Truyện ngắn Sơn Tinh Thuỷ Tinh chuyện chưa kể

Thái Trân

Gà con
Tham gia
22/11/21
Bài viết
3
Gạo
0,0
Đời Hùng Vương thứ mười tám có nàng công chúa Mị Nương. Đến tuổi lấy chồng, vua Hùng gọi Mị Nương đến và trao đổi kế hoạch kén rể của mình. Mị Nương nói: “Thưa cha, con gái đến tuổi phải lấy chồng. Con đồng ý, nhưng xin cha cho con thực hiện nguyện vọng của mình trước khi cha kén rể nhé!”. Vua Hùng đồng ý với con gái. Thế là hôm sau, công chúa cùng đoàn tùy tùng của mình giả dạng thành thương buôn, đi ngao du sơn thủy. Hành trình kéo dài một tháng, đến một số vùng trên khắp đất nước.

Từ Phong Châu, công chúa đến ngã ba Bạch Hạc. Tại đây, nàng tình cờ gặp gỡ và kết bạn với Sơn Tinh. Đoàn người dừng lại ở quê nhà Sơn Tinh là vùng núi Tản Viên, vui chơi vài ngày. Sơn Tinh đem lòng yêu mến công chúa.

Rời Ba Vì, công chúa đi sâu vào địa phận Chu Diên (trung tâm đồng bằng sông Hồng ngày nay). Ở đây, nàng gặp gỡ Trần Lang, một chàng trai chuyên hướng dẫn du khách đi tham quan danh lam thắng cảnh. Những ngày ngao du cùng nhau, công chúa bất ngờ với những hiểu biết về đời sống và văn hóa của Trần Lang. Trần Lang lại cảm mến cô gái thông minh, ham học hỏi.

Từ giã Trần Lang, công chúa đi dần về phía biển. Những ngày ở đây, nàng giao lưu và kết bạn với Thủy Tinh. Thủy Tinh cũng đem lòng yêu thương công chúa.

Trong những chàng trai đã gặp gỡ trên hành trình này, công chúa yêu mến nhất Trần Lang. Nên trên đường quay về, nàng gặp lại Trần Lang và ước hẹn: “Thiếp tên thật là Mị Nương, nếu chàng thật lòng thương thiếp thì ngày mùng chín tháng ba tới đây, mong chàng hãy đến thật sớm, mang sính lễ gặp vua cha cầu hôn. Thiếp sẽ chờ chàng!” Rồi Mị Nương tiết lộ cho Trần Lang nội dung sính lễ: một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.

Trần Lang vô cùng vui sướng khi được công chúa đáp lại chân tình của mình. Chàng rốt ráo chuẩn bị sính lễ. Nhưng thời đó, nghề hướng dẫn du lịch thu nhập không cao, tận dụng sự giúp đỡ từ mọi mối quan hệ, chàng chỉ chuẩn bị được một trăm ván cơm nếp và hai trăm nệp bánh chưng. Những cái còn lại không cách nào có được. Thế rồi trước buổi tối trước ngày hẹn, chàng tuyệt vọng ngồi khóc.

Bỗng nhiên, Bụt hiện lên vuốt chòm râu bạc: “Làm sao con khóc?” Trần Lang nghẹn ngào kể lại cớ sự. Bụt cười ha hả và nói: “Thôi, con đừng khóc nữa! Yên tâm đi, có ta đây. Giờ mình ngủ sớm đi!”

Rồi Bụt dỗ Trần Lang ngủ, chàng trai có thêm tia hy vọng, dần cảm thấy an ổn. Nhưng mờ sáng hôm sau, chàng thức dậy, tìm quanh không thấy Bụt đâu, cũng chẳng thấy sính lễ. Trên bàn chỉ có một lá thư và một túi lá nhỏ. Thư Bụt viết:

“Con trai, khi con đọc lá thư này thì ta đã đi xa… Tối qua ta nghe có tiếng khóc từ vùng cao vọng xuống, nên ta phải thực hiện chức trách của mình, nương theo tiếng khóc mà xuất hiện. Nhưng con yên tâm, ta để lại cho con hai cái bánh ú, con hãy cất nó vào ngực áo, khi đến cầu hôn, con cứ đem nó ra và đọc câu thần chú: “Ú” thì phép lạ sẽ xuất hiện.

Tái bút: con phải cất bánh ú vào ngực áo và đừng để nó rơi xuống đất nhé!”

Trần Lang vui mừng mang hai cái bánh ú rời nhà thẳng hướng Phong Châu mà đi. Trên đường, gương mặt chàng trai hớn hở rạng ngời, đôi mắt cười tít mơ nghĩ về tương lai hài hòa hạnh phúc bên người mình yêu. Đột nhiên, chàng vấp phải rễ cây, té cắm mặt xuống đất, hai cái bánh ú từ ngực bay vèo ra rơi xuống đất. Vì miệng mũi đột ngột tiếp đất, Trần Lang chỉ kịp kêu lên tiếng “Ứ” tắc nghẹn thay vì “Ú” như Bụt dạy. Lời vừa ra không kịp nuốt lại, bỗng mặt đất rung chuyển ầm ầm, chỗ hai cái bánh ú vừa rơi xuống, bùm bùm mọc lên hai ngọn núi song song, chặn mất lối đi phía trước.

Đến lúc này, Trần Lang hoàn toàn mất đi hy vọng. Đau đớn nghẹn ngào thốt lên: “Núi đã đôi, giờ anh mất em!”, rồi thất thiểu quay về, lưu lạc đến phương Nam lập nghiệp. Chỗ hai cánh núi mọc lên nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Hai ngọn núi ấy, người dân gọi là núi Đôi, nơi về sau nổi tiếng với bài Núi Đôi của nhà thơ Vũ Cao:

“...Anh ngước nhìn lên hai dốc núi

Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi, mà anh mất em!...”

Sau đó, việc kén rễ và cầu hôn vẫn diễn ra, Sơn Tinh đến trước, rước Mị Nương về núi, Thủy Tinh đến sau, không cưới được vợ, đùng đùng nổi giận…

Lại nói về ông Bụt. Đêm ấy, ông theo tiếng khóc hiện ra và hỏi: “Làm sao con khóc?” Trả lời Bụt là tiếng oa oa của trẻ nhỏ và tiếng nghẹn ngào của người cha: “Bụt ơi, vợ con vốn là tiên nữ trên trời, nàng thương tiếng kèn lá của con mà chúng con nên chồng vợ. Mấy hôm trước nàng bị thiên đình bắt về. Con con khát sữa đòi mẹ mà con không biết làm sao!”

Bụt vuốt râu cười ha hả: “Thôi, con đừng khóc nữa, có ta đây! Con hãy cầm hai cái bánh ú này để trong ngực áo, khi con con đói, con cứ lấy ra và đọc thần chú “Ú”, phép màu sẽ xuất hiện!” Bụt đưa cho người cha hai cái bánh ú rồi biến mất sau câu “Ta đi đây!”

Từ lúc đó, mỗi khi đứa bé khóc, người cha lấy bánh ú ra và đọc thần chú, dòng sữa ngọt ngào từ bánh ú chảy ra, nuôi sống đứa trẻ mất mẹ đó. Một hôm, như thường lệ, người cha đem bánh ú ra cho con, chưa kịp đọc thần chú, đứa bé đã gạt tay cha, làm hai cái bánh ú rơi xuống đất: “Ứ, con lớn rồi, không uống sữa nữa đâu, con muốn ăn cơ!”

Hai cái bánh ú vừa tiếp đất, chợt nghe tiếng “Ứ”, cũng bỗng nhiên bùm bùm hai tiếng, biến thành đôi ngọn núi song song. Chỗ hai ngọn núi ấy, ngày nay cũng được gọi là núi Đôi, ở huyện Quản Bạ, Hà Giang.

Sau vụ này, ông Bụt thấy mô hình “hai cái bánh ú và câu thần chú Ú” thật có chỗ sơ hở, nên ông thay đổi lại. Cũng từ đó về sau, nước ta không còn xuất hiện thêm cụm núi đôi nào nữa.
Hết
 
Chỉnh sửa lần cuối:

_hONG_aHN_

Gà cận
Tham gia
26/10/21
Bài viết
308
Gạo
24,0
Re: Sơn Tinh Thuỷ Tinh chuyện chưa kể
Bạn sửa lại tên tiêu đề cho đúng với quy định của Gác nhé. Nếu là truyện ngắn thì tiêu đề là "Sơn Tinh Thuỷ Tinh chuyện chưa kể", còn nếu là truyện dài thì nên là "Sơn Tinh Thuỷ Tinh chuyện chưa kể - Cập nhật/Hoàn thành/Tạm dừng - Thái Trân".
 
Bên trên