mẹ có nghe nó nói gì không? Con sẽ giết nó.”

“Brenda, con im đi được không?”. Mẹ bọn trẻ nói một cách lạnh lùng, rồi giọng bà trở nên mệt mỏi, “Chúng ta có nhiều chuyện phải lo hơn vụ quần áo cho lễ Phục sinh.”

Bố bọn trẻ đứng dậy một cách ồn ào và tự rót cho mình một tách cà phê đặc từ cái bình trên bếp.

“Mình không thể mua bất cứ thứ gì sao?”. Ellie nói giọng vòi vĩnh.

Brenda xen vào. “Bố mẹ biết người ta làm gì không? Họ mua đồ rồi mặc chúng, sau đấy thì trả lại và nói rằng chúng không vừa hay sao đấy. Mấy người bán hàng chả làm gì được họ đâu.”

Bố bọn trẻ gần như gầm lên. “Bố chưa bao giờ nghe cái gì ngu ngốc như thế trong đời. Con không nghe Mẹ con bảo là im mồm đi à!”.

Brenda ngừng lời, nhưng nó nhai kẹo cao su to hết sức có thể để thể hiện rằng nó sẽ không chịu bỏ cuộc đâu.

Jess thấy hạnh phúc vì được bỏ ra lán bò và được chào đón nồng nhiệt bởi cô Bessie. Có tiếng gõ cửa, “Jess ơi?”

“Leslie à. Cậu vào đi.”

Con bé nhìn thằng bé một lúc rồi ngồi xuống đất bên cạnh chiếc ghế của nó. “Có chuyện gì vậy?”

“Chúa ơi, đừng hỏi.”. Nó kéo bầu sữa một cách nhịp nhàng và lắng nghe tiếng tinh, tang khi dòng sữa đập vào đáy xô.

“Chuyện gì tệ lắm hả?”

“Bố tớ bị sa thải, và Brenda với Ellie thì phát rồ vì bọn nó không có quần áo mới cho lễ Phục sinh.”

“Ôi, tớ rất tiếc. Ý tớ là về chuyện bố cậu.”

Jess cười toe. “Ờ, tớ cũng chả lo lắng về mấy con mụ kia đâu. Nếu đúng như tớ biết, thì chúng nó sẽ lấy được quần áo mới từ đâu đấy thôi. Cậu mà nhìn thấy cách ăn mặc khác thường của chúng nó ở nhà thờ thì kiểu gì cậu cũng phát buồn nôn cho xem.”

“Tớ không biết là nhà cậu có đến nhà thờ cơ đấy.”

“Chỉ dịp Phục sinh thôi.”. Thằng bé tập trung vào bầu vú ấm áp. “Tớ đoán cậu thấy điều ấy ngu ngốc lắm phải không?”

Con bé im lặng mất một phút. “Tớ nghĩ là tớ cũng muốn đi.”

Thằng bé ngừng việc vắt sữa lại. “Đôi khi tớ chẳng hiểu nổi cậu Leslie ạ.”

“Thì, tớ chưa bao giờ đi lễ nhà thờ cả. Nên đấy sẽ là một trải nghiệm mới mẻ với tớ.”

Thằng bé lại tiếp tục làm việc. “Cậu sẽ ghét nó cho xem.”

“Tại sao chứ?”

“Nó chán phèo à.”

“Tớ muốn tự cảm nhận xem sao. Cậu có nghĩ là bố mẹ cậu sẽ cho tớ đi cùng không?”

“Cậu không được mặc quần đâu.”

“Tớ có váy mà, Jess Aarons.”. Sự kỳ diệu có bao giờ chấm dứt không chứ?

“Đây,”, thằng bé nói. “Há miệng ra nào.”

“Để làm gì?”

“Cứ há miệng ra đi.”. Con bé làm theo sau một thoáng chần chứ. Thằng bé hướng thằng một dòng sữa ấm vào miệng con bé.

“Jess Aarons!”. Tiếng ré phát ra nghèn nghẹn và dòng sữa chảy xuống cằm con bé khi nó nói.

“Đừng mở miệng ra chứ. Cậu đang lãng phí sữa đấy.”

Leslie phá ra cười, nửa ho nửa sặc.

“Nào bây giờ nếu có thể thì cậu hãy học cách ném một đường bóng thẳng băng như thế đi. Còn nếu không thì để tớ thử lại xem nào.”

Leslie cố nín cười, nhắm mắt lại, và trịnh trọng há miệng ra.

Nhưng bây giờ đến lượt Jess cười dữ đến nỗi nó không tài nào giữ vững tay được.

“Ôi đồ đần! Cậu bắn vào tai tớ rồi đây này.”. Con bé so vai lại và lau tai bằng ống tay chiếc áo len của nó. Rồi lại phá ra cười tiếp.

“Bố sẽ lấy làm vui lòng nếu con hoàn thành công việc vắt sữa và trở vào nhà.” Bố thằng bé đang đứng ngay ở cửa ra vào.

“Tớ nghĩ là tớ nên đi thôi.” Leslie nói nhỏ. Con bé đứng dậy và đi ra cửa. “Xin lỗi cho cháu đi nhờ ạ.” Bố tránh sang bên cho con bé đi qua. Jess đợi ông nói thêm điều gì đó, nhưng ông chỉ đứng yên đó trong vài phút rồi quay lưng lại và đi ra ngoài.

Ellie tuyên bố con bé sẽ đến nhà thờ nếu Mẹ để nó mặc cái áo trong suốt của nó, còn Brenda ra giá một chiếc váy liền mới. Cuối cùng thì ai cũng có một món đồ mới trừ Jess và bố nó, nhưng cả hai đều chả quan tâm, dù vậy Jess cũng hiểu là nó có quyền được đòi hỏi một thứ gì đấy.

“Vì con không được cái gì mới cả, Leslie có thể đi cùng chúng ta đến nhà thờ được không ạ?”

“Con bé đấy hả?”. Thằng bé có thể thấy Mẹ đang rà lại trong đầu một lý do hợp lý để từ chối. “Nó ăn mặc không đứng đắn.”

“Mẹ!” – giọng thằng bé trở nên khó tính y như Ellie. “Leslie có váy mà. Bạn ấy có hàng trăm bộ luôn ấy.”

Khuôn mặt gầy gò của mẹ hơi rũ xuống. Bà cắn môi dưới theo cách Joyce Ann thỉnh thoảng hay làm và nói nhỏ đến mức khó mà nghe thấy được. “Mẹ không muốn ai soi mói chuyện nhà mình cả.”

Jess muốn vòng tay ôm bà theo cái cách mà nó ôm May Belle mỗi khi con bé cần sự an ủi. “Bạn ấy sẽ không soi mói gì đâu, Mẹ à. Thật đấy.”

Mẹ bọn trẻ thở dài. “Được rồi, nếu con bé ăn mặc tươm tất...”

Leslie đã ăn mặc tươm tất. Tóc con bé rủ xuống, và nó mặc một chiếc váy bò màu xanh hải quân bên ngoài một chiếc áo sơ mi với họa tiết hoa nhí kiểu cũ. Bên dưới đôi tất đỏ cao ngang gối của con bé là đôi giày da nâu sáng bóng mà Jess chưa từng nhìn thấy trước đây, bởi Leslie toàn đi giầy thể thao, giống như mọi đứa trẻ khác ở Lark Creek. Thậm chí cả cách ăn nói của con bé cũng đúng mực. Chất giọng sôi nổi thường ngày của con bé được hạ thấp xuống, và nó nói “Vâng, thưa bác” và “Không, thưa bác.” với mẹ thằng bé, như thể nó biết Mẹ ghét sự thiếu tôn trọng đến thế nào. Jess biết Leslie phải cố gắng nhiều lắm, vì cách con bé nói “thưa bác” không tự nhiên chút nào.

So với Leslie, Brenda và Ellie trông như hai con công với bộ lông đuôi giả. Cả hai đứa nó đều đòi ngồi khoang trước chiếc xe bán tải với bố mẹ, quả là một sự chen chúc đáng để tâm nếu ta tính đến kích thước của Brenda. Jess cùng Leslie và hai cô gái nhỏ trèo lên khoang sau một cách sung sướng và ngồi xuống những chiếc bao tải cũ mà Bố đã đặt dựa vào khoang lái.

Mặt trời không thực sự tỏa nắng, nhưng hôm ấy là ngày đầu tiên sau một chuỗi ngày dài đằng đẵng mà mưa không trút xuống, bọn trẻ hát mấy bài mà cô Edmunds đã dạy chúng (“Ôi Chúa ơi, một buổi sáng thật tuyệt”, “Ồ, những đồng cỏ xinh đẹp”, và “Hát đi! Hãy hát một bài”), và thậm chí cả bài “Chúc mừng Giáng Sinh” cho Joyce Ann. Gió đưa tiếng hát của chúng bay thật xa. Điều này làm tiếng hát trở nên kỳ ảo, và nó khiến Jess cảm thấy một sức mạnh mới mẻ khi những ngọn đồi lao vùn vụt qua chiếc xe bán tải. Nhưng chuyến đi khá ngắn ngủi, đặc biệt là với Joyce Ann, người đã òa khóc vì sự kết thúc của chuyến đi đã chen ngang đoạn đầu của bài “Ông già Nô-en đã đến rồi”, bài hát yêu thích thứ hai của con bé sau “Chúc mừng Giáng Sinh” *. Jess cù con bé để nó cười trở lại, và khi bốn đứa rời khỏi khoang sau chiếc xe bán tải, mặt đứa nào đứa nấy đỏ bừng niềm hạnh phúc.

Họ đến muộn mất một chút, và điều này chẳng làm phiền Ellie với Brenda chút nào vì thế có nghĩa là chúng nó sẽ phải đi hết cả đoạn sảnh để ngồi vào hàng ghế đầu tiên, chắc chắn là mọi con mắt đều phải nhìn vào chúng, và hẳn là mọi ánh nhìn đều chất chưa sự ghen tị cho xem. Lạy Chúa tôi, bọn nó thật ghê chết đi được. Thế mà Mẹ còn sợ Leslie sẽ làm xấu mặt bà. Jess so vai lại và nối đuôi đám đàn bà con gái ngồi vào hàng ghế với Bố theo sát gót.

Nhà thờ lúc nào cũng đem lại cảm giác giống nhau. Jess ngồi đó cũng y như khi nó ngồi trong lớp học, với dáng người thẳng thớm và hòa hợp với toàn bộ những con chiên khác, nhưng đầu óc nó thì mụ mị và trôi nổi tận đâu đâu, không hẳn là suy nghĩ hay mơ mộng gì, nhưng ít nhất cũng được tự do.

Một hai lần nó cảm giác đang đứng trên đôi chân của mình, bao quanh là tiếng hòa ca không mấy đồng đều. Một chút ý thức còn sót lại cho phép nó nghe tiếng Leslie hát theo và nó mơ màng tự hỏi tại sao con bé lại bận tâm đến vậy.

Vị cha xứ có chất giọng rất chi là lừa tình. Ông có thể nói dông dài một cách thoải mái trong vài phút đồng hồ liền, rồi bùm! Ổng hét vào mặt người ta. Mỗi lần như thế Jess lại giật nảy lên, và lại mất mất vài phút thằng bé mới có thể thoải mái trở lại. Bởi nó có nghe lọt lời nào đâu, khuôn mặt đỏ gay đầm đìa mồ hôi của vị cha xứ lạc lõng một cách kỳ lạ trong cái khung cảnh tôn nghiêm uể oải này. Cảm giác như khi Brenda trút giận lên Joyce Ann vì dám động vào son môi của nó vậy.

Phải mất một lúc Ellie với Brenda mới chịu rời khỏi sân trước nhà thờ. Jess và Leslie đi trước để đặt hai đứa con gái lên khoang sau và ngồi xuống chờ đợi.

“Uhm, tớ mừng vì đã được đi cùng.”

Jess nhìn Leslie vẻ không tin nổi.

“Hay hơn là đi xem phim mà.”

“Chắc cậu đùa.”

“Không, tớ không đùa.” Và con bé nói thật. Nhìn mặt con bé Jess có thể khẳng định điều ấy. “Tất cả những thứ về Jesus ấy cũng thú vị đấy chứ, phải không?”

“Ý cậu là sao?”

“Tất cả những người đó muốn giết ngài dù ngài chả làm hại gì đến họ cả.” Con bé chần chừ một chút. “Điều đấy làm câu chuyên trở nên đẹp đẽ - giống kiểu Abraham Lincoln hay Socrates – hay Aslan.”

“Nó đâu có đẹp đẽ,” May Belle xen vào. “Nó đáng sợ thì có. Đóng đinh vào tay một người nào đấy.”

“May Belle đúng đấy,” Jess đào xuống đáy sâu suy nghĩ của mình. “Chúa trời khiến Jesus phải chết vì tội lỗi của tất cả những con chiên chúng ta.”

“Cậu nghĩ điều đấy có thật không?”

Thằng bé sốc. “Trong kinh thánh thôi mà, Leslie.”

Con bé nhìn thằng bé như thể nó sắp cãi lại, nhưng rồi có vẻ nó thay đổi quyết định. “Điên thật đúng không?”, con bé lắc đầu. “Cậu phải tin những điều ấy, nhưng cậu ghét chúng. Tớ không phải tin gì cả, và tớ thấy chúng thật đẹp.” Con bé lại lắc đầu nữa. “Điên thật đấy.”

May Belle nheo mắt như thể Leslie là một sinh vật lạ trong sở thú. “Chị phải tin vào kinh thánh, chị Leslie.”

“Tại sao?”. Một câu hỏi chính đáng. Leslie không tỏ ra là mình thông minh gì cả.

“Bởi nếu chị không tin” – mắt May Belle mở lớn – “Đức Chúa trời sẽ nguyền rủa và đày chị xuống địa ngục khi chị chết.”

“Con bé nghe mấy cái thứ đấy ở đâu vậy chứ?”. Leslie quay sang nhìn Jess như thể con bé sắp buộc tội thằng bé đã làm gì sai quấy với em gái nó. Thằng bé đỏ bừng lên như phải bỏng khi nghe những lời ấy.

Nó đánh mắt nhìn mấy cái bao tải cói và bắt đầu mân mê cái mép bị sút chỉ của chúng.

“Nhưng điều đấy đúng mà, phải không anh Jess?”. Giọng May Belle trở nên thé thé khi con bé đòi hỏi câu trả lời. “Chúa trời sẽ nguyền rủa người ta xuống địa ngục nếu người ta không tin vào kinh thánh ấy?”

Jess gạt tóc ra khỏi mắt. “Anh nghĩ thế”, nó lẩm bẩm. “Tớ chả tin,”, Leslie nói. “Tớ còn chả tin là cậu từng đọc kinh thánh rồi nữa.”

“Tớ cũng đọc gần hết mà.” Jess nói, vẫn nghịch cái bao tải. “Cái quyển duy nhất mà chúng tớ có ở nhà ấy.”. Thằng bé nhìn Leslie và cười nửa miệng.

Con bé mỉm cười. “Rồi,”, nó nói. “Nhưng tớ vẫn không tin Chúa trời lại đi vòng vòng và nguyền rủa người ta xuống địa ngục đâu.”

Và hai đứa cười với nhau, lờ đi giọng nói lo lắng của May Belle . “Nhưng chị Leslie,”, con bé khăng khăng. “Nếu chị chết thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu chị chết?”


Chú thích:
*Các bài hát tiếng Anh: “O Lord, What a Morning”, “Ah, Lovely Meadows”, “Sing! Sing a Song”, “Jingle Bells” và “Santa Claus is coming to Town”.
 
Bên trên