Ban trèo lên chạc cây cuối xóm, tiếp với khu đồi trọc phía bên kia chẳng ai ở. Nhưng đối với Ban, gốc cây này mới đích thị là đầu khu xóm nhỏ. Ban trèo lên cành thứ tư, mặt đất đã ở xa với trên này, ngóng ra tít tắp, chỉ thấy những mái nhà là đốm màu sáng lấp loáng dưới ánh mặt trời. Ban lại quay đầu theo chiều gió thổi, ngóng vọng về phía đồi trọc, lấm tấm những vụn cỏ mọc trên cánh đồi đã xơ xác bạc màu đất. Bắt đầu kể từ ba năm trước, đồi ngày càng trọc dần, cây cũng biến mất, trơ trơ đá với sỏi. Lại thêm hè mấy năm nay, dăm ba cơn mưa mà nắng nóng kéo dài. “Đất đã hỏng cả rồi!”, Ban nghĩ ngợi. Đến cả cỏ dại cũng chẳng sống được lâu. Những mảnh tàn héo úa.
Cây đầu làng là giống cây Bồ Đề, to đến bảy tám vòng tay đám trẻ con. Cây cao hơn cả nhà năm tầng lầu trong xóm, mọc thẳng đứng sừng sững. Bà cấm Ban trèo lên cây, vì Bồ Đề là giống thiêng, lỡ ngày thần cây tức giận mà quở phạt cái tội trèo lên đầu, lên cổ ông. Nhưng Ban kệ. Ban trèo lên cây miết những ngày đi học về, Ban nghe tiếng gió thổi qua tán lá xanh rì, Ban đứng run trên chạc nâu trơn bóng, hú gọi gió và những mầm cây Ban cố công trồng bên kia đồi. Ban tưởng như mình là Tarzan để mà ước, một ngày nào đó Jane xuất hiện, đuổi đi những gã thợ săn trẻ con độc ác, đuổi cả nhà máy xí nghiệp thực phẩm, và có khi đất sẽ lại như xưa.
Mặc dù gọi là xóm ngoại ô nhưng xóm Ban cũng ra dáng khu dân cư thành phố. Đèn điện đêm sáng choang, nhà cao tầng năm sáu lầu mọc lên ầm ầm. Năm ngoái, nhà máy xí nghiệp thực phẩm đã mở chi nhánh phía chỗ này. Lão trưởng xóm vui lắm. Hai má lão đỏ tưng bừng vì rượu, lão tay bắt mặt mừng: Làng nghèo ta đã là làng văn minh rồi đấy!
“May sao cây Bồ Đề không ai dám chặt.”, Ban nghĩ lung khi nghe gió hất mái tóc mình quàng qua một bên vai.
Ban không biết hè năm nay Minh Trang còn về xóm chơi hay không. Minh Trang là con bé sống ở Sài thành, nó chỉ về quê có một tháng dịp hè. Nghe cái tên đã thấy kêu, Minh Trang. Ban thân với Minh Trang. Nó sang ăn chung ngủ đụng với Minh Trang cả tháng chẳng biết chán. Lũ chúng nó ồn ào đến phát bực. Bà Ban tự hỏi sao mà lũ chúng nó suốt ngày khúc khích cười được. Ở cái tuổi của cái Ban, cái Trang, bà đã biết làm đủ thứ chuyện, nào chăm em, nào xách nước, nào đưa cơm. Bà lắc đầu nhìn đứa cháu côi cha côi mẹ, vừa thương lại vừa bực.
Minh Trang đem những câu chuyện trên Sài Gòn kể cho Ban nghe. Những câu chuyện rực sáng trên chạc cây đầu làng. Mắt Ban lấp lánh to tròn. Nó nhớ lại thị thành hoa lệ lờ mờ trong tâm trí, những lâu đài phép thuật nằm trong những dải sáng đầy sao. Ban sẽ quên đi chuyện mình là đứa trẻ không cha, mẹ bỏ, quên những lời nhiếc của bà, quên cả chuyện căn nhà bị dột, quên chuyện nó mắc chứng khó đọc, quên lũ cái Giàu, thằng Sang vẫn hay ghẹo nó. Ở cạnh Minh Trang, Ban sẽ chẳng thấy thời gian trôi qua mình nữa, nó chẳng ép mình phải biết chăm em, chẳng ép mình phải biết xách nước.
“Vớ vẩn! Quái gì trẻ con làm chuyện người trưởng thành mới là hay ho! Nào, bắt chước tao đây này!”, Minh Trang hướng mặt về phía đồi trọc, “AAAAAAAAAAAAAAAAAAAA”, nó hét lớn.
“AAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA”, hơi Ban vừa dài vừa khỏe. Nó mặc cho phổi căng đầy, khí từ bụng rút xẹp lại, nó hét lớn, để tiếng vọng vang đập khắp chốn cùng. Tiếng vọng ấy trong và cao xoay tròn trong bầu trời lộng gió, rung lên bên tai như tiếng lắc vàng lắc bạc.
Minh Trang sẽ đeo một bên tai nghe, tai còn lại để cho Ban. Âm thanh của những bản nhạc reo cùng tiếng gió. Ban nhắm mắt, thấy vùng đồi lại xanh cây, trời sẽ thôi nóng hôi hổi đọn gió Lào, những mái nhà xanh sống dưới tán Bồ Đề cao vợi. Ban hát theo những sắc âm loáng màu giấy kính bóng sặc sỡ. Ban hát hay lắm. Ban yêu tiếng hát, Ban yêu những âm thanh sống động. Nhưng bà Ban thì không, tai bà Ban nghễnh ngang, đâm ra bà ghét tiếng hát. Chỉ có ở cạnh Minh Trang, Ban sẽ hát thỏa thích. Giọng Ban vừa khỏe vừa chắc, tiếng Ban cao và tươi sáng, đẹp như một bầu trời mùa hè xanh vời vợi, không một ráng mây vẩn đục. Cả khung trời ôm trọn lấy tiếng hát Ban và gió sẽ ngân mãi theo từng nhịp thở.
“Tại sao người ta trồng những trái tim sắt dưới rặng cây?”, Minh Trang thầm thì.
“Hả?”, Ban hỏi lại dù Ban nghe rõ câu hỏi.
“Hai năm trước, ở thành phố,...”
Minh Trang bỏ dở câu trả lời, lắc đầu. Năm ngoái, ngay hôm sau lời đó, con bé đã về Sài Gòn, sớm hơn một tuần so với dự định.
Năm nay, Minh Trang chưa thấy về. Ban vẫn trèo lên chạc cây, chạc thứ mười tính từ dưới mặt đất, nơi hai đứa chúng nó vẫn ngóng vọng ra xa thật xa. Minh Trang sẽ mặc chiếc áo màu neon, đội mũ bảo hiểm có hai mặt kiếng màu đen, sơn đủ loại lên trên mà ngồi cùng nói. Bà Ban có vẻ không thoải mái và hài lòng vì chuyện đó. Bà không thấy nét buồn trên mặt đứa cháu gái:
- Gớm! Bựa ni ranh con nhà mi ngóng hấn hơn ngóng tau! Rày mai mốt tau chết bay sung sướng lắm hen?
Ban mặc bà, Ban quen rồi.
*
Đêm hôm rằm. Minh Trang đã không về thật. Kể ra cũng hai tuần rưỡi.
Đồng hồ kêu tích tắc rõ mồn một. Ban nhìn trân trân trần nhà đen kịt. Nó không ngủ được. Ánh trăng chiếu ngoài hiên cửa, đổ chéo lên ván giường. Tiếng bà ngáy râm ran. Ban nghe gió rung qua cửa sổ. Trời đen kịt. Tiếng lá chạm nhau khe khẽ. Một ngày hè không nóng như lý ra nó phải vậy. Gió man mát tới mức hơi lành lạnh thổi từ bên ngoài. Ban lật người, hướng nhìn về phía bà. Da bà đã nhăn nheo cả, bắt đầu có mùi của người già. Chiếc áo bà ba vải sồng đã mỏng tang và bợt vải. Ban thở khẽ. Mấy năm nữa, Ban đi lấy chồng, dẫu Ban chưa đủ mười tám nhưng bà bảo, con gái tới kỳ kinh là lấy chồng được rồi. Hoặc, Ban sẽ xin việc ở xí nghiệp thực phẩm cuối xóm. Ban còn bà.
“Ban... ơi…”
“Ban... ”
“Ban... ơi…”
Ban nghe tiếng rì rầm bên ngoài cửa sổ. Nó nhổm người dậy ngóng qua song sắt. Âm thanh lại im bặt.
Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc.
Tiếng kim giây gõ lên mặt đồng hồ. Những tán cây xào xạc, cây Bồ Đề chéo phía ngoài sân ngả nghiêng theo cơn gió. Mùi sàn sạn kéo vào trong phòng. Có lẽ sắp mưa. Ban lại nằm xuống. Ván giường gỗ mục chẳng trải chiếu thường nóng rẫy nay lại mát lạnh. Ban nhắm mắt, cố không nghĩ nữa. Gần mười hai giờ đêm rồi. Nãy kim phút chỉ quá số mười. Sáng mai không dậy sớm, bà lại quở.
“Ban ơi…”
“Ban ơi…”
“Ban…”
Âm thanh rì rào lần nữa kéo Ban mở mắt trừng trừng. Nó nhổm người nhìn ra ngoài, nhíu cả mày lại. Đêm đen kịt ngoài song cửa, ánh trăng trải dài trên con đường vắng tanh người. Đèn điện tối muộn đã tắt cả. Ban biết đèn điện sẽ mở trở lại lúc một giờ. Chuyện này là lệ quen ở làng. Từ mười một giờ đến một giờ sáng đèn điện sẽ tắt tối om thảy. Âm thanh vẫn văng vẳng trong khung cảnh lờ mờ. Rõ có người. Ban chắc mẩm, nó trở người đi ra cửa sổ, ngó xem ai gọi.
“Bộp”. Cảm giác mềm âm ẩm.
Tay bà nắm cứng cổ tay phải. Ban giật phắt mình, quay ngược nhìn về phía bà. Bà nhắm chặt mắt miệng khẽ mở hờ. Tiếng bà ngáy. Ban thở phào. Trên trán chẳng hiểu sao đổ một tầng mồ hôi. Quạt con cóc vẫn vù vù cuối chân giường. Ban gỡ những ngón tay gầy guộc nhăn nheo của bà. Nó mò mẫm trong bóng tối. Tay bà cứng ngắc, bám chắc, hẳn bà lại gặp ác mộng. Một lúc sau Ban gỡ ngón cuối. Nó trèo khỏi giường từ phía ánh trăng đổ ráo trên ván giường. Ánh sáng ngả xanh nhàn nhạt.
Âm thanh đã im bặt lần nữa. Ban ngó ra ngoài cửa sổ. Có cây Bồ Đề đầu xóm bảo vệ, ma nào dám ghẹo Ban, Ban tin thế.
- Khẽ thôi! Suỵt! - Giọng của một người đàn ông thì thầm bằng hơi cổ.
Ban mở lớn mắt, cả người nép vào khung tường, chỉ để hé nhìn ra bên ngoài. Tai nó vốn thính, như để bù cho chứng khó đọc. Tiếng bước chân của hai người rõ mồn một. Loáng một chốc, mắt Ban dần quen với bóng tối. Dáng người đen, đậm màu dưới khung cảnh tối muộn; ánh trăng vàng lờ mờ, dẫu không sáng bằng đèn điện nhưng vẫn đủ làm ngả bóng trên mặt đường hơn nửa là xi măng. Một người đàn ông đội mũ lưỡi trai, dáng cao tới gấp rưỡi Ban nhưng trông như con gái, mảnh khảnh, đi đằng sau gập gục người, vác trên vai là một bao tải. Tiếng anh ta thở phì phò khi leo lên quãng dốc. Hình như hai người họ hướng về phía cây Bồ Đề. Ban hé hơn nửa mặt khi dáng hai người đó đã đi quá cửa sổ nhà. Bóng người còn lại trông như lão trưởng xóm. Cái đầu bóng và chiếc bụng phệ nhô ra trông như người mang bầu. Người này cởi trần trùng trục, mặc độc chiếc quần cộc gọn lỏn, dáng chỉ thấp bằng nửa người kia. Tiếng ông ta nghe đã già cả, khàn đặc như rít thuốc lá lâu năm.
- Nhanh lên! Một giờ! - Lão ta lại thì thầm.
Người đàn ông còn lại câm như hến. Hoặc, anh ta câm thật. Cả quãng đường anh chẳng nói câu nào, ú ớ vài âm thanh lạ và hì hục vác trên vai một bao tải vẻ như nặng lắm. Ban căng tai lắng nghe. Tiếng những bước chân xa hơn, bì bõm trên đoạn đường bắt đầu ngấm đất. Mùi sạn lại thốc qua cửa sổ. Ban nghe cái lạnh đêm vùng ngoại ô thấm đẫm mình. Sương đã rơi rồi.
Mười hai giờ đúng.
Tiếng chiếc đồng hồ cũ như bạc cả đi, Ban không nghe âm kim giây gõ quỷ dị nữa. Nhưng âm bà ngáy thì lại càng to lạ thường. Tiếng ro ro át cả tiếng quạt con cóc. Ban lại hướng mắt ra cửa sổ, nó đổi hướng đứng, nép bên bờ tường còn lại tiện trông về phía cây Bồ Đề.
- Làm đi! Mười hai giờ rồi - Tiếng lão già. Nhưng giờ Ban không nhìn rõ nữa. Trăng lại trốn sau một rặng mây đậm màu. Dáng hai người đã hơi xa tầm mắt, chìm hẳn vào bóng đêm tĩnh mịch. Cả con đường đen kịt, giơ bàn tay ngay trước mặt cũng không trông thấy gì.
“Xoảng xoảng”. Ban căng tai lắng nghe.
Tiếng kim loại va vào nhau. Ban nghi tiếng cái cuốc, cái xèng ở đâu. “Họ đang làm gì nhỉ?”, Ban tò mò tợn, cả mặt đã chường ra ngoài cửa nhưng cũng không nhìn được gì hơn. Thoáng lại có tiếng sột soạt gập túi bao tải, loại vải bạt, âm thanh nghe rap ráp. Lúc này, âm đồng hồ lại đánh bên tai Ban. Ban tưởng như ngay sau mình có một luồng khí đen ghé vào tai mà thì thầm gọi. Nó quay người nhìn. Trống không cả.
Tích. Tooc. Tich. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc.
Độc âm đồng hồ vang vọng.
Rồi tiếng đào đất ngày càng rõ mồn một. Mặt trăng tròn vành vạnh tít trên tầm cao . Ánh sáng ngả trên những tán Bồ Đề. Ban trông thấy hai người đàn ông khi nãy đang hùng hục đào thứ gì dưới gốc cây. Họ đào hăng. Mồ hôi mồ kê có vẻ vã ra trên mặt. Tiếng lão già thở phì phì, anh chàng câm đào hùng hục, một chút lại nghỉ, lấy tay lau trán.
Tiếng xẻng và đất đá. Ban gõ tay lên mặt tường, người cứ nhấp nha nhấp nhổm. “Hai người họ làm gì thế nhỉ?”
Mười hai giờ ba mươi.
Ban trông thấy ông già đứng quay lưng phía này giơ tay lên nhìn đồng hồ. Chiếc đồng hồ y như của lão trưởng xóm, loáng lên dưới ánh trăng.
- Tới giờ rồi!
Lão trưởng xóm nói, người đàn ông đứng nghiêng, đội mũ lưỡi trai kéo sụp dưới mắt gật đầu. Ban nghe tiếng cuốc với cái xẻng ngã trên mặt đất, va vào nhau kêu leng keng. Rồi anh ta lẫn lão già ngồi bệt xuống, thò tay vào cái hố đã đào mà lôi lên. Hai người thở mạnh, hì hục, hì hục. Rồi tựa như lỗ đào vẫn còn nông, lão trưởng thôn lại cầm cái xẻng hất đất ra thêm. Thứ gì đó đang kẹt sâu ở dưới.
- Được rồi! - Tiếng lão trưởng xóm thở nhẹ.
Đúng lúc này thì trăng lại khuất dạng. Ban mở lớn mắt nhìn. Có tiếng đập. Tiếng thở gấp gáp hổn hển. Anh chàng câm run rẩy rên. Ban nghe tiếng lão trưởng làng êm giọng.
- Khẽ!
Ban lắng tai nghe lần nữa. Trắng ló rạng. Ánh trăng vàng ruộm, ngày càng sáng đến nhức mắt.
Một quả tim!
Ban căng mắt nhìn. Một quả tim thật! Một quả tim đập loáng màu bạc! Ban trông hình thù quái lạ khúc khuỷu của nó mà há hốc mồm. Quả tim như tim lợn, tim bò, đập như con chim non nào ép trên tay. Lão trưởng làng đích xác đang cầm trên tay một trái tim bằng sắt. Ban trợn tròn, há hốc mồm. Tiếng đồng hồ nín bặt. Mà anh chàng đội mũ lưỡi trai đang ngả cả người ra sau, ngực áo sơ mi phanh ra đằng trước để lộ một mảng da màu đồng. Máu chảy đầm đìa trên ngực trái. Màu máu đỏ rực, thấm đẫm ra ngoài chiếc áo lót trắng trong. Lão trưởng làng nhẹ giọng.
- Ổn cả thôi! Ổn cả thôi! - Trên tay lão là một con dao kim loại, cũng phát sáng dưới ánh trăng.
Ban đưa tay lên che miệng. Nó thấy cái lạnh rợn từ sống lưng. Lão trưởng làng đặt con dao lên tấm vải, rồi lấy tay đã đeo găng mở banh vết rạch đầm máu. Anh chàng hít một hơi sâu, không dám rên thành tiếng. Rỗi chốc, lão trưởng làng nhồi quả tim vào trong mình.
- Ha - Anh chàng thở ra, rên rỉ. Ban tưởng như mồ hôi anh ta đầm đìa trên trán. Cơn đau tái làm môi anh ta tím sẫm, gương mặt tái dại đi, run bần bật.
Tay lão đã nằm một nửa trong ngực anh. Lão ta ngẩng đầu lên nhìn tán Bồ Đề, chỉnh chỉnh tay như nắn đặt cho đúng chỗ. Anh chàng rên hồng hộc.
- Được rồi đấy! - Lão rút tay.
Và tưởng như có một phép lạ nào, mảng da liền ngay tức khắc. Chỉ có vết máu vẫn đầm trên ngực trái. Máu kéo rỏ giọt khắp vùng ngực, đổ cả thảy xuống bụng. Lão trưởng làng kéo găng y sinh ra khỏi tay, vứt xuống cái hố.
- Chốc, trước một giờ thì thu gọn cẩn thận! - Lão đứng dậy, đặt tay lên trên vai anh chàng mảnh khảnh. Lão hướng về phía con dốc, đi ngang qua nhà cái Ban. Ban giật thót người, quay hẳn người về phía trong nhà.
Tiếng lão ngay bên ngoài cửa.
- Chớ để ai biết! Kẻo mất tai! - Giọng lão vẫn thì thầm, khàn đặc.
- Vâng - Là tiếng của anh chàng. Tiếng anh ta trầm đục, lạnh tanh lại hơi khê như do lâu không mở miệng - Cảm ơn chú.
Bước chân lão trưởng xóm đi xa. Ban hé mắt nhìn ra ngoài. Anh chàng mảnh dẻ đã to lớn hơn lúc trước đến lạ. Cơ nổi đầy trên bắp tay. Anh ta cười ngoác miệng, nắn bóp trên thân mình. Tưởng như những cơn đau và thân hình trước chỉ là Ban nhìn lầm, nghe lầm. Anh ta đứng dậy như chẳng có hề gì. Cái áo sơ mi khoác ngoài cũng bị vứt dưới cái hố. Tiếng xẻng cuốc đào đất trở lại. Ban thấy anh ta cẩn thận lấp đất, còn dẫm chân lên để cho đất trông như ban đầu.
Rồi anh ta cũng khuất dạng.
Trăng đêm rằm mờ dần. Đèn điện lên màu dần, chốc đổ màu trắng phau trải khắp mặt đường.
Ban ngó đồng hồ. Một giờ đúng. Mồ hôi chảy ròng chẳng biết do nóng hay sợ. Mùi sạn và cảm giác oi oi ngày càng rõ rệt. Rồi loáng, tiếng sấm đùng đùng. Ban bỏ lên giường.
"Ơ?" Ban nhìn.
"Ơ?" Ban đứng sững.
Một Ban khác!
Ở đó, đang có một Ban khác đang ngủ. Nó trợn mắt, há mồm. Một đứa gái trông y như Ban, đang nằm nghiêng mà say giấc bên bà. Ban đoán mọi sự chỉ là mơ thôi. Vì lần này, Ban chẳng thấy cơn đau tái trên da thịt khi tự cấu mình.
Nó lẳng lặng nằm sát cạnh một Ban khác ấy. Tiếng bà vẫn ngáy. Ban tự hỏi hai người đó sao lại làm thế? Tại sao dưới gốc cây lại có trái tim sắt. Mà trái tim sắt sao lại đập, tại sao da anh ta lại liền ngay tức khắc. Giấc mơ này hẳn có ý nghĩa gì đó chứ? Ngỡ như một tiếng vừa trôi qua chỉ như một khắc. Tiếng cơn mưa rào đổ ráo qua cửa sổ. Tiếng rào rào, ầm ầm. Ban dựng người dậy để nhìn, cứ có gì khang khác. Ban không rõ khang khác ở đâu, nhưng rõ có thứ gì đó. Tiếng bà ngáy và âm thanh đồng hồ. Ban lại nằm xuống. Nó nhắm mắt, nó không nghĩ gì cả. Tiếng đồng hồ ngày càng to, gõ đều đều trong âm mưa rền rĩ.
Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc.
Rồi ngày mai sẽ một khác.
*
Tiếng bà xộc hẳn trong phòng để gọi.
- Tau ... mi mà ... nỏ dậy?
Ban mở mắt. Trần nhà xoay mòng mòng. Nó nhìn xung quanh. Ban ngồi trên ván giường thần người trông ra gốc Bồ Đề ngoài cửa sổ. Cây Bồ Đề vẫn sừng sững. Đường đất đã khô cả, nắng đã lên giữa thân sào. Bà vào rồi đã trở ra chõ bếp.
- Ban! - Giọng bà lớn hơn.
Ban thấy âm thanh lùng bùng. Nó gọi bà.
- Bà! Bà! - Âm thanh như mắc kẹt ở quãng họng. Ban thấy như có gì dính ở ngay trong tai, nghe lộm cộm. Nó lấy ngón út ngoáy nhẹ, lắc bên tai. Tiếng lạo xạo.
- Mi … rứa?
Tiếng bà cứ lúc được lúc mất. Ban trông lên trần nhà. Ban không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ánh trăng và những dáng người đêm qua. Ban trông ra ngoài. Âm sắc lộn xộn, bỗng êm ru và im ắng lạ thường. Hình như mọi thứ là một giấc mơ. Bà Ban vẫn loay hoay ngoài bếp. Ban không nghe tiếng loảng xoảng của nồi niêu. Tiếng gà cũng không gáy. Ban bấu vào tay mình. Cảm giác đau rất thật. Ban nhìn chung quanh. Ban trông lên cẳng tay, cẳng chân gầy nhẳng. Da thịt vẫn nhuốm màu sạm. Nhưng cứ như thể, ai đó đã ném Ban vào một hộp lập phương bằng thủy tinh hoàn hảo.
Nó không nghe thấy gì. Hoàn toàn không.
*
- Điếc rồi! - Bác sĩ trạm xá ngồi đối diện kết luận.
Ban trợn mắt nhìn. Nó kéo bà cạnh mình, thì thầm.
- Bà ơi, mình… mình… mình... về đi! Ông… - Con bé lắp bắp, giọng nó run rẩy lạ - Đầu… Ông… Đầu ông … ta … - Âm thanh từ họng lên tai dường như dính chặt vào nhau mà két đặc tại khoang miệng - là đầu con… chim.
Phải! Ban không tin vào mắt mình. Nó dán mắt về phía vị bác sĩ ở trạm xá trong xóm. Ông ta có một cái mỏ nhỏ, chu ra đằng trước. Con mắt cao tít lên thái dương. Cả gương mặt lông lá, màu xanh lá biếc hai bên vành tai. Rõ là một con se sẻ.
- Cháu bảo gì cơ? - Ông ta nghiêng đầu.
- Cháu nó nỏ bảo gì to tát mô. Ông coi lại chứ cháu nó bữa rày vẫn bình thường.
Nói rồi, cái đầu chim ngoài trạm xá lại tiến sát về phía Ban. Mỏ nó vàng sẫm, nhọn hoắt, trông cứng như đá, nhìn y hệt con dao lão trưởng xóm đêm qua. Hai con mắt trố lồi chớp chớp, đôi mắt to đến bằng cả cái nắm đấm tay. Ban quay nhìn bà. Mặt bà vẫn điềm nhiên như không.
“Bà không thấy rồi, bà không thấy rồi, bà không thấy, bà không thấy, bà không thấy, bà không thấy, bà không thấy, không thấy, không thấy, không thấy.”
Ban giật thót người về phía sau. Chẳng lẽ… là do nó?
- Điếc đột ngột! - Mỏ con chim mở ra khép vào - Không phải hiếm đâu bà ạ! Để tôi làm đơn đề lên tuyến trên, chắc bà mất công một chuyến lên tỉnh khám lần nữa.
- Mèn ơi! Rõ phải tội! Ông ơi, ông xem cháu nó như mô. Bây giừ tôi biết sao mà vô tỉnh thăm với khám ạ. - Bà Ban giật thót mình.
Ban trông thấy bà lần vào trong túi áo, giở một xấp tiền nhăn nheo rồi dúi vào tay đầu chim. Tay đầu chim có vẻ lưỡng lự. Hồi lâu hắn ta mới mở miệng.
- Thế thì tôi có một cách, nhưng ý phải xem bà với cháu nó thế nào. Nếu bà ưng bụng, thì bà để cháu ở bên ngoài, tôi nói chuyện riêng với bà một lát.
Két… Két… Két… Cạch.
Cánh cửa phòng trạm xá màu xanh, loại cửa gỗ đã cũ, bản lề gỉ két, đóng lại. Ban một mình ngồi trên băng ghế bên ngoài. Trạm xá bé bằng gian nhà của Ban, mùi ete nồng nặc. Cả trạm xá không có lấy một người. Bên ngoài gian là sân vườn rộng, đủ loại cây. Ban trông thấy nhãn sai trĩu cành. Từng chùm, từng chùm níu cành kéo sát rạt.
Mọi thứ thay đổi rồi. Ban nhận rõ thế. Cảm giác mình sắp đi lấy chồng hoặc ngày nào đó đi làm ở xí nghiệp ngày càng đặc sệt trong lòng. Mùi đất cũng đã khác. Ban phát giác mình đã nhìn rõ hơn khi vào phòng thăm khám. Những con chữ không còn khó đọc với nó. Chúng không còn hoa lên, nhiễu loạn, không còn cảm giác xa lạ, những con chữ đứng im, để mặc Ban tóm lấy, Ban nuốt chúng bằng mắt. Lý ra Ban phải vui. Nhưng toàn bộ, Ban chỉ thấy sợ. Phải chăng là từ đêm qua? Nhưng Ban nghĩ đó chỉ là mơ thôi. Cảm giác chân trần chạm trên sàn nhà hoàn toàn lạ lẫm. Cơn đau và xúc cảm, lẫn sự tò mò ngạc nhiên đêm qua đã bị đánh bay mất dạng. Đó không phải là Ban. Ngực Ban như rỗng không, một bên người nhẹ bẫng. Nó đánh mất điều gì đó.
Hay, Ban còn lại, đứa Ban say giấc trên giường, đã sống phần đời của Ban. Và Ban thật này đây, lại đang ở thế giới này. Nó ngó nhìn. Liệu, có như Minh Trang kể, một thế giới gương phẳng mà ở đó hai phần Ban đã tách đôi, buộc phải đi tìm lẫn nhau? Ban sợ. Nhưng nó không dám nói. Một bên tai ù ù trong tĩnh lặng. Nó điếc rồi! Nó biết thế. Nó úp một bên tai, bên tai còn lại, bên tai vẫn thường đeo tai nghe đã rít đặc. Nó nghe tiếng ù ù như thác chảy rõ mồn một. Nhưng ngoài tiếng u u đó, một mảng tĩnh tại hoàn toàn.
“Ban điếc rồi!”, nó lẩm bẩm.
*
Cây Bồ Đề chết đúng một tuần sau ngày Ban bị điếc. Người ta đốn thân cây khi những cành héo rũ, lá rụng đầy dưới gốc. Những chạc, những thân trơ trụi vươn tay lên trời. Ban ngơ ngẩn trông ra phía bãi đất trống hoang tàn, chỉ độc một gốc thân to mấy người ngồi. Trời vẫn xanh. Nắng sáng rực phía chân trời. Một màu xanh trong trẻo như ai tráng lớp gương. Tựa như miếng thạch mát lành, cắn một miếng, nước lạnh áp trên khoang miệng như Minh Trang từng đưa cho Ban ăn.
Bà Ban từ trong bếp đi vào, lắc đầu. Đời bà phải tội, đứa cháu không ra hình người. Mẹ nó chửa hoang trên Sài thành, đem về cho bà nuôi từ năm con bé bốn tuổi. Rồi biệt tích. Có khi, mẹ nó đã là một con người mới, mà ở đó bà không còn là mẹ của mẹ cái Ban, cũng như Ban chẳng là con của người phụ nữ khốn khổ. Bà biết cái chuyện người ta muốn xé đi cuộc đời mình như tờ nháp, để rằng cuốn sổ sạch sẽ, thơm tho như thuở ban đầu.
“Bà phải chôn tim con bé xuống dưới gốc cây. Yên tâm, nó còn sống. Đương nhiên, nó phải sống. Nhưng nó sẽ èo uột suốt trong tầm một năm. Kẻ rạch tim giỏi nhất làng là lão trưởng thôn. Sau một năm thì nhồi trở lại. Kề đó thì bệnh nào chẳng khỏi. Kể có câm, có điếc, có gầy yếu, bệnh hoạn thế nào. Chỉ thế là khỏi. Ấy, chớ, bà đừng có nhìn tôi như thế. Bà không tin tôi à? Mà bà không tin cũng phải. Thế bà cứ đi hỏi khắp xóm này. Ai cũng rõ. Thứ thuốc thần kỳ đấy, chỉ có làng mình hay mà thôi.”
Kể tự đó, Ban như mất hồn. Nó ngơ ngẩn nhìn lên bầu trời. Ánh mắt nóng rẫy trói trong những lạnh lùng bỏ ngỏ. Con bé rạch tay miên. Máu chảy đầy nhà, nhưng mắt nó cứ như không. Bà gào tên nó, mà Ban đã điếc đặc. Bà kêu trời, bà kêu đất ôm lấy đầu Ban lặng thinh, gục xuống dưới cổ. Nó điếc, rồi nó câm. Cháu gái bà như chết dần chết mòn, cháu gái bà như cái cây phải sâu bệnh.
“Ai cũng thế cả. Bà không phải lo nghĩ gì. Giai đoạn này nó thế, sau rồi tự hết. Bà cứ kệ nó. Nó không chết được. Ai cho nó chết. Nó không được chết. Bà cứ tin tôi. Vâng, vâng, vâng. Tôi biết. Thế giờ nhé, con bé vẫn đọc được phải không? Tốt, thế thì bà đem về những bài sách kinh này. Bà tụng cho tôi mỗi sáng một lần. Rồi, đây, mấy cuốn này, từ bên trên tặng cho hộ nghèo đấy. Bà cứ để nó đọc nốt. Nó muốn sống, bà cứ yên tâm. Muốn chết là muốn sống lắm rồi, rồi có tai, có mắt, có miệng, nó lại trở về bình thường cả thôi.”
Bà cứ thấy giọng nói lão bác sĩ ngoài trạm xá vang bên tai. Rồi giọng lão trưởng thôn nhè nhẹ hơi rượu, mặt lão đỏ bừng và đôi con mắt híp lại. Xấp tiền chẳng còn bao nhiêu. Có khi nghĩ quẩn, bà muốn bóp chết cái Ban cho rồi. Đời bà nhẹ nợ. Nhưng bà không làm thế được.
Bà ôm cái Ban. Cái Ban lại thơ thẩn nhìn lên trời. Mắt nó buồn quá, nó cứ nhìn đâu đâu. Tội cháu bà. Nó kiếm tìm thứ gì thế nhỉ? Bà Ban ôm cháu gái mà hát bài đồng dao đã lâu chẳng xuất hiện trong làng:
“Dưới Bồ Đề có trái tim bằng sắt
Ai đem lên?
Ai chôn xuống?
Ai kẻ cắp?
Ai giết người?
Ai đem tim mà chôn dưới gốc?
Kẻ ngẩn ngơ
Có là kẻ ngẩn ngơ?”
Cư nhiên, Ban lại khóc. Nước mắt nó chảy trên gò má đã xám ngoét. Bà nào có biết, dưới gốc cây, chẳng còn là tim Ban. Dưới gốc cây khi người ta đã chôn xuống, chỉ có trái tim bằng sắt mà thôi.
Mà kể ra thì nào ai tin, dẫu có người đang nghe ngay đây, có ai dám đào để trông thấy trái tim bằng sắt dưới gốc cây bao giờ.
Và cái Ban là người rõ nhất, chẳng ai trông mong quả tim còn sống là quả tim xác thực của Ban.
------------
P/s: Truyện lấy cảm hứng từ chi tiết trong "Biên niên ký chim vặn dây cót" của bác Haruki Murakami (Đoạn Quế trông thấy hai kẻ chôn tim trong vườn nhà mình, để rồi từ đó về sau, cậu bé năm tuổi câm lặng mãi mãi và sống bên mẹ là Nhục Đậu Khấu).
Cây đầu làng là giống cây Bồ Đề, to đến bảy tám vòng tay đám trẻ con. Cây cao hơn cả nhà năm tầng lầu trong xóm, mọc thẳng đứng sừng sững. Bà cấm Ban trèo lên cây, vì Bồ Đề là giống thiêng, lỡ ngày thần cây tức giận mà quở phạt cái tội trèo lên đầu, lên cổ ông. Nhưng Ban kệ. Ban trèo lên cây miết những ngày đi học về, Ban nghe tiếng gió thổi qua tán lá xanh rì, Ban đứng run trên chạc nâu trơn bóng, hú gọi gió và những mầm cây Ban cố công trồng bên kia đồi. Ban tưởng như mình là Tarzan để mà ước, một ngày nào đó Jane xuất hiện, đuổi đi những gã thợ săn trẻ con độc ác, đuổi cả nhà máy xí nghiệp thực phẩm, và có khi đất sẽ lại như xưa.
Mặc dù gọi là xóm ngoại ô nhưng xóm Ban cũng ra dáng khu dân cư thành phố. Đèn điện đêm sáng choang, nhà cao tầng năm sáu lầu mọc lên ầm ầm. Năm ngoái, nhà máy xí nghiệp thực phẩm đã mở chi nhánh phía chỗ này. Lão trưởng xóm vui lắm. Hai má lão đỏ tưng bừng vì rượu, lão tay bắt mặt mừng: Làng nghèo ta đã là làng văn minh rồi đấy!
“May sao cây Bồ Đề không ai dám chặt.”, Ban nghĩ lung khi nghe gió hất mái tóc mình quàng qua một bên vai.
Ban không biết hè năm nay Minh Trang còn về xóm chơi hay không. Minh Trang là con bé sống ở Sài thành, nó chỉ về quê có một tháng dịp hè. Nghe cái tên đã thấy kêu, Minh Trang. Ban thân với Minh Trang. Nó sang ăn chung ngủ đụng với Minh Trang cả tháng chẳng biết chán. Lũ chúng nó ồn ào đến phát bực. Bà Ban tự hỏi sao mà lũ chúng nó suốt ngày khúc khích cười được. Ở cái tuổi của cái Ban, cái Trang, bà đã biết làm đủ thứ chuyện, nào chăm em, nào xách nước, nào đưa cơm. Bà lắc đầu nhìn đứa cháu côi cha côi mẹ, vừa thương lại vừa bực.
Minh Trang đem những câu chuyện trên Sài Gòn kể cho Ban nghe. Những câu chuyện rực sáng trên chạc cây đầu làng. Mắt Ban lấp lánh to tròn. Nó nhớ lại thị thành hoa lệ lờ mờ trong tâm trí, những lâu đài phép thuật nằm trong những dải sáng đầy sao. Ban sẽ quên đi chuyện mình là đứa trẻ không cha, mẹ bỏ, quên những lời nhiếc của bà, quên cả chuyện căn nhà bị dột, quên chuyện nó mắc chứng khó đọc, quên lũ cái Giàu, thằng Sang vẫn hay ghẹo nó. Ở cạnh Minh Trang, Ban sẽ chẳng thấy thời gian trôi qua mình nữa, nó chẳng ép mình phải biết chăm em, chẳng ép mình phải biết xách nước.
“Vớ vẩn! Quái gì trẻ con làm chuyện người trưởng thành mới là hay ho! Nào, bắt chước tao đây này!”, Minh Trang hướng mặt về phía đồi trọc, “AAAAAAAAAAAAAAAAAAAA”, nó hét lớn.
“AAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA”, hơi Ban vừa dài vừa khỏe. Nó mặc cho phổi căng đầy, khí từ bụng rút xẹp lại, nó hét lớn, để tiếng vọng vang đập khắp chốn cùng. Tiếng vọng ấy trong và cao xoay tròn trong bầu trời lộng gió, rung lên bên tai như tiếng lắc vàng lắc bạc.
Minh Trang sẽ đeo một bên tai nghe, tai còn lại để cho Ban. Âm thanh của những bản nhạc reo cùng tiếng gió. Ban nhắm mắt, thấy vùng đồi lại xanh cây, trời sẽ thôi nóng hôi hổi đọn gió Lào, những mái nhà xanh sống dưới tán Bồ Đề cao vợi. Ban hát theo những sắc âm loáng màu giấy kính bóng sặc sỡ. Ban hát hay lắm. Ban yêu tiếng hát, Ban yêu những âm thanh sống động. Nhưng bà Ban thì không, tai bà Ban nghễnh ngang, đâm ra bà ghét tiếng hát. Chỉ có ở cạnh Minh Trang, Ban sẽ hát thỏa thích. Giọng Ban vừa khỏe vừa chắc, tiếng Ban cao và tươi sáng, đẹp như một bầu trời mùa hè xanh vời vợi, không một ráng mây vẩn đục. Cả khung trời ôm trọn lấy tiếng hát Ban và gió sẽ ngân mãi theo từng nhịp thở.
“Tại sao người ta trồng những trái tim sắt dưới rặng cây?”, Minh Trang thầm thì.
“Hả?”, Ban hỏi lại dù Ban nghe rõ câu hỏi.
“Hai năm trước, ở thành phố,...”
Minh Trang bỏ dở câu trả lời, lắc đầu. Năm ngoái, ngay hôm sau lời đó, con bé đã về Sài Gòn, sớm hơn một tuần so với dự định.
Năm nay, Minh Trang chưa thấy về. Ban vẫn trèo lên chạc cây, chạc thứ mười tính từ dưới mặt đất, nơi hai đứa chúng nó vẫn ngóng vọng ra xa thật xa. Minh Trang sẽ mặc chiếc áo màu neon, đội mũ bảo hiểm có hai mặt kiếng màu đen, sơn đủ loại lên trên mà ngồi cùng nói. Bà Ban có vẻ không thoải mái và hài lòng vì chuyện đó. Bà không thấy nét buồn trên mặt đứa cháu gái:
- Gớm! Bựa ni ranh con nhà mi ngóng hấn hơn ngóng tau! Rày mai mốt tau chết bay sung sướng lắm hen?
Ban mặc bà, Ban quen rồi.
*
Đêm hôm rằm. Minh Trang đã không về thật. Kể ra cũng hai tuần rưỡi.
Đồng hồ kêu tích tắc rõ mồn một. Ban nhìn trân trân trần nhà đen kịt. Nó không ngủ được. Ánh trăng chiếu ngoài hiên cửa, đổ chéo lên ván giường. Tiếng bà ngáy râm ran. Ban nghe gió rung qua cửa sổ. Trời đen kịt. Tiếng lá chạm nhau khe khẽ. Một ngày hè không nóng như lý ra nó phải vậy. Gió man mát tới mức hơi lành lạnh thổi từ bên ngoài. Ban lật người, hướng nhìn về phía bà. Da bà đã nhăn nheo cả, bắt đầu có mùi của người già. Chiếc áo bà ba vải sồng đã mỏng tang và bợt vải. Ban thở khẽ. Mấy năm nữa, Ban đi lấy chồng, dẫu Ban chưa đủ mười tám nhưng bà bảo, con gái tới kỳ kinh là lấy chồng được rồi. Hoặc, Ban sẽ xin việc ở xí nghiệp thực phẩm cuối xóm. Ban còn bà.
“Ban... ơi…”
“Ban... ”
“Ban... ơi…”
Ban nghe tiếng rì rầm bên ngoài cửa sổ. Nó nhổm người dậy ngóng qua song sắt. Âm thanh lại im bặt.
Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc.
Tiếng kim giây gõ lên mặt đồng hồ. Những tán cây xào xạc, cây Bồ Đề chéo phía ngoài sân ngả nghiêng theo cơn gió. Mùi sàn sạn kéo vào trong phòng. Có lẽ sắp mưa. Ban lại nằm xuống. Ván giường gỗ mục chẳng trải chiếu thường nóng rẫy nay lại mát lạnh. Ban nhắm mắt, cố không nghĩ nữa. Gần mười hai giờ đêm rồi. Nãy kim phút chỉ quá số mười. Sáng mai không dậy sớm, bà lại quở.
“Ban ơi…”
“Ban ơi…”
“Ban…”
Âm thanh rì rào lần nữa kéo Ban mở mắt trừng trừng. Nó nhổm người nhìn ra ngoài, nhíu cả mày lại. Đêm đen kịt ngoài song cửa, ánh trăng trải dài trên con đường vắng tanh người. Đèn điện tối muộn đã tắt cả. Ban biết đèn điện sẽ mở trở lại lúc một giờ. Chuyện này là lệ quen ở làng. Từ mười một giờ đến một giờ sáng đèn điện sẽ tắt tối om thảy. Âm thanh vẫn văng vẳng trong khung cảnh lờ mờ. Rõ có người. Ban chắc mẩm, nó trở người đi ra cửa sổ, ngó xem ai gọi.
“Bộp”. Cảm giác mềm âm ẩm.
Tay bà nắm cứng cổ tay phải. Ban giật phắt mình, quay ngược nhìn về phía bà. Bà nhắm chặt mắt miệng khẽ mở hờ. Tiếng bà ngáy. Ban thở phào. Trên trán chẳng hiểu sao đổ một tầng mồ hôi. Quạt con cóc vẫn vù vù cuối chân giường. Ban gỡ những ngón tay gầy guộc nhăn nheo của bà. Nó mò mẫm trong bóng tối. Tay bà cứng ngắc, bám chắc, hẳn bà lại gặp ác mộng. Một lúc sau Ban gỡ ngón cuối. Nó trèo khỏi giường từ phía ánh trăng đổ ráo trên ván giường. Ánh sáng ngả xanh nhàn nhạt.
Âm thanh đã im bặt lần nữa. Ban ngó ra ngoài cửa sổ. Có cây Bồ Đề đầu xóm bảo vệ, ma nào dám ghẹo Ban, Ban tin thế.
- Khẽ thôi! Suỵt! - Giọng của một người đàn ông thì thầm bằng hơi cổ.
Ban mở lớn mắt, cả người nép vào khung tường, chỉ để hé nhìn ra bên ngoài. Tai nó vốn thính, như để bù cho chứng khó đọc. Tiếng bước chân của hai người rõ mồn một. Loáng một chốc, mắt Ban dần quen với bóng tối. Dáng người đen, đậm màu dưới khung cảnh tối muộn; ánh trăng vàng lờ mờ, dẫu không sáng bằng đèn điện nhưng vẫn đủ làm ngả bóng trên mặt đường hơn nửa là xi măng. Một người đàn ông đội mũ lưỡi trai, dáng cao tới gấp rưỡi Ban nhưng trông như con gái, mảnh khảnh, đi đằng sau gập gục người, vác trên vai là một bao tải. Tiếng anh ta thở phì phò khi leo lên quãng dốc. Hình như hai người họ hướng về phía cây Bồ Đề. Ban hé hơn nửa mặt khi dáng hai người đó đã đi quá cửa sổ nhà. Bóng người còn lại trông như lão trưởng xóm. Cái đầu bóng và chiếc bụng phệ nhô ra trông như người mang bầu. Người này cởi trần trùng trục, mặc độc chiếc quần cộc gọn lỏn, dáng chỉ thấp bằng nửa người kia. Tiếng ông ta nghe đã già cả, khàn đặc như rít thuốc lá lâu năm.
- Nhanh lên! Một giờ! - Lão ta lại thì thầm.
Người đàn ông còn lại câm như hến. Hoặc, anh ta câm thật. Cả quãng đường anh chẳng nói câu nào, ú ớ vài âm thanh lạ và hì hục vác trên vai một bao tải vẻ như nặng lắm. Ban căng tai lắng nghe. Tiếng những bước chân xa hơn, bì bõm trên đoạn đường bắt đầu ngấm đất. Mùi sạn lại thốc qua cửa sổ. Ban nghe cái lạnh đêm vùng ngoại ô thấm đẫm mình. Sương đã rơi rồi.
Mười hai giờ đúng.
Tiếng chiếc đồng hồ cũ như bạc cả đi, Ban không nghe âm kim giây gõ quỷ dị nữa. Nhưng âm bà ngáy thì lại càng to lạ thường. Tiếng ro ro át cả tiếng quạt con cóc. Ban lại hướng mắt ra cửa sổ, nó đổi hướng đứng, nép bên bờ tường còn lại tiện trông về phía cây Bồ Đề.
- Làm đi! Mười hai giờ rồi - Tiếng lão già. Nhưng giờ Ban không nhìn rõ nữa. Trăng lại trốn sau một rặng mây đậm màu. Dáng hai người đã hơi xa tầm mắt, chìm hẳn vào bóng đêm tĩnh mịch. Cả con đường đen kịt, giơ bàn tay ngay trước mặt cũng không trông thấy gì.
“Xoảng xoảng”. Ban căng tai lắng nghe.
Tiếng kim loại va vào nhau. Ban nghi tiếng cái cuốc, cái xèng ở đâu. “Họ đang làm gì nhỉ?”, Ban tò mò tợn, cả mặt đã chường ra ngoài cửa nhưng cũng không nhìn được gì hơn. Thoáng lại có tiếng sột soạt gập túi bao tải, loại vải bạt, âm thanh nghe rap ráp. Lúc này, âm đồng hồ lại đánh bên tai Ban. Ban tưởng như ngay sau mình có một luồng khí đen ghé vào tai mà thì thầm gọi. Nó quay người nhìn. Trống không cả.
Tích. Tooc. Tich. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc.
Độc âm đồng hồ vang vọng.
Rồi tiếng đào đất ngày càng rõ mồn một. Mặt trăng tròn vành vạnh tít trên tầm cao . Ánh sáng ngả trên những tán Bồ Đề. Ban trông thấy hai người đàn ông khi nãy đang hùng hục đào thứ gì dưới gốc cây. Họ đào hăng. Mồ hôi mồ kê có vẻ vã ra trên mặt. Tiếng lão già thở phì phì, anh chàng câm đào hùng hục, một chút lại nghỉ, lấy tay lau trán.
Tiếng xẻng và đất đá. Ban gõ tay lên mặt tường, người cứ nhấp nha nhấp nhổm. “Hai người họ làm gì thế nhỉ?”
Mười hai giờ ba mươi.
Ban trông thấy ông già đứng quay lưng phía này giơ tay lên nhìn đồng hồ. Chiếc đồng hồ y như của lão trưởng xóm, loáng lên dưới ánh trăng.
- Tới giờ rồi!
Lão trưởng xóm nói, người đàn ông đứng nghiêng, đội mũ lưỡi trai kéo sụp dưới mắt gật đầu. Ban nghe tiếng cuốc với cái xẻng ngã trên mặt đất, va vào nhau kêu leng keng. Rồi anh ta lẫn lão già ngồi bệt xuống, thò tay vào cái hố đã đào mà lôi lên. Hai người thở mạnh, hì hục, hì hục. Rồi tựa như lỗ đào vẫn còn nông, lão trưởng thôn lại cầm cái xẻng hất đất ra thêm. Thứ gì đó đang kẹt sâu ở dưới.
- Được rồi! - Tiếng lão trưởng xóm thở nhẹ.
Đúng lúc này thì trăng lại khuất dạng. Ban mở lớn mắt nhìn. Có tiếng đập. Tiếng thở gấp gáp hổn hển. Anh chàng câm run rẩy rên. Ban nghe tiếng lão trưởng làng êm giọng.
- Khẽ!
Ban lắng tai nghe lần nữa. Trắng ló rạng. Ánh trăng vàng ruộm, ngày càng sáng đến nhức mắt.
Một quả tim!
Ban căng mắt nhìn. Một quả tim thật! Một quả tim đập loáng màu bạc! Ban trông hình thù quái lạ khúc khuỷu của nó mà há hốc mồm. Quả tim như tim lợn, tim bò, đập như con chim non nào ép trên tay. Lão trưởng làng đích xác đang cầm trên tay một trái tim bằng sắt. Ban trợn tròn, há hốc mồm. Tiếng đồng hồ nín bặt. Mà anh chàng đội mũ lưỡi trai đang ngả cả người ra sau, ngực áo sơ mi phanh ra đằng trước để lộ một mảng da màu đồng. Máu chảy đầm đìa trên ngực trái. Màu máu đỏ rực, thấm đẫm ra ngoài chiếc áo lót trắng trong. Lão trưởng làng nhẹ giọng.
- Ổn cả thôi! Ổn cả thôi! - Trên tay lão là một con dao kim loại, cũng phát sáng dưới ánh trăng.
Ban đưa tay lên che miệng. Nó thấy cái lạnh rợn từ sống lưng. Lão trưởng làng đặt con dao lên tấm vải, rồi lấy tay đã đeo găng mở banh vết rạch đầm máu. Anh chàng hít một hơi sâu, không dám rên thành tiếng. Rỗi chốc, lão trưởng làng nhồi quả tim vào trong mình.
- Ha - Anh chàng thở ra, rên rỉ. Ban tưởng như mồ hôi anh ta đầm đìa trên trán. Cơn đau tái làm môi anh ta tím sẫm, gương mặt tái dại đi, run bần bật.
Tay lão đã nằm một nửa trong ngực anh. Lão ta ngẩng đầu lên nhìn tán Bồ Đề, chỉnh chỉnh tay như nắn đặt cho đúng chỗ. Anh chàng rên hồng hộc.
- Được rồi đấy! - Lão rút tay.
Và tưởng như có một phép lạ nào, mảng da liền ngay tức khắc. Chỉ có vết máu vẫn đầm trên ngực trái. Máu kéo rỏ giọt khắp vùng ngực, đổ cả thảy xuống bụng. Lão trưởng làng kéo găng y sinh ra khỏi tay, vứt xuống cái hố.
- Chốc, trước một giờ thì thu gọn cẩn thận! - Lão đứng dậy, đặt tay lên trên vai anh chàng mảnh khảnh. Lão hướng về phía con dốc, đi ngang qua nhà cái Ban. Ban giật thót người, quay hẳn người về phía trong nhà.
Tiếng lão ngay bên ngoài cửa.
- Chớ để ai biết! Kẻo mất tai! - Giọng lão vẫn thì thầm, khàn đặc.
- Vâng - Là tiếng của anh chàng. Tiếng anh ta trầm đục, lạnh tanh lại hơi khê như do lâu không mở miệng - Cảm ơn chú.
Bước chân lão trưởng xóm đi xa. Ban hé mắt nhìn ra ngoài. Anh chàng mảnh dẻ đã to lớn hơn lúc trước đến lạ. Cơ nổi đầy trên bắp tay. Anh ta cười ngoác miệng, nắn bóp trên thân mình. Tưởng như những cơn đau và thân hình trước chỉ là Ban nhìn lầm, nghe lầm. Anh ta đứng dậy như chẳng có hề gì. Cái áo sơ mi khoác ngoài cũng bị vứt dưới cái hố. Tiếng xẻng cuốc đào đất trở lại. Ban thấy anh ta cẩn thận lấp đất, còn dẫm chân lên để cho đất trông như ban đầu.
Rồi anh ta cũng khuất dạng.
Trăng đêm rằm mờ dần. Đèn điện lên màu dần, chốc đổ màu trắng phau trải khắp mặt đường.
Ban ngó đồng hồ. Một giờ đúng. Mồ hôi chảy ròng chẳng biết do nóng hay sợ. Mùi sạn và cảm giác oi oi ngày càng rõ rệt. Rồi loáng, tiếng sấm đùng đùng. Ban bỏ lên giường.
"Ơ?" Ban nhìn.
"Ơ?" Ban đứng sững.
Một Ban khác!
Ở đó, đang có một Ban khác đang ngủ. Nó trợn mắt, há mồm. Một đứa gái trông y như Ban, đang nằm nghiêng mà say giấc bên bà. Ban đoán mọi sự chỉ là mơ thôi. Vì lần này, Ban chẳng thấy cơn đau tái trên da thịt khi tự cấu mình.
Nó lẳng lặng nằm sát cạnh một Ban khác ấy. Tiếng bà vẫn ngáy. Ban tự hỏi hai người đó sao lại làm thế? Tại sao dưới gốc cây lại có trái tim sắt. Mà trái tim sắt sao lại đập, tại sao da anh ta lại liền ngay tức khắc. Giấc mơ này hẳn có ý nghĩa gì đó chứ? Ngỡ như một tiếng vừa trôi qua chỉ như một khắc. Tiếng cơn mưa rào đổ ráo qua cửa sổ. Tiếng rào rào, ầm ầm. Ban dựng người dậy để nhìn, cứ có gì khang khác. Ban không rõ khang khác ở đâu, nhưng rõ có thứ gì đó. Tiếng bà ngáy và âm thanh đồng hồ. Ban lại nằm xuống. Nó nhắm mắt, nó không nghĩ gì cả. Tiếng đồng hồ ngày càng to, gõ đều đều trong âm mưa rền rĩ.
Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc. Tích. Tooc.
Rồi ngày mai sẽ một khác.
*
Tiếng bà xộc hẳn trong phòng để gọi.
- Tau ... mi mà ... nỏ dậy?
Ban mở mắt. Trần nhà xoay mòng mòng. Nó nhìn xung quanh. Ban ngồi trên ván giường thần người trông ra gốc Bồ Đề ngoài cửa sổ. Cây Bồ Đề vẫn sừng sững. Đường đất đã khô cả, nắng đã lên giữa thân sào. Bà vào rồi đã trở ra chõ bếp.
- Ban! - Giọng bà lớn hơn.
Ban thấy âm thanh lùng bùng. Nó gọi bà.
- Bà! Bà! - Âm thanh như mắc kẹt ở quãng họng. Ban thấy như có gì dính ở ngay trong tai, nghe lộm cộm. Nó lấy ngón út ngoáy nhẹ, lắc bên tai. Tiếng lạo xạo.
- Mi … rứa?
Tiếng bà cứ lúc được lúc mất. Ban trông lên trần nhà. Ban không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ánh trăng và những dáng người đêm qua. Ban trông ra ngoài. Âm sắc lộn xộn, bỗng êm ru và im ắng lạ thường. Hình như mọi thứ là một giấc mơ. Bà Ban vẫn loay hoay ngoài bếp. Ban không nghe tiếng loảng xoảng của nồi niêu. Tiếng gà cũng không gáy. Ban bấu vào tay mình. Cảm giác đau rất thật. Ban nhìn chung quanh. Ban trông lên cẳng tay, cẳng chân gầy nhẳng. Da thịt vẫn nhuốm màu sạm. Nhưng cứ như thể, ai đó đã ném Ban vào một hộp lập phương bằng thủy tinh hoàn hảo.
Nó không nghe thấy gì. Hoàn toàn không.
*
- Điếc rồi! - Bác sĩ trạm xá ngồi đối diện kết luận.
Ban trợn mắt nhìn. Nó kéo bà cạnh mình, thì thầm.
- Bà ơi, mình… mình… mình... về đi! Ông… - Con bé lắp bắp, giọng nó run rẩy lạ - Đầu… Ông… Đầu ông … ta … - Âm thanh từ họng lên tai dường như dính chặt vào nhau mà két đặc tại khoang miệng - là đầu con… chim.
Phải! Ban không tin vào mắt mình. Nó dán mắt về phía vị bác sĩ ở trạm xá trong xóm. Ông ta có một cái mỏ nhỏ, chu ra đằng trước. Con mắt cao tít lên thái dương. Cả gương mặt lông lá, màu xanh lá biếc hai bên vành tai. Rõ là một con se sẻ.
- Cháu bảo gì cơ? - Ông ta nghiêng đầu.
- Cháu nó nỏ bảo gì to tát mô. Ông coi lại chứ cháu nó bữa rày vẫn bình thường.
Nói rồi, cái đầu chim ngoài trạm xá lại tiến sát về phía Ban. Mỏ nó vàng sẫm, nhọn hoắt, trông cứng như đá, nhìn y hệt con dao lão trưởng xóm đêm qua. Hai con mắt trố lồi chớp chớp, đôi mắt to đến bằng cả cái nắm đấm tay. Ban quay nhìn bà. Mặt bà vẫn điềm nhiên như không.
“Bà không thấy rồi, bà không thấy rồi, bà không thấy, bà không thấy, bà không thấy, bà không thấy, bà không thấy, không thấy, không thấy, không thấy.”
Ban giật thót người về phía sau. Chẳng lẽ… là do nó?
- Điếc đột ngột! - Mỏ con chim mở ra khép vào - Không phải hiếm đâu bà ạ! Để tôi làm đơn đề lên tuyến trên, chắc bà mất công một chuyến lên tỉnh khám lần nữa.
- Mèn ơi! Rõ phải tội! Ông ơi, ông xem cháu nó như mô. Bây giừ tôi biết sao mà vô tỉnh thăm với khám ạ. - Bà Ban giật thót mình.
Ban trông thấy bà lần vào trong túi áo, giở một xấp tiền nhăn nheo rồi dúi vào tay đầu chim. Tay đầu chim có vẻ lưỡng lự. Hồi lâu hắn ta mới mở miệng.
- Thế thì tôi có một cách, nhưng ý phải xem bà với cháu nó thế nào. Nếu bà ưng bụng, thì bà để cháu ở bên ngoài, tôi nói chuyện riêng với bà một lát.
Két… Két… Két… Cạch.
Cánh cửa phòng trạm xá màu xanh, loại cửa gỗ đã cũ, bản lề gỉ két, đóng lại. Ban một mình ngồi trên băng ghế bên ngoài. Trạm xá bé bằng gian nhà của Ban, mùi ete nồng nặc. Cả trạm xá không có lấy một người. Bên ngoài gian là sân vườn rộng, đủ loại cây. Ban trông thấy nhãn sai trĩu cành. Từng chùm, từng chùm níu cành kéo sát rạt.
Mọi thứ thay đổi rồi. Ban nhận rõ thế. Cảm giác mình sắp đi lấy chồng hoặc ngày nào đó đi làm ở xí nghiệp ngày càng đặc sệt trong lòng. Mùi đất cũng đã khác. Ban phát giác mình đã nhìn rõ hơn khi vào phòng thăm khám. Những con chữ không còn khó đọc với nó. Chúng không còn hoa lên, nhiễu loạn, không còn cảm giác xa lạ, những con chữ đứng im, để mặc Ban tóm lấy, Ban nuốt chúng bằng mắt. Lý ra Ban phải vui. Nhưng toàn bộ, Ban chỉ thấy sợ. Phải chăng là từ đêm qua? Nhưng Ban nghĩ đó chỉ là mơ thôi. Cảm giác chân trần chạm trên sàn nhà hoàn toàn lạ lẫm. Cơn đau và xúc cảm, lẫn sự tò mò ngạc nhiên đêm qua đã bị đánh bay mất dạng. Đó không phải là Ban. Ngực Ban như rỗng không, một bên người nhẹ bẫng. Nó đánh mất điều gì đó.
Hay, Ban còn lại, đứa Ban say giấc trên giường, đã sống phần đời của Ban. Và Ban thật này đây, lại đang ở thế giới này. Nó ngó nhìn. Liệu, có như Minh Trang kể, một thế giới gương phẳng mà ở đó hai phần Ban đã tách đôi, buộc phải đi tìm lẫn nhau? Ban sợ. Nhưng nó không dám nói. Một bên tai ù ù trong tĩnh lặng. Nó điếc rồi! Nó biết thế. Nó úp một bên tai, bên tai còn lại, bên tai vẫn thường đeo tai nghe đã rít đặc. Nó nghe tiếng ù ù như thác chảy rõ mồn một. Nhưng ngoài tiếng u u đó, một mảng tĩnh tại hoàn toàn.
“Ban điếc rồi!”, nó lẩm bẩm.
*
Cây Bồ Đề chết đúng một tuần sau ngày Ban bị điếc. Người ta đốn thân cây khi những cành héo rũ, lá rụng đầy dưới gốc. Những chạc, những thân trơ trụi vươn tay lên trời. Ban ngơ ngẩn trông ra phía bãi đất trống hoang tàn, chỉ độc một gốc thân to mấy người ngồi. Trời vẫn xanh. Nắng sáng rực phía chân trời. Một màu xanh trong trẻo như ai tráng lớp gương. Tựa như miếng thạch mát lành, cắn một miếng, nước lạnh áp trên khoang miệng như Minh Trang từng đưa cho Ban ăn.
Bà Ban từ trong bếp đi vào, lắc đầu. Đời bà phải tội, đứa cháu không ra hình người. Mẹ nó chửa hoang trên Sài thành, đem về cho bà nuôi từ năm con bé bốn tuổi. Rồi biệt tích. Có khi, mẹ nó đã là một con người mới, mà ở đó bà không còn là mẹ của mẹ cái Ban, cũng như Ban chẳng là con của người phụ nữ khốn khổ. Bà biết cái chuyện người ta muốn xé đi cuộc đời mình như tờ nháp, để rằng cuốn sổ sạch sẽ, thơm tho như thuở ban đầu.
“Bà phải chôn tim con bé xuống dưới gốc cây. Yên tâm, nó còn sống. Đương nhiên, nó phải sống. Nhưng nó sẽ èo uột suốt trong tầm một năm. Kẻ rạch tim giỏi nhất làng là lão trưởng thôn. Sau một năm thì nhồi trở lại. Kề đó thì bệnh nào chẳng khỏi. Kể có câm, có điếc, có gầy yếu, bệnh hoạn thế nào. Chỉ thế là khỏi. Ấy, chớ, bà đừng có nhìn tôi như thế. Bà không tin tôi à? Mà bà không tin cũng phải. Thế bà cứ đi hỏi khắp xóm này. Ai cũng rõ. Thứ thuốc thần kỳ đấy, chỉ có làng mình hay mà thôi.”
Kể tự đó, Ban như mất hồn. Nó ngơ ngẩn nhìn lên bầu trời. Ánh mắt nóng rẫy trói trong những lạnh lùng bỏ ngỏ. Con bé rạch tay miên. Máu chảy đầy nhà, nhưng mắt nó cứ như không. Bà gào tên nó, mà Ban đã điếc đặc. Bà kêu trời, bà kêu đất ôm lấy đầu Ban lặng thinh, gục xuống dưới cổ. Nó điếc, rồi nó câm. Cháu gái bà như chết dần chết mòn, cháu gái bà như cái cây phải sâu bệnh.
“Ai cũng thế cả. Bà không phải lo nghĩ gì. Giai đoạn này nó thế, sau rồi tự hết. Bà cứ kệ nó. Nó không chết được. Ai cho nó chết. Nó không được chết. Bà cứ tin tôi. Vâng, vâng, vâng. Tôi biết. Thế giờ nhé, con bé vẫn đọc được phải không? Tốt, thế thì bà đem về những bài sách kinh này. Bà tụng cho tôi mỗi sáng một lần. Rồi, đây, mấy cuốn này, từ bên trên tặng cho hộ nghèo đấy. Bà cứ để nó đọc nốt. Nó muốn sống, bà cứ yên tâm. Muốn chết là muốn sống lắm rồi, rồi có tai, có mắt, có miệng, nó lại trở về bình thường cả thôi.”
Bà cứ thấy giọng nói lão bác sĩ ngoài trạm xá vang bên tai. Rồi giọng lão trưởng thôn nhè nhẹ hơi rượu, mặt lão đỏ bừng và đôi con mắt híp lại. Xấp tiền chẳng còn bao nhiêu. Có khi nghĩ quẩn, bà muốn bóp chết cái Ban cho rồi. Đời bà nhẹ nợ. Nhưng bà không làm thế được.
Bà ôm cái Ban. Cái Ban lại thơ thẩn nhìn lên trời. Mắt nó buồn quá, nó cứ nhìn đâu đâu. Tội cháu bà. Nó kiếm tìm thứ gì thế nhỉ? Bà Ban ôm cháu gái mà hát bài đồng dao đã lâu chẳng xuất hiện trong làng:
“Dưới Bồ Đề có trái tim bằng sắt
Ai đem lên?
Ai chôn xuống?
Ai kẻ cắp?
Ai giết người?
Ai đem tim mà chôn dưới gốc?
Kẻ ngẩn ngơ
Có là kẻ ngẩn ngơ?”
Cư nhiên, Ban lại khóc. Nước mắt nó chảy trên gò má đã xám ngoét. Bà nào có biết, dưới gốc cây, chẳng còn là tim Ban. Dưới gốc cây khi người ta đã chôn xuống, chỉ có trái tim bằng sắt mà thôi.
Mà kể ra thì nào ai tin, dẫu có người đang nghe ngay đây, có ai dám đào để trông thấy trái tim bằng sắt dưới gốc cây bao giờ.
Và cái Ban là người rõ nhất, chẳng ai trông mong quả tim còn sống là quả tim xác thực của Ban.
------------
P/s: Truyện lấy cảm hứng từ chi tiết trong "Biên niên ký chim vặn dây cót" của bác Haruki Murakami (Đoạn Quế trông thấy hai kẻ chôn tim trong vườn nhà mình, để rồi từ đó về sau, cậu bé năm tuổi câm lặng mãi mãi và sống bên mẹ là Nhục Đậu Khấu).
Chỉnh sửa lần cuối: