Mai Thị Phượng, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam
Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội - ĐT: 0977.944.133
Truyện ngắn:
QUẢ NGỌT
- Anh Đình ơi, Cậu Bắc giờ không biết ra sao rồi nhỉ?
Tiếng chú Hào hỏi bố tôi. Hỏi xong, chú Hào thở một cái rõ dài như tự trả lời cho câu hỏi không có lời đáp. Bố tôi ngồi trầm ngâm nhìn ra vườn, nơi những chùm vải chín đỏ đang rực lên trong nắng, giọng trầm trầm khẽ nói:
- Trận đánh đấy ác liệt quá Hào nhỉ? Mất mát nhiều quá.
Thế rồi, thời bom đạn xa xưa ấy lại quay về trong ký ức của hai người lính già, hai người bạn chiến đấu cùng ra đi từ một làng quê nghèo.
Ngày ấy, bố tôi 18 tuổi còn chú Hào mới 17 tuổi. Theo tiếng gọi của tổ quốc, bố tôi nhập ngũ để vào chiến trường B ác liệt. Chú Hào cũng xung phong đi. Chú Hào nhỏ hơn bố tôi một tuổi. Lẽ ra, chú Hào chưa được đi đợt ấy. Chú Hào đã tự viết đơn xung phong vào bộ đội. Chú lấy con dao rạch một đường ở ngón tay cái bên trái để thấm máu mình vào cuối lá đơn xin nhập ngũ. Ngày bố tôi và chú lên đường, bà nội tôi và mẹ chú ôm nhau khóc như mưa. Chỉ có hai anh thanh niên làng Yên Khang ngày ấy hớn hở cười và nói như đinh đóng cột:
- Mẹ về đi, hòa bình rồi tụi con sẽ về.
Thế là, bố tôi và chú Hào cùng rời làng, cùng lên đường vào chiến trường B chiến đấu và trở thành đồng đội của nhau như vậy. Hai cậu thanh niên khi ấy hiểu rằng đi B tức là hành quân vào miền nam, hành quân vượt qua dãy Trường Sơn để vào chiến trường ác liệt nhất lúc bấy giờ. Bố tôi và chú Hào cùng làm lính thông tin trong một tiểu đội, cùng hành quân qua những chặng đường rừng.
Chiến sự trong mùa hè năm 1972 ở Quảng trị diễn ra cực kỳ ác liệt. Tiểu đội thông tin của bố tôi và chú Hào có 12 người đóng tạm tại một chân núi. Năm 1972, Quảng trị là nơi giao tranh ác liệt giữa quân ta và quân Mỹ - Ngụy. Quân Mỹ đưa hàng nghìn máy bay và không quân vào Quảng trị. Nhiệm vụ lính thông tin của bố tôi và các anh em trong tiểu đội là dò sóng rađa để dễ dàng bắt sóng và bắn máy bay địch. Quân Mỹ cũng tìm cách cho máy bay B52 gây nhiễu để phá sóng rađa của ta. Chúng không ngờ rằng, tiểu đội của bố tôi khi ấy có một loại rađa mang tên K860 trang bị cho pháo cao xạ 57 ly có thể phá nhiễu sóng để lần ra “pháo đài bay B52” của chúng. Nhờ đó, các pháo thủ của ta phản kích và tiêu diệt được không ít máy bay địch.
Hôm ấy, tiểu đội Trưởng của bố tôi triệu tập bố tôi và chú Hào đến và bảo:
- Đồng chí Đình, đồng chí Hào nhận lệnh đi chở gạo về cho tiểu đội. Hiện nay, lương thực đã cạn mà tiếp tế chưa có do bên hậu cần cũng đang thiếu người. Tôi lệnh cho 2 đồng chí trong vòng 1 ngày đi nhận và mang gạo về. Nhiệm vụ của 2 đồng chí ở đây, tôi cùng các anh em trong tiểu đội sẽ làm trong lúc các đồng chí vắng mặt.
- Rõ, thưa thủ trưởng
Thế rồi, bố tôi và chú Hào đi lấy gạo. Nhưng có một mất mát lớn lao mà cả bố tôi và chú Hào không ngờ tới đã xảy ra. Trong cái ngày mà bố tôi và chú Hào đi lấy gạo, bọn địch đã dò ngược lại sóng rađa của tiểu đội bố tôi. Chúng đã ném bom định vị. Luồn lách trong rừng giữa tiếng bom đạn ầm ì, đến xẩm tối thì bố tôi và chú Hào cũng trở về đến đơn vị. Trời ơi, đơn vị bây giờ chỉ còn một cảnh tan hoang. Những hố bom sâu lồi lõm, cây đổ, xác đồng đội nằm ngồn ngang. Bố tôi và chú Hào quẳng xe cải tiến chở gạo cùng chạy vào.
- Anh Hưng ơi, Khuê ơi, Thanh ơi, Bắc ơi…..
Không có tiếng trả lời. Không gian chỉ có mùi thuốc súng, mùi bom đạn khét lẹt, mùi đất bị cày lên và…mùi máu. Những mùi này cho biết trận đánh diễn ra chưa lâu.
Bố tôi và chú Hào òa khóc rồi hai anh em cứ vừa khóc vừa chạy đến từng đồng đội xem ai có còn sống không. Những cái lay, những tiếng gọi lạc lõng vang lên mà không có ai đáp trả. Đúng lúc ấy, phía sau một gốc cây đổ, tiếng bố tôi gọi to:
- Hào ơi, Hào ơi….Bắc còn sống đây này. Bắc ơi, Bắc…..
Chú Hào đang bới một đám đất cách đó một quãng lao đến.
- Tay trái của cậu ấy cụt mất rồi, chảy nhiều máu quá
Chú Hào cởi phăng áo buộc cánh tay cầm máu cho chú Bắc. Chiếc áo xanh nhanh chóng đẫm máu giống như chiếc áo đã đẫm máu mà bố tôi vừa cởi ra để băng đầu cho chú Bắc.
Trong trận đánh ấy, tiểu đội của bố tôi đã tử trận 9 người. Chú Bắc bị thương nặng ở đầu, cụt mất cánh tay trái. Chú được quân y đưa ra ngoài Bắc điều trị. Bố tôi và chú Hào được ghép vào một tiểu đội khác và tiếp tục hành quân vào miền nam. Họ lạc mất nhau từ đấy.
Hòa bình lập lại. Bố tôi và chú Hào đã giữ lời hứa năm xưa là trở về quê với các bà mẹ. Bố tôi bị gãy một chân. Chú Hào có một mảnh bom ở trán và vết thương vẫn đau nhức mỗi khi trở trời. Họ vẫn đau đáu đi tìm thông tin về người đồng đội năm xưa. Họ dò hỏi khắp nơi mà vẫn bặt vô âm tín. Hai người lính già thường ngồi bên chén nước chè, thường nhắc về chú Bắc như nhắc về một người thân bị lạc mất. Tất cả kỷ vật mà bố tôi đã có về chú Bắc và những người đồng đội năm xưa là bức ảnh đen trắng chụp chung cả tiểu đội. Bố tôi đã cẩn thận rửa ảnh to cỡ bằng bìa vở. Bố tôi lồng khung kính treo trang trọng giữa nhà. Mẹ tôi và chúng tôi cũng rất trân trọng kỷ vật của bố. Gương mặt xương xương của chú Bắc trong ảnh thân thuộc với tôi đến nỗi tôi có cảm giác như chú là người thân vậy.
Bất giác, chú Hào ngẩng đầu lên và nói:
- Thời gian trôi qua nhanh quá anh nhỉ? Cái Phượng năm nay đã năm 2 đại học rồi đấy.
Rồi chú nhìn tôi hỏi
- Thế hè này, cháu có định đi đâu không?
- Dạ, thưa chú, năm nay cháu đi tình nguyện cùng đoàn thanh niên trường ạ.
- Ồ… cháu tôi giỏi quá. Cháu đi đâu? Làm những gì?
- Cháu đi Tuyên Quang dạy học cho trẻ em vùng cao.
Chú cười rạng rỡ, gật gật cái đầu.
Thế rồi mùa hè năm ấy, tôi cùng đoàn sinh viên tình nguyện của trường lên tận núi Pác Tạ, Tuyên Quang để dạy học và gieo vào lòng những em bé ở đây tình yêu với sách vở. Chúng tôi gom các trẻ em theo độ tuổi và ngày ngày dạy chữ cho các em. Thời gian dạy học cũng rất linh hoạt. Các em bé tầm 5 đến 6 tuổi, mới học chữ cái, thì chúng tôi dạy ban ngày. Các em lớn hơn một chút thường đi làm nương cùng ba mẹ thì chúng tôi sẽ thắp đèn dạy chữ vào buổi tối. Từ ngày có chúng tôi, xóm núi vui hẳn lên với tiếng cười, tiếng nói.
Một hôm, tôi đang dạy văn vào ca buổi tối cho các em nhỏ khoảng 8 đến 9 tuổi thì người tôi lên cơn sốt. Đầu tôi đau, chóng mặt và người hầm hập sốt. Mỗi lúc, tôi càng thấy trong người một khó chịu. Người nóng đấy, rồi lạnh đấy, tôi gục xuống. Đám học trò nháo nhác gọi người lớn. Rất nhanh chóng, người lớn chạy đến. Người sờ trán, người sờ tay, chân. Tiếng lao xao khắp nơi:
- Cái cô giáo sốt rồi
- Cái trạm y tế xa quá, trời tối rồi, làm sao đây?
Bỗng có tiếng một người đàn ông
- Tôi chữa được cho cái cô giáo. Đưa cái cô giáo sang nhà tôi, ngay kia thôi.
Thế là tôi nhanh chóng được đưa đến một nhà trong bản. Tối đó, tôi sốt cao mê man những vẫn nhận biết có một gia đình chăm sóc tôi. Họ đắp lá chờm mát trán, tay, chân cho tôi. Theo lệnh của ông bố, cô con gái của họ dùng nước ấm lau người cho tôi. Bà mẹ sắc thuốc và nấu cháo loãng rồi bón từng thìa nhỏ vào miệng tôi. Sau một đêm mê man, tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã cao hơn con sào. Lúc này, tôi mới nhìn kỹ những người đã chăm sóc tôi hôm qua. Cô con gái nhà ấy trạc tuổi tôi. Cô có mái tóc dài, buộc túm lại phía sau, cô cười bẽn lẽn:
- Cô giáo dạy rồi. Cô giáo đỡ mệt chưa?
Tôi gắng cười đáp lại, nụ cười vẫn… hơi méo. Vừa lúc ấy, bà mẹ bưng bát cháo nóng đang nghi ngút khói đến.
- Cái cô giáo ăn đi này. Hôm qua, cái cô giáo sốt cao lắm đấy.
Tôi nhìn qua bà mẹ với dáng người nhỏ nhắn, gương mặt phúc hậu nhưng ánh nhìn của tôi lại dừng ở người đàn ông cụt tay trái đứng phía sau bà mẹ. Ôi… cái gương mặt ấy sao vừa quen vừa lạ. Gương mặt xương xương đã hằn nhiều nếp nhăn này có cái gì đó lạ mà rất quen. Tôi đã nhìn thấy ở đâu rồi nhỉ, cánh tay trái bị cụt đến khuỷu tay. Một linh cảm ùa đến, không lẽ nào?. Tôi thận trọng:
- Cháu cảm ơn gia đình đã giúp đỡ cháu. Cháu thấy chú quen quen. Chú cho cháu hỏi khí không phải: chú tên là gì, vì sao chú… mất một tay?
Người đàn ông cười vang:
- Cô giáo vẫn còn mệt mà…hỏi dài ghê. Tôi là Bắc. Tôi mất một tay trong trân chiến ở Quảng trị năm 1972.
- Ôi… cháu linh cảm đúng mà. Chú Bắc…
Tôi bật ngồi dậy, cô con gái thảng thốt giữ tôi ngồi lại. Người vẫn mệt, nhưng sao lòng tôi vui thế này:
- Chú Bắc, cháu là con bố Đình. Bố Mai Văn Đình. Bố cháu và chú Hào tìm chú bao năm qua.
Tôi ứa nước mắt nhìn người lính già trước mặt tôi gương mặt run run vì xúc động, hàng nước mắt trên gương mặt già nua chảy ra mà không có một tiếng khóc nào. Chú Bắc bước đến cạnh tôi, lắc vai tôi, giọng nghèn nghẹn
- Anh Đình, anh Hào, con gái anh Đình…
Tôi được gia đình chú chăm sóc mấy ngày cho khỏe hẳn. Rồi chú nhất định sắp ba lô, đòi đoàn trường cho tôi về sớm. Chú nhờ tôi đưa về gặp hai ông bạn chiến đấu năm xưa.
Tôi giữ bí mật nên chỉ nhắn về nhà vỏn vẹn một câu:
“Chủ Nhật con về nhà. Con có việc quan trọng. Bố mẹ làm cơm và mời nhà chú Hào sang ăn nhé”
Ở Yên Khang, bố mẹ tôi đứng ngồi không yên. Chú Hào cũng đi ra, đi vào. Tiếng mẹ tôi:
- Không biết có chuyện gì mà nó cứ úp úp mở mở. Tôi lo lắm.
Chú Hào ghé ngồi xuống bậc thềm ngoài nhà trấn an:
- Chị đừng lo, chắc con bé lần đầu đi công tác xa nên lại muốn được quây quần gia đình đông vui thôi.
Tiếng xe ôm dừng ngoài ngõ. Tiếng bọn trẻ con trong xóm ríu rít hò reo. Tôi vừa chạy vào cổng đã thấy bố tôi đang đứng ngoài sân xem chừng sốt ruột ngóng tôi về. Chú Hào ngồi trên bậc thềm cũng mong cháu chẳng kém. Tôi kêu lên mừng rỡ:
- Bố ơi, chú ơi, xem ai về nhà ta này?
Vừa lúc ấy, chú Bắc bước vào
- Anh Đình, anh Hào. Em Bắc đây.
- Trời ơi, cậu Bắc, cậu Bắc
Chú Hào đứng bật dậy. Bố tôi bước đến. Trong một tích tắc, ba người lính già ôm choàng lấy nhau vừa cười ha hả vừa chảy nước mắt gọi tên nhau. Tôi thấy một sự xúc động rưng rưng dâng lên trong lòng mình. Phía sau, mẹ tôi và vợ chú Hào cũng đang đứng lặng lẽ chấm nước mắt. Ngoài vườn, những cây vải bố tôi mang giống tốt về trồng đang cho những quả ngọt trĩu mọng đỏ tươi. Cuộc đời cũng vậy, cuộc đời thường trả cho ta trái ngọt từ những hạt giống yêu thương.
Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội - ĐT: 0977.944.133
Truyện ngắn:
QUẢ NGỌT
- Anh Đình ơi, Cậu Bắc giờ không biết ra sao rồi nhỉ?
Tiếng chú Hào hỏi bố tôi. Hỏi xong, chú Hào thở một cái rõ dài như tự trả lời cho câu hỏi không có lời đáp. Bố tôi ngồi trầm ngâm nhìn ra vườn, nơi những chùm vải chín đỏ đang rực lên trong nắng, giọng trầm trầm khẽ nói:
- Trận đánh đấy ác liệt quá Hào nhỉ? Mất mát nhiều quá.
Thế rồi, thời bom đạn xa xưa ấy lại quay về trong ký ức của hai người lính già, hai người bạn chiến đấu cùng ra đi từ một làng quê nghèo.
Ngày ấy, bố tôi 18 tuổi còn chú Hào mới 17 tuổi. Theo tiếng gọi của tổ quốc, bố tôi nhập ngũ để vào chiến trường B ác liệt. Chú Hào cũng xung phong đi. Chú Hào nhỏ hơn bố tôi một tuổi. Lẽ ra, chú Hào chưa được đi đợt ấy. Chú Hào đã tự viết đơn xung phong vào bộ đội. Chú lấy con dao rạch một đường ở ngón tay cái bên trái để thấm máu mình vào cuối lá đơn xin nhập ngũ. Ngày bố tôi và chú lên đường, bà nội tôi và mẹ chú ôm nhau khóc như mưa. Chỉ có hai anh thanh niên làng Yên Khang ngày ấy hớn hở cười và nói như đinh đóng cột:
- Mẹ về đi, hòa bình rồi tụi con sẽ về.
Thế là, bố tôi và chú Hào cùng rời làng, cùng lên đường vào chiến trường B chiến đấu và trở thành đồng đội của nhau như vậy. Hai cậu thanh niên khi ấy hiểu rằng đi B tức là hành quân vào miền nam, hành quân vượt qua dãy Trường Sơn để vào chiến trường ác liệt nhất lúc bấy giờ. Bố tôi và chú Hào cùng làm lính thông tin trong một tiểu đội, cùng hành quân qua những chặng đường rừng.
Chiến sự trong mùa hè năm 1972 ở Quảng trị diễn ra cực kỳ ác liệt. Tiểu đội thông tin của bố tôi và chú Hào có 12 người đóng tạm tại một chân núi. Năm 1972, Quảng trị là nơi giao tranh ác liệt giữa quân ta và quân Mỹ - Ngụy. Quân Mỹ đưa hàng nghìn máy bay và không quân vào Quảng trị. Nhiệm vụ lính thông tin của bố tôi và các anh em trong tiểu đội là dò sóng rađa để dễ dàng bắt sóng và bắn máy bay địch. Quân Mỹ cũng tìm cách cho máy bay B52 gây nhiễu để phá sóng rađa của ta. Chúng không ngờ rằng, tiểu đội của bố tôi khi ấy có một loại rađa mang tên K860 trang bị cho pháo cao xạ 57 ly có thể phá nhiễu sóng để lần ra “pháo đài bay B52” của chúng. Nhờ đó, các pháo thủ của ta phản kích và tiêu diệt được không ít máy bay địch.
Hôm ấy, tiểu đội Trưởng của bố tôi triệu tập bố tôi và chú Hào đến và bảo:
- Đồng chí Đình, đồng chí Hào nhận lệnh đi chở gạo về cho tiểu đội. Hiện nay, lương thực đã cạn mà tiếp tế chưa có do bên hậu cần cũng đang thiếu người. Tôi lệnh cho 2 đồng chí trong vòng 1 ngày đi nhận và mang gạo về. Nhiệm vụ của 2 đồng chí ở đây, tôi cùng các anh em trong tiểu đội sẽ làm trong lúc các đồng chí vắng mặt.
- Rõ, thưa thủ trưởng
Thế rồi, bố tôi và chú Hào đi lấy gạo. Nhưng có một mất mát lớn lao mà cả bố tôi và chú Hào không ngờ tới đã xảy ra. Trong cái ngày mà bố tôi và chú Hào đi lấy gạo, bọn địch đã dò ngược lại sóng rađa của tiểu đội bố tôi. Chúng đã ném bom định vị. Luồn lách trong rừng giữa tiếng bom đạn ầm ì, đến xẩm tối thì bố tôi và chú Hào cũng trở về đến đơn vị. Trời ơi, đơn vị bây giờ chỉ còn một cảnh tan hoang. Những hố bom sâu lồi lõm, cây đổ, xác đồng đội nằm ngồn ngang. Bố tôi và chú Hào quẳng xe cải tiến chở gạo cùng chạy vào.
- Anh Hưng ơi, Khuê ơi, Thanh ơi, Bắc ơi…..
Không có tiếng trả lời. Không gian chỉ có mùi thuốc súng, mùi bom đạn khét lẹt, mùi đất bị cày lên và…mùi máu. Những mùi này cho biết trận đánh diễn ra chưa lâu.
Bố tôi và chú Hào òa khóc rồi hai anh em cứ vừa khóc vừa chạy đến từng đồng đội xem ai có còn sống không. Những cái lay, những tiếng gọi lạc lõng vang lên mà không có ai đáp trả. Đúng lúc ấy, phía sau một gốc cây đổ, tiếng bố tôi gọi to:
- Hào ơi, Hào ơi….Bắc còn sống đây này. Bắc ơi, Bắc…..
Chú Hào đang bới một đám đất cách đó một quãng lao đến.
- Tay trái của cậu ấy cụt mất rồi, chảy nhiều máu quá
Chú Hào cởi phăng áo buộc cánh tay cầm máu cho chú Bắc. Chiếc áo xanh nhanh chóng đẫm máu giống như chiếc áo đã đẫm máu mà bố tôi vừa cởi ra để băng đầu cho chú Bắc.
Trong trận đánh ấy, tiểu đội của bố tôi đã tử trận 9 người. Chú Bắc bị thương nặng ở đầu, cụt mất cánh tay trái. Chú được quân y đưa ra ngoài Bắc điều trị. Bố tôi và chú Hào được ghép vào một tiểu đội khác và tiếp tục hành quân vào miền nam. Họ lạc mất nhau từ đấy.
Hòa bình lập lại. Bố tôi và chú Hào đã giữ lời hứa năm xưa là trở về quê với các bà mẹ. Bố tôi bị gãy một chân. Chú Hào có một mảnh bom ở trán và vết thương vẫn đau nhức mỗi khi trở trời. Họ vẫn đau đáu đi tìm thông tin về người đồng đội năm xưa. Họ dò hỏi khắp nơi mà vẫn bặt vô âm tín. Hai người lính già thường ngồi bên chén nước chè, thường nhắc về chú Bắc như nhắc về một người thân bị lạc mất. Tất cả kỷ vật mà bố tôi đã có về chú Bắc và những người đồng đội năm xưa là bức ảnh đen trắng chụp chung cả tiểu đội. Bố tôi đã cẩn thận rửa ảnh to cỡ bằng bìa vở. Bố tôi lồng khung kính treo trang trọng giữa nhà. Mẹ tôi và chúng tôi cũng rất trân trọng kỷ vật của bố. Gương mặt xương xương của chú Bắc trong ảnh thân thuộc với tôi đến nỗi tôi có cảm giác như chú là người thân vậy.
Bất giác, chú Hào ngẩng đầu lên và nói:
- Thời gian trôi qua nhanh quá anh nhỉ? Cái Phượng năm nay đã năm 2 đại học rồi đấy.
Rồi chú nhìn tôi hỏi
- Thế hè này, cháu có định đi đâu không?
- Dạ, thưa chú, năm nay cháu đi tình nguyện cùng đoàn thanh niên trường ạ.
- Ồ… cháu tôi giỏi quá. Cháu đi đâu? Làm những gì?
- Cháu đi Tuyên Quang dạy học cho trẻ em vùng cao.
Chú cười rạng rỡ, gật gật cái đầu.
Thế rồi mùa hè năm ấy, tôi cùng đoàn sinh viên tình nguyện của trường lên tận núi Pác Tạ, Tuyên Quang để dạy học và gieo vào lòng những em bé ở đây tình yêu với sách vở. Chúng tôi gom các trẻ em theo độ tuổi và ngày ngày dạy chữ cho các em. Thời gian dạy học cũng rất linh hoạt. Các em bé tầm 5 đến 6 tuổi, mới học chữ cái, thì chúng tôi dạy ban ngày. Các em lớn hơn một chút thường đi làm nương cùng ba mẹ thì chúng tôi sẽ thắp đèn dạy chữ vào buổi tối. Từ ngày có chúng tôi, xóm núi vui hẳn lên với tiếng cười, tiếng nói.
Một hôm, tôi đang dạy văn vào ca buổi tối cho các em nhỏ khoảng 8 đến 9 tuổi thì người tôi lên cơn sốt. Đầu tôi đau, chóng mặt và người hầm hập sốt. Mỗi lúc, tôi càng thấy trong người một khó chịu. Người nóng đấy, rồi lạnh đấy, tôi gục xuống. Đám học trò nháo nhác gọi người lớn. Rất nhanh chóng, người lớn chạy đến. Người sờ trán, người sờ tay, chân. Tiếng lao xao khắp nơi:
- Cái cô giáo sốt rồi
- Cái trạm y tế xa quá, trời tối rồi, làm sao đây?
Bỗng có tiếng một người đàn ông
- Tôi chữa được cho cái cô giáo. Đưa cái cô giáo sang nhà tôi, ngay kia thôi.
Thế là tôi nhanh chóng được đưa đến một nhà trong bản. Tối đó, tôi sốt cao mê man những vẫn nhận biết có một gia đình chăm sóc tôi. Họ đắp lá chờm mát trán, tay, chân cho tôi. Theo lệnh của ông bố, cô con gái của họ dùng nước ấm lau người cho tôi. Bà mẹ sắc thuốc và nấu cháo loãng rồi bón từng thìa nhỏ vào miệng tôi. Sau một đêm mê man, tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã cao hơn con sào. Lúc này, tôi mới nhìn kỹ những người đã chăm sóc tôi hôm qua. Cô con gái nhà ấy trạc tuổi tôi. Cô có mái tóc dài, buộc túm lại phía sau, cô cười bẽn lẽn:
- Cô giáo dạy rồi. Cô giáo đỡ mệt chưa?
Tôi gắng cười đáp lại, nụ cười vẫn… hơi méo. Vừa lúc ấy, bà mẹ bưng bát cháo nóng đang nghi ngút khói đến.
- Cái cô giáo ăn đi này. Hôm qua, cái cô giáo sốt cao lắm đấy.
Tôi nhìn qua bà mẹ với dáng người nhỏ nhắn, gương mặt phúc hậu nhưng ánh nhìn của tôi lại dừng ở người đàn ông cụt tay trái đứng phía sau bà mẹ. Ôi… cái gương mặt ấy sao vừa quen vừa lạ. Gương mặt xương xương đã hằn nhiều nếp nhăn này có cái gì đó lạ mà rất quen. Tôi đã nhìn thấy ở đâu rồi nhỉ, cánh tay trái bị cụt đến khuỷu tay. Một linh cảm ùa đến, không lẽ nào?. Tôi thận trọng:
- Cháu cảm ơn gia đình đã giúp đỡ cháu. Cháu thấy chú quen quen. Chú cho cháu hỏi khí không phải: chú tên là gì, vì sao chú… mất một tay?
Người đàn ông cười vang:
- Cô giáo vẫn còn mệt mà…hỏi dài ghê. Tôi là Bắc. Tôi mất một tay trong trân chiến ở Quảng trị năm 1972.
- Ôi… cháu linh cảm đúng mà. Chú Bắc…
Tôi bật ngồi dậy, cô con gái thảng thốt giữ tôi ngồi lại. Người vẫn mệt, nhưng sao lòng tôi vui thế này:
- Chú Bắc, cháu là con bố Đình. Bố Mai Văn Đình. Bố cháu và chú Hào tìm chú bao năm qua.
Tôi ứa nước mắt nhìn người lính già trước mặt tôi gương mặt run run vì xúc động, hàng nước mắt trên gương mặt già nua chảy ra mà không có một tiếng khóc nào. Chú Bắc bước đến cạnh tôi, lắc vai tôi, giọng nghèn nghẹn
- Anh Đình, anh Hào, con gái anh Đình…
Tôi được gia đình chú chăm sóc mấy ngày cho khỏe hẳn. Rồi chú nhất định sắp ba lô, đòi đoàn trường cho tôi về sớm. Chú nhờ tôi đưa về gặp hai ông bạn chiến đấu năm xưa.
Tôi giữ bí mật nên chỉ nhắn về nhà vỏn vẹn một câu:
“Chủ Nhật con về nhà. Con có việc quan trọng. Bố mẹ làm cơm và mời nhà chú Hào sang ăn nhé”
Ở Yên Khang, bố mẹ tôi đứng ngồi không yên. Chú Hào cũng đi ra, đi vào. Tiếng mẹ tôi:
- Không biết có chuyện gì mà nó cứ úp úp mở mở. Tôi lo lắm.
Chú Hào ghé ngồi xuống bậc thềm ngoài nhà trấn an:
- Chị đừng lo, chắc con bé lần đầu đi công tác xa nên lại muốn được quây quần gia đình đông vui thôi.
Tiếng xe ôm dừng ngoài ngõ. Tiếng bọn trẻ con trong xóm ríu rít hò reo. Tôi vừa chạy vào cổng đã thấy bố tôi đang đứng ngoài sân xem chừng sốt ruột ngóng tôi về. Chú Hào ngồi trên bậc thềm cũng mong cháu chẳng kém. Tôi kêu lên mừng rỡ:
- Bố ơi, chú ơi, xem ai về nhà ta này?
Vừa lúc ấy, chú Bắc bước vào
- Anh Đình, anh Hào. Em Bắc đây.
- Trời ơi, cậu Bắc, cậu Bắc
Chú Hào đứng bật dậy. Bố tôi bước đến. Trong một tích tắc, ba người lính già ôm choàng lấy nhau vừa cười ha hả vừa chảy nước mắt gọi tên nhau. Tôi thấy một sự xúc động rưng rưng dâng lên trong lòng mình. Phía sau, mẹ tôi và vợ chú Hào cũng đang đứng lặng lẽ chấm nước mắt. Ngoài vườn, những cây vải bố tôi mang giống tốt về trồng đang cho những quả ngọt trĩu mọng đỏ tươi. Cuộc đời cũng vậy, cuộc đời thường trả cho ta trái ngọt từ những hạt giống yêu thương.