Kỳ ảo Trăng Trôi Về Đâu - cập nhật - W. J. E. CATAN

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
Giới thiệu tiểu thuyết Phiêu lưu kỳ ảo: Trăng Trôi Về Đâu - W. J. E. CATAN
Trang troi ve dau 600.png


Tên truyện: Trăng Trôi Về Đâu

Tác giả: W. J. E. CATAN

Thể loại: Phiêu lưu, kỳ ảo, trinh thám, lãng mạn, phương Tây

Giới thiệu truyện:
Bạn có tin vào sự tồn tại của những người dẫn lối linh hồn? Hãy cùng theo chân Ann khám phá một thế giới mới sau khi qua đời trong một vụ án mạng. Đó là một thế giới lạc hậu, bạo lực, đói nghèo, và có phần không-theo-kịp-thời-đại so với thế giới trước khi em mất.

Ở nơi hoàn toàn xa lạ, em phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức: không hiểu ngôn ngữ, thiếu cái ăn, đời sống vật chất thiếu thốn. Điều khó khăn nhất là em phải sống trong hình hài một đứa bé gái nhỏ xíu với khuyết tật trên cơ thể. Người duy nhất em có thể nương tựa là cậu bé chăn cừu đã cưu mang lấy mình.

Trong hành trình khám phá vương quốc và tìm cách trở về thế giới của mình, em đã gặp chàng hiệp sĩ khiến em đem lòng ngưỡng mộ. Tình cảm ấy cứ âm thầm như thế, mong ngóng một ngày có thể kết trái đơm hoa.

Nhưng đứa trẻ mà thể xác của nó đang bị em chiếm giữ, lại là trung tâm của vòng xoáy tranh giành quyền lực chính trị ở thế giới này. Những ngày yên ả còn tồn tại được đến bao giờ? Khi các bí mật dần được hé lộ, Ann phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn và trách nhiệm không thể tưởng tượng nổi. Liệu em có thể trở về, ngay cả khi phải hy sinh sự tự do, máu và nước mắt của bản thân mình?
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
1. Khởi đầu
92575055_original.gif
93781203_original.gif
52217538_original.gif
14214c82_original.gif
62713a87_original.gif
e22f6937_original.gif
805a9366_original.png
5b9bdef7_original.gif
81e47d23_original.gif

1. KHỞI ĐẦU

Đẹp quá! Tôi thốt lên
Có lẽ ai đó đang ôm tôi.

Thật khó để cảm nhận được rõ hành động ấy là gì vì mọi giác quan của tôi hiện giờ đã hoàn toàn tê liệt. Trước mắt tôi là màn đêm, hoặc tôi cho là thế, vì lần cuối cùng tôi còn nhận thức được mình đã chết, thế giới mà tôi thấy chỉ hiện hữu một màu đen thăm thẳm, trống rỗng đến tột cùng. Vậy thì nhìn thấy và không nhìn thấy có khác gì nhau? Tôi chỉ là một mảnh linh thể bơ vơ trôi dạt trong một không gian cô độc, không thanh, không hương, không ảnh, không tồn tại bất cứ điều gì. Ở miền câm lặng ấy, tôi đã để mặc nỗi thống khổ dày xéo tâm can, chẳng thể làm gì ngoài cuộn tròn trong nỗi đớn đau mà khóc nghẹn. Nếu cơ thể tôi còn tồn tại, hẳn là tôi đã vùi đầu vào đôi cánh tay và chui vào một góc, như cái cách tôi vẫn nhốt mình trong tủ áo thuở thiếu thời. Cơ thể tôi đã trôi đi đâu, hay nó vẫn còn ở đó, vẫn gắn liền với linh hồn này nhưng lại chẳng còn thuộc về tôi nữa? Tôi đã nghĩ nhiều về điều đó.

Nhưng khi thời gian chậm chạp trôi qua, khi những hình ảnh trong quá khứ cứ liên tục tái hiện trong ký ức tôi vô vạn lần như một cuốn băng không bao giờ kết thúc, đến một thời điểm, tôi nhận ra có tiếc nuối và hối hận cũng chẳng để làm gì. Tất cả đã không còn quan trọng. Điều đã xảy ra trong quá khứ chẳng thể nào thay đổi được. Tôi đã chết. Việc một người chết có thể làm chỉ là nhắm mắt xuôi tay, thế thôi.

Một linh hồn hoàn toàn mất đi đợi chờ và hy vọng, nó đã chọn chôn vùi bản thân trong một giấc ngủ vĩnh hằng.

Nhưng khoảnh khắc người đó bao bọc lấy tôi, tôi biết mình đã được đánh thức sau một cơn mê say đã kéo dài gần như vô tận.

Hơi nóng từ dáng hình to lớn truyền vào linh hồn tôi, bế tôi băng qua màn đêm, lao vào một vùng thiên hà bao la ngập tràn những hạt pha lê lung linh giữa không trung huyền ảo. Liệu đã đến mùa thu hoạch trên cánh đồng rồi chăng? Vì những hạt giống mà thánh thần đã gieo giữa vũ trụ rộng lớn cô đơn đã đâm hoa kết quả thành một cảnh tượng tráng lệ phi thường trên cánh đồng bạt ngàn tinh vân và thiên thể. Khí và bụi vũ trụ cuồn cuộn quấn vào nhau, tạo thành những bụi liên sao hấp thụ ánh sáng từ những vì tinh tú, như thể pha trộn giữa sức mạnh tai ương thảm khốc và phép màu rực rỡ diệu kỳ.

"Đẹp quá!" Tôi thốt lên. Thật khó để miêu tả vẻ đẹp ấy bằng bất cứ mỹ từ nào. Tôi chỉ muốn giơ tay chạm vào chúng, nắm lấy chúng trong lòng bàn tay, để chúng len lỏi vào mọi ngóc ngách linh hồn mình, cho đến khi tôi chầm chậm tan ra, vĩnh viễn chỉ còn là một phần của vũ trụ.

Như thể hiểu điều tôi đang nghĩ, bóng hình đang bế tôi chợt bật cười.

"Chúng ta đi đâu vậy ạ?" Tôi hỏi.

"Một nơi để em có thể sống." Người ấy đáp lời.

Một nơi để tôi có thể sống? Thế gian này còn tồn tại nơi ấy sao?

Tôi khẽ cười, một nụ cười cay đắng.

Rồi tôi nhìn người.

Bóng hình ấy trong veo như sương, dáng vấp như một con gấu to khổng lồ đang đứng bằng hai chân sau, với đôi tai tròn tròn xinh xắn, chiếc mõm dài, và bộ móng vuốt thô kệch. Tôi chưa từng trông thấy gấu. Nhưng so với những gì tôi biết về loài gấu, vị thần gấu này trông hiền lành hơn nhiều, lông rất mềm, cơ thể rất ấm áp. Hẳn ngài là hiện thân của chòm Đại Hùng [1], đến để đưa tiễn linh hồn lang thang này trên quãng đường ngắn ngủi còn lại. Thế cũng tốt thôi. Một chút hơi ấm này cũng đã tiếp cho tôi dũng khí, để khi tan biến tôi không hoá thành một hạt bụi lạnh lẽo cô độc cõi hư vô.

"Vâng, tùy ngài." Tôi ngoan ngoãn đáp.

Chúng tôi tiếp tục lao băng băng giữa vũ trụ bao la, rất lâu, rất lâu, chẳng ai nói với ai lời nào nữa.

Thỉnh thoảng tôi lại ngủ thiếp đi, và trong cõi mơ màng tôi thấy không gian xung quanh hoàn toàn biến dạng, cùng với đó là những tiếng vun vút như có gió lướt qua. Dường như tôi đã được chứng kiến hình dạng vật lý của âm thanh khi di chuyển nhanh, hệt như trong những bộ phim khoa học viễn tưởng.

Càng rời xa hệ mặt trời, cảnh vật càng rực rỡ tráng lệ. Mãi rất lâu sau đó, khi rời khỏi Ngân Hà mang hình dạng của một chiếc đĩa CD tròn dẹt, chúng tôi lại bước vào một vùng không gian tối, nơi không tồn tại bất cứ thiên hà nào [2].

Nhờ thiếu ánh sáng, tôi mới phát hiện ra nơi chúng tôi đã đi qua rơi ra thứ gì đó vàng vàng, nhỏ như bụi và lấp lánh như kim tuyến. Bụi sáng ấy không tan đi mà lưu lại giữa không trung, vẽ nên một con đường ảo diệu uốn khúc nổi bần bật giữa không gian đen tuyền. Cuối con đường ấy, trông như có một chú hươu ánh bạc đang nhâm nhi những hạt bụi vàng. Cặp sừng của nó rất oai phong, nhiều nhánh chĩa ra như tán cây, kích thước to hơn hẳn thân hình của nó. Không biết nó đã đi theo chúng tôi từ lúc nào. Trông nó có vẻ rất đói ăn. Thế là tôi vỗ vai ngài Gấu, thỏ thẻ với ngài.

"Ngài ơi, xin ngài dừng chân một chút được không?"

"Sao vậy? Em mệt à?"

"Không phải thưa ngài. Ngài nhìn đằng kia xem, chú hươu kia cứ đi theo chúng ta mãi. Ngài tiến một bước nó lại tiến một bước, mãi chẳng thể đuổi kịp chúng ta. Giữa hư không thế này mà chu du lẻ loi như thế thì buồn lắm. Chi bằng chúng ta đợi nó đến cùng đi. Có thêm một người bạn đồng hành sẽ vui hơn nhiều, ngài có nghĩ thế không?"

"Ai? Nó ư?" Ngài Gấu vừa nhìn về phía con hươu, vừa bật cười thành tiếng. "Đấy là em trai ta. Nó chỉ đang làm việc của mình thôi, em không phải lo lắng đâu."

"Nhưng..." tôi định thuyết phục ngài ấy thêm một chút nhưng lại thôi. Ngài ấy đã nói chú hươu ấy đang làm việc, nếu cố nói mãi liệu ngài có giận không, có mắng tôi không. Tôi đành im lặng chẳng dám nêu ý kiến của mình nữa.

Có lẽ đã cảm nhận được suy nghĩ của tôi, ngài Gấu lặng lẽ đáp xuống một thiên thạch cằn cõi, đặt tôi xuống nhưng vẫn ngồi trong lòng ngài, cùng tôi ngóng trông chú hươu kỳ lạ đang ở tít xa kia.

"Ngài có nghĩ chúng ta đang bốc cháy hệt như ngôi sao băng không?" tôi hỏi, "Thứ bụi vàng kia giống như tàn tích rơi ra từ ngôi sao khi nó bay vào quỹ đạo trái đất vậy."

"Không phải đâu. Đó là những nỗi muộn phiền em đã rũ bỏ khỏi linh hồn mình." Ngài Gấu đáp.

"Những nỗi muộn phiền của con nhiều như thế kia ư? Chẳng trách mà khi còn sống con đã chẳng thế nào chịu đựng nổi." Giờ đây khi đã ngồi yên một chỗ, tôi vẫn trông thấy những hạt bụi sáng không ngừng rơi ra, trôi lửng lờ, cuốn theo mọi tàn dư của một kiếp sống tù đày bạt bẽo. "Vậy kiếp sau con có thể sống một cuộc đời hạnh phúc đúng không?" Tôi hỏi nửa đùa nửa thật, vì đã đoán được phần nào kết cục của mình.

Nhưng câu trả lời của ngài Gấu hoàn toàn không hề như dự đoán.

"Ta sẽ cố để em được hạnh phúc."

Tôi quay người ngẩng đầu nhìn vào mắt ngài. Đôi mắt ngài rất hiền, rất chân thành, chẳng có vẻ gì hung tợn, cũng chẳng giống như đang nói ngọt để dỗ dành một đứa trẻ con. Tôi không hiểu ý ngài là gì. Liệu rằng ngài sẽ sắp xếp số mệnh cho tôi? Ngài là thần Đại Hùng, hẳn là ngài có thể an bài vận kiếp con người bằng cách kết nối những vì sao.

"Vậy ngài có thể xem xét lấy đi của con cảm giác đau buồn và sợ hãi trước khi ban cho con cơ hội được sống thêm lần nữa không? Nếu cứ mãi lo lắng khổ sở như kiếp trước thì con sẽ không bao giờ hạnh phúc được."

Ngài khẽ xoa đầu tôi, mỉm cười.

"Một con người không biết buồn, không biết sợ, chỉ là một kẻ khiếm khuyết cảm xúc mà thôi. Chính sự khiếm khuyết cảm xúc sẽ biến em trở nên tham lam, khoét rỗng tâm hồn em, lòng tham vô đáy ấy sẽ không bao giờ có thể lấp đầy. Ta không muốn em trở nên như thế, và ta biết khi em nhớ ra mình đã làm gì khi kết thúc một kiếp người, em sẽ lại hối hận và dằn vặt khôn nguôi."

"Với cả, ta không phải một vị thần, Ann ạ." Ngài tiếp lời. "Ta chỉ là một linh hồn, một linh hồn lạc lối giống em. Việc duy nhất ta có thể làm là đưa em về thế giới của ta, để em được tự do sống, tự do làm những gì vẫn còn dang dở. Ở nơi đó, ta sẽ cố gắng hết sức bảo vệ em, sẽ không để bất cứ điều gì làm tổn hại đến em. Vậy nên em cứ yên tâm và đừng lo lắng gì hết."

Nếu ngài Gấu là một người đàn ông, hẳn là tôi đã hoàn toàn đổ gục. Nhưng tôi biết thừa thứ tình cảm ấy không phải là tình yêu. Một kẻ như tôi làm gì xứng đáng để được yêu cơ chứ. Ngài chỉ ban phát cho tôi sự tử tế luôn có ở một vị thần mà thôi. Cho dù ngài bảo ngài không phải thần, nhưng đối với tôi ngài chính là thần hộ mệnh sẽ dẫn lối cho tôi đến một thế giới mới, nơi mà ngài hứa sẽ cố mang hạnh phúc đến cho tôi.

Nhẹ nhàng và đằm thắm, tôi đặt một nụ hôn lên bàn tay to lớn của ngài, như để chứng minh cho niềm tin, lòng trung thành, và nỗi biết ơn vô tận tôi sẽ khắc sâu mãi mãi trong hồi ức.

Ngài Gấu lại xoa đầu tôi, ôm tôi vào lòng, đặt lên trán tôi một nụ hôn đáp lại.

Chú hươu đã tiến đến rất gần chỗ chúng tôi. Ngài Gấu vẫy tay với nó, la lớn.

"Azur! Nhanh đến đây!"

Cố gắng chén nốt chỗ bụi sáng còn sót lại, cuối cùng chú hươu cũng đã đứng trước mặt chúng tôi. Nếu tính luôn cả cặp sừng, trông nó to cao bệ vệ hệt như ngài Gấu, với ánh nhìn uy nghiêm và điệu bộ vô cùng lịch thiệp. Có lẽ đây cũng là một vị thần đến từ chòm sao Bắc Lộc [3].

"Huynh trưởng."

Ngài Hươu khuỵu hai chân trước, kính cần cúi đầu như một bậc trung thần. Rồi ngài ngẩng đầu lên, nhìn tôi một lát trước khi hỏi ngài Gấu.

"Có chuyện gì vậy huynh trưởng? Sao huynh không tiếp tục đi?"

"Con bé đang đợi em để chúng ta có thể cùng đi." Ngài Gấu đáp.

"Em không cần làm thế." Ngài Hươu quay sang nói với tôi.

Đôi mắt ngài nhìn chằm chằm vào tôi, như thể đọc vị được tất cả cảm xúc trong tôi. Tôi hơi sợ hãi lùi vài bước, nép mình đằng sau cánh tay khổng lồ của ngài Gấu. Ngài Hươu không hung tợn, nhưng ánh mắt thấu rõ sự đời của ngài khiến tôi không thoải mái. Nếu ngài Hươu là một con người, hẳn ngài phải là một công tố viên, người có thể tìm ra mọi lỗ hỏng trong tôi rồi đưa ra hình phạt trừng trị thích đáng.

"Em sợ ta à?" Ngài nhướng một bên mắt tỏ vẻ hoài nghi. "Ta chỉ định nói rằng ta và huynh trưởng có nhiệm vụ riêng. Huynh ấy chăm sóc em, còn ta thu thập những 'muộn phiền' của em. Vậy nên cứ đi đi và chẳng cần để ý đến ta làm gì."

"Thôi nào," ngài Gấu nói, "tất cả cùng đi chung cho không khí sôi động lên tí. Hành quân cũng phải đánh trống thì binh sĩ mới có động lực chứ."

"May là chúng ta có hai người. Lần trước bà già vừa đi vừa nhặt làm chúng ta mất gần mười triệu năm ánh sáng mới đến được cái hành tinh chết ấy."

"Mười triệu năm cơ ạ?" tôi hốt hoảng, "chúng ta đã mất đến mười triệu năm chỉ để bay trong vũ trụ thôi ạ?"

"Không phải nói em. Azur đang nói đến lần trước khi bọn ta chết và được một linh hồn khác đưa đi. Còn quãng đường em đã đi qua chỉ hơn mười vạn năm ánh sáng một chút thôi."

"Mười vạn năm... mười vạn năm..." Tôi vừa nhẩm đếm trong đầu vừa run lập cập. Ngần ấy thời gian đã trôi qua rồi sao? Ngần ấy thời gian tôi chẳng làm gì mà chỉ lang thang không mục đích thế này sao?

Ngài Gấu vội trấn an. "Đó là cách nói của loài người ở hành tinh của em thôi. Bọn ta có cách tính khác và phương thức di chuyển cũng hoàn toàn khác. Chúng ta là linh hồn, không phải là ánh sáng."

Vẫn còn rất nhiều điều tôi muốn hỏi, nhưng ngài Gấu bảo chúng tôi nên lên đường ngay nếu không sẽ trễ giờ "ký khế ước" gì đó. Vậy là ngài lại bế tôi lên, ôm tôi trong vòng tay ngài, cuộc hành trình xuyên vũ trụ lại xuất phát.

Trên đường đi, ngài Gấu đã hỏi tôi rất nhiều, đa phần là về cuộc sống tôi muốn trải qua sau này:

"Con muốn có một mảnh đất lớn thiệt lớn để làm vườn và cất một căn nhà ngoại ô xinh xắn."

"Con muốn có anh trai, một người có thể tẩn cho bọn bắt nạt con một trận nên thân và nhường con tất cả phần bánh sô cô la mà anh ấy có."

"Con muốn trở thành một nhà bác học, một nhân vật vĩ đại, một bậc vĩ nhân mà ai ai cũng phải ngước nhìn và tôn trọng."

"Con muốn thế giới không còn chiến tranh, không còn đói nghèo, trẻ em được đến trường, phụ nữ được đối xử bình đẳng. Và nếu con có thể góp phần tạo nên điều ấy thì tốt quá. Con không muốn thấy người ta phải chết để thoả mãn sự ích kỷ tàn độc của kẻ khác."

"Con muốn nhận thật nhiều con nuôi, cả vật nuôi nữa, như chó mèo chẳng hạn. Nhưng để làm được như thế thì phải cần rất nhiều tiền. Vậy thì con cũng muốn được trở nên giàu có nữa. Nuôi người ta mà không chăm sóc được cho người ta là vô trách nhiệm lắm."

"Mà ngài đừng quên là con đã nói con không muốn có quá nhiều cảm xúc lo lắng và sợ hãi đấy nhé."

...

Trong suốt chuyến du hành xuyên vũ trụ ấy, tôi đã luôn trong trạng thái lúc tỉnh lúc mơ. Khi thức tôi nói rất nhiều, khi mơ tôi cũng mơ thấy rằng mình đang nói. Tôi thích cả ngài Gấu và ngài Hươu (ít hơn ngài Gấu một chút). Vậy nên khi ngài Gấu bảo rằng đã đến đích, và ngài sắp sửa thả tôi xuống thế giới của ngài, tôi đã khóc lóc mè nheo ngài đừng để tôi đi. Ngài dỗ dành tôi, lau nước mắt cho tôi, còn ngài Hươu thì căn dặn tôi:

"Phải cẩn thận lửa đấy nhé. Nếu có cháy lớn thì tuyệt đối tránh xa không được dây dưa vào! Sẽ có nhiều vấn đề em phải tự mình giải quyết, nhưng mọi chuyện đều có quy luật của nó. Nếu em tìm ra quy luật đó thì chẳng thứ gì có thể làm hại đến em."

Ngài Gấu vuốt má tôi. "Bọn ta sẽ ở rất gần em thôi. Cho dù không trông thấy thì em vẫn phải tin rằng bọn ta không bao giờ bỏ mặc em. Hiểu chưa?"

"Hiểu rồi ạ." Tôi mếu máo. "Tạm biệt ngài Gấu! Tạm biệt ngài Hươu!"

"Thôi em đi đi."

Nói rồi ngài Gấu buông tay tôi, thả rơi tôi từ trên bầu trời cao xanh thoáng đãng.

b1ab0c45dd0b33a4d73804e206e276eacc98b2a6.gifv
b1ab0c45dd0b33a4d73804e206e276eacc98b2a6.gifv
b1ab0c45dd0b33a4d73804e206e276eacc98b2a6.gifv


[1] Chòm sao Đại Hùng (Ursa Major) hay còn gọi là chòm sao Gấu Lớn, một trong những chòm sao trên bầu trời phương Bắc, được ghi nhận trong rất nhiều sử thi thần thoại, tiêu biểu nhất là thần thoại Hy Lạp.

[2] Tìm hiểu thêm về "Khoảng trống vũ trụ" (Cosmic void).

[3] Chòm sao Bắc Lộc (Rangifer), không có tên hán việt chính thức, đã bị lãng quên và loại bỏ khỏi danh sách 88 chòm sao chính thức của Liên đoàn Thiên văn Quốc tế (IAU).
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
2. Có lẽ chăng là mơ?
e16487f0_original.gif
8bf61b6a_original.gif
b2698cc1_original.gif
036de405_original.gif
c5ffde6e_original.gif
de77ed42_original.gif
7781f2a7_original.gif
b445d750_original.gif
7261dcb5_original.gif

17bf348c361f3513717858049195.jpg

2. CÓ LẼ CHĂNG LÀ MƠ?


Tôi nghĩ mình đã mơ thấy một thảo nguyên bao la dưới bầu trời hoàng hôn rực rỡ.

Mặt trời đang dần lặn đi phía bên kia ngọn đồi, tỏa ra sắc hồng ngọt ngào hòa quyện cùng bầu trời trong xanh như một chiếc kẹo bông khổng lồ. Ánh chiều tà dương hắt lên dòng suối nhỏ đang chảy róc rách về phía xa xa, trông như thể ai đó đánh rơi hàng vạn tinh thể kim cương lấp lánh dưới đáy nước.

Đằng kia trên trải đất cao nhất, nơi có độc một cây sồi to sừng sững giữa trảng cỏ tươi um, có thằng bé chăn cừu đầu đội mũ rơm đang thổi một giai điệu du dương bằng một dụng cụ gì đó tôi không rõ. Rồi có một con trong đàn cừu đang nhấm nháp từng đụm cỏ gần đó ngẩng đầu nhìn tôi.

Nó cứ thế nhìn tôi mải miết, như thể thứ giai điệu trong veo đang rót vào tai nó mật ngọt của một bản tình ca, khiến nó chỉ nhìn thấy tôi và mỗi tôi mà thôi. Có lẽ tôi là một nàng cừu xinh đẹp với bộ lông dày trắng muốt. Có lẽ nếu tôi lượn quanh một vòng, những con cừu khác đều sẽ trầm trồ nhìn tôi và ao ước được tròn xoe trắng nõn như tôi.

Tôi muốn tiến đến gần để nhìn rõ chúng hơn, nhưng tôi chợt nhận ra rằng mình không thể. Tôi không thể trông thấy bản thân mình, cũng chẳng thể cảm nhận được sự hiện diện của các bó cơ. Cơ thể tôi là một tồn tại hư không còn tâm hồn thì nhẹ bẫng. Hẳn là tôi đang mơ. Ừ, hẳn là thế.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy hơi chao đảo rồi khựng lại. Có lẽ một cơn gió thổi qua đã đẩy đưa linh hồn tôi trôi dạt từ phía trên cao xuống một vũng lầy ngay bờ suối rồi vương lại đó. Từ đây tôi có thể thấy rõ thời gian đang chầm chậm trôi đi khi vật thể tỏa ra thứ ánh sáng dịu dàng ấm áp trên cao kia dần khuất núi.

Thằng bé chăn cừu kết thúc buổi tấu nhạc bằng một nốt sol ngân dài. Rồi nó cất cái kèn vào túi áo (tôi cho là thế), bắt đầu lùa đàn cừu về nhà trước khi trời tắt nắng. Tiếng nó quát những con chạy nhong bị át hẳn đi bởi những tiếng kêu be be như thể trêu chọc của đàn cừu. Đến nỗi thằng nhỏ phải móc cây gậy của nó vào cổ con cừu to nhất đang cứng đầu gặm nốt chỗ cỏ còn lại mà lôi đi.

Giữa cái đống lộn xộn mà các anh chị em gây ra, con cừu với ánh nhìn si mê vẫn đứng đó nhìn tôi chăm chăm. Bất thình lình, nó tách khỏi đàn chạy về phía tôi, khiến thằng nhóc chăn cừu mệt bở hơi tai bất lực đuổi theo một quãng chắc phải vài chục mét.

Hai chiếc bóng đen thui méo xệt rượt đuổi nhau trên đồng cỏ nhuốm hồng mênh mông trông hệt như cảnh chàng hoàng tử tiến vào hang ổ rồng giải cứu công chúa trong truyện cổ tích.

Hoàng tử mão rơm tung chiếc móc phép thuật để bắt con cừu rồng, nhưng một cú tấn công đơn giản nào có thể hạ gục được nó. Ngược lại con quái kéo lôi hoàng tử xệnh xệch như một thứ chiến lợi phẩm dâng lên nàng công chúa xinh đẹp bị nó nhốt dưới thủy cung.

Khi cuộc chiến giằng co gần đến hồi kết thúc bên bờ căn ngục, hoàng tử thở không ra hơi túm chặt lấy cổ con cừu rồng rồi vung tay đấm nó bôm bốp. Con quái cũng không vừa, nó hất bay chiếc mão rơm của hoàng tử xuống vũng lầy rồi vừa lách mình trốn thoát vừa cười khoái trá.

Hoàng tử giận tím mặt. Chàng dùng những lời lẽ thô tục nặng nề nhất đã học được ở chốn dân gian để rủa xả con quái mặt mày khinh khỉnh kia. Rồi chàng tức tối lội xuống thủy cung, cố tìm xem chiếc mão rơm trị giá ba củ khoai tây đã trôi đi đâu mất rồi.

Tôi sẽ không bao giờ quên được biểu cảm kinh bạt khiếp vía của thằng bé đó khi nó vươn tay nhặt lấy chiếc mũ và nhìn thấy tôi. Nó ngã uỵch xuống vũng lầy, mặt mày trắng bệch, hai mắt mở trân trân, miệng há ra cứng đờ. Mãi nó mới có thể lê lếch cái thân mềm nhũn lên bờ, khiếp đảm đến mức bỏ lại đàn cừu mà chạy mất tăm. Khi nó đi rồi, chẳng mấy chốc mà bóng tối của buổi chạng vạng bắt đầu xâm lấn nơi bình nguyên yên ả.

Trong cái bóng tối lạnh lẽo của màn đêm, tôi chìm sâu vào bầu không khí rả rích tiếng côn trùng, tiếng nước chảy và đàn cừu be be vô chủ. Mùi của thảo nguyên tản mạn trong đêm gió nhẹ làm dậy lên mùi đất ẩm nồng mang theo hương hoa dại và mùi gỗ mục. Cánh cửa tâm trí tôi dường như được bật mở, và những ký ức đẹp đẽ thuở xa xưa lại tràn về.

Căn hộ ở khu tập thể cũ, mùi mốc trên những bức tường chi chít hình vẽ trẻ con, hoa mộc lan rơi trắng xóa cả sân bóng vào cuối mùa xuân, tiếng lạo xạo dưới chân khi bước đi trên những con đường lát sỏi nhỏ xíu quanh co.


Một cơn choáng váng đập vào đầu kéo tôi ra khỏi cơn ảo mộng. Khối óc tôi quay cuồng còn cơ thể thì rát bỏng như bị xát muối vào từng thớ thịt trên người. Mắt tôi nặng trĩu như thể đã nhắm chặt từ lâu, phải khó khăn lắm tôi mới có thể kéo mở đôi mi. Một thứ ánh sáng chói lóa bất chợt tràn vào nhãn quang khiến tôi đau đớn.

Khi đã lấy lại được tầm nhìn sau nhiều cái chớp mắt, ngay trước tôi là một mái nhà tranh xập xệ. Rồi khuôn mặt một cụ ông lớn tuổi với chòm râu dài xoăn tít hiện ra. Ông lớn tiếng la lên, rồi một ai đó khác tiến đến gần.

Chú bé chăn cừu quen thuộc bước đến bên ông, nói gì đó với ông bằng thứ ngôn ngữ tôi không hiểu. Chỉ thấy ông lắc lắc cái đầu làm chòm râu ông đung đưa qua lại trông thật buồn cười. Rồi thằng bé cố hỏi tôi điều gì đó. Tôi định nói rằng tôi không hiểu, nhưng tôi chẳng thể nào mở được môi mình, thay vào đó là cái tiếng ư ư đầy khó chịu phát ra từ cuống họng dội thẳng lên ống tai.

Cuộc trò chuyện kiểu đó cứ lặp đi lặp lại, cuối cùng thằng bé cũng dừng lại rồi lắc đầu đi mất. Có lẽ nó đi theo ông cụ ra ngoài bởi tôi nghe thấy tiếng cót két của một cái bản lề đã cũ và tiếng đóng cửa khẽ khàng.

Một lúc sau, nó quay lại cầm cái bát trên tay, cẩn thận bón cho tôi từng thìa một. Cái thứ chất lỏng đặc sệt không vị ấy ban đầu trào hẳn ra ngoài, nhưng rồi cũng trôi xuống bụng tôi, khiến cơ thể tôi ấm áp hẳn ra. Toàn thân tôi dần trở nên thư giản hơn và những cơn đau cũng biến mất, kéo theo đó là cơn buồn ngủ không sao cưỡng lại.

Cho tôi ăn xong, thằng bé vắt chiếc khăn ẩm lau mặt cho tôi, rồi ngân nga một khúc đồng dao. Giọng hát trẻ con ấy cứ xa dần, xa dần, cho đến khi tôi tỉnh giấc, thằng bé đã rời khỏi tự lúc nào.

Ngày lại ngày cứ thế trôi qua, tôi cứ nằm yên đó, bất động vì cả cơ thể đều quá bóng rát đớn đau. Nhưng thật may vì tôi không cần phải một mình chịu đựng những cơn đau hành hạ như thiêu như đốt kéo dài. Vào một buổi sáng khi vừa thức giấc, đôi mắt to tròn của bé cún nhỏ xíu cứ rúc đầu vào lòng tôi khiến cho sương giá của buổi sáng tinh mơ chẳng còn quan trọng nữa. Bé con này xuất hiện vào chiều hôm qua khi trời đổ cơn mưa rào. Thằng nhóc chăn cừu nhét nó vào trong áo rồi chạy ào về trong tình trạng ướt sũng. Căn chồi đất đơn sơ chẳng dư nỗi một tấm khăn lành để dùng trong những trường hợp cấp bách thế này, thành ra thằng nhóc phải lấy tấm chăn rách của nó thay cho khăn lau.

Bộ dạng hai đứa nó ngồi co ro bên đống lửa trông đến tội, nên tôi ra hiệu bảo cả hai đến nằm cùng tôi, nhưng thằng nhóc lắc đầu nói gì đó vẻ không đồng ý.

"Fig!" Tôi gọi nó bằng cái từ mà ông bác sĩ già (tôi cho là vậy) thường hay gọi.

Thật ra nhờ thứ súp thuốc sền sệt của ông mà tình hình tôi đã khá hơn nhiều. Cổ họng tôi chẳng còn đau nữa và tôi đã liến thoắng liền tù tì một mạch để hỏi ông xem đây là đâu và làm sao mà tôi có mặt ở đây. Nhưng khổ nổi ông bác sĩ và thằng Fig chẳng hiểu gì, nên tôi đã phải cố sức cử động tay để diễn tả bằng ngôn ngữ cơ thể.

Theo trí tưởng tượng của tôi thì hẳn là tôi đã trải qua một cơn đột quỵ làm hỏng nhóm dây thần kinh vận động nào đó, bởi tôi giờ đây giống hệt một người đang phải tập vật lý trị liệu, khi mà một cái nhấc tay nhẹ nhàng lại trở nên vô cùng quá sức.

Dẫu sao thì nhờ luyện tập nhiều, tôi đã có thể giơ tay lên cao đúng vị trí mình muốn và giữ yên trong vài phút. Tôi cũng đã có thể kéo người ngồi dậy. Tuy không được lâu cho lắm nhưng đó vẫn là một thành tựu lớn.

"Fig!" Tôi lại gọi nó thêm vài lần, vừa nói vừa vỗ tay xuống chỗ trống bên cạnh mình.

Chỗ tôi nằm là một đụm rơm to rải trên đất mà tôi cho là giống hệt cái ổ ngựa. Nằm sát vách căn chồi, bên dưới cái cửa sổ duy nhất trong phòng là cái ổ bé thằng Fig mới làm sau khi nhường tôi cái ổ to. Nhưng hôm nay gió lớn và mưa dong hắt qua cửa sổ đã tạt ướt đống rơm của nó rồi. Thế là nó đành miễn cưỡng ôm chú chó nhỏ chui vào cạnh bên tôi.

Ba chúng tôi nằm kề bên nhau, chia nhau mấy củ khoai lấp đầy cơn đói. Khi đã no nê, con chó nhỏ nằm ườn ra cho tôi xoa bộ lông của nó. Ba chúng tôi cứ thế mà lã dần đi, thế là lại hết một ngày.

 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
3. Chuyến hành trình đầu tiên
bf80c4a5_original.gif
3f1dbc76_original.gif
e39bfd69_original.gif
029aaf0c_original.gif
5e287b10_original.gif
465761f8_original.gif
70574bbe_original.gif
79964bdf_original.gif
d5fa5589_original.gif

3. Chuyến hành trình đầu tiên

17bf2dada8235df4132256870750.jpg
Nếu có thể miêu tả nơi này chỉ bằng một từ, có lẽ "hiu quạnh" sẽ là từ thích hợp nhất.

Sau nhiều ngày chỉ quanh quẩn bên đống ổ, cuối cùng tôi đã có thể đứng lên, chạy vài vòng quanh căn chồi. Miếng vải băng vết thương đã long ra một đoạn, nên tôi quyết định gỡ hẳn nó ra. Cả người tôi lộ ra những mảng da non hồng phơn phớt, đôi chỗ vẫn còn đỏ tấy nhưng sờ vào chẳng có cảm giác gì. Cảm thấy sao mà man mát, tôi giơ tay lên xoa đầu thì nhận ra cảm giác nhẵn bóng chằng còn một cọng tóc.

Dẫu thế tôi chẳng lấy gì làm buồn, chỉ hơi xấu hổ vì cơ thể lõa lỗ của mình. Những ngày qua chỉ trùm kín trong chăn với vết thương bó chặt khiến tôi không nhận ra trên người mình chẳn có lấy một mảnh quần áo che thân, đã vậy lại còn bốc mùi như một con quạ. Tiện thể có bộ đồ thằng Fig phơi nắng ngoài sân, tôi thó lấy rồi chạy bay ra cái ao cạnh nhà.

Cái ao trông không lớn lắm, chỉ đủ vừa cỡ một chiếc thuyền to. Chẳng có dấu hiệu nào cho thấy có sinh vật sống trong ao, thế nên tôi cứ nhảy ùm xuống, làm nước văng lên tung tóe thấm đẫm chỗ đất trên bờ.

Tấm táp xong rồi tôi lại trèo lên ngồi ngắm mình phản chiếu trên mặt nước. Đã lâu tôi chưa soi gương nên tò mò không biết bộ dạng mình như thế nào. Trông tôi khẳng khiu nhỏ xíu như một đứa trẻ con, mặt mũi lạ hoắc như ghép vào mặt của ai.

Có lẽ tôi đã gặp tai nạn đến nỗi mặt mũi biến dạng, và ông bác sĩ đã phẫu thuật cho tôi trong lúc thần kinh tôi chưa lấy lại được nhận thức. Đã mấy tuần rồi chỉ ăn mỗi súp thảo mộc và khoai tây, hẳn cơ thể tôi đã bị thiếu chất trầm trọng.

Loay hoay suy nghĩ một hồi cũng chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, mà cái bụng tôi lại réo lên inh ỏi như một chiếc đồng hồ báo thức. Tôi đứng dậy mặc trang phục cho ngay ngắn, rồi quyết sẽ đi kiếm cái gì đó để ăn. Cách đơn giản nhất là tìm thằng nhóc đang chăn cừu ở một nơi nào đó ngoài kia.

Tôi đi dọc theo con đường mòn chỉ có một lối dẫn qua rặng cây vân sam hùng vĩ. Rồi tôi băng qua cánh đồng lúa mì vàng ươm rộng lớn đến tận đường chân trời.

Cái ống quần to quá khổ cứ tuột mãi dưới mắt cá chân phiền quá đi mất. Sau khi cố gắng xắn nó lên cao mà rồi đâu lại vào đấy, tôi bất lực đành để cái ống quần lê lết trên đất, vừa đi vừa sợ ngã dập mặt mà đích đến thì chẳng biết tự nơi nào.

Con đường mòn không một bóng người dường như kéo dài đến vô tận.

Hôm nay thời tiết đột nhiên ấm hẳn lạ thường, và giờ khi mặt trời đã lên cao, mồ hôi bắt đầu tuôn ra như tấm. Sự bức bối của một cái cổ họng khát khô và lớp áo đẫm nước dính chặt vào lưng khiến tôi dần hối hận vì đã lang thang bên ngoài thế này.

Vậy nên khi đi đến đoạn có bụi cây lớn và bóng mát to, tôi tấp vào đám cỏ trông mềm mại nhất, định nghỉ chân một lát. Thế nhưng một chuyến hành trình sau bao ngày không vận động đã khiến tôi kiệt sức. Tôi ngã người nằm dài trên đám cỏ, hai mắt cứ lim dim rồi thiếp đi lúc nào không hay.

Tôi chỉ giật mình tỉnh dậy vào lúc bên tai văng vẳng tiếng chó con từ xa chạy đến. Berry bổ nhào vào lòng tôi, ra sức liếm láp khuôn mặt tôi còn ngái ngủ.

Cậu bạn mũ rơm của tôi cũng đang từ xa đi tới. Tôi cứ tưởng mình sẽ bị la một trận ra trò vì tuỳ tiện lấy đồ mà không hỏi, nhưng cậu ta chỉ nói điều gì đó mà tôi đoán là "Sao lại đi ra đây?" Tôi chỉ vào cái bụng ọp ẹp và cổ họng khô khóc của mình, nghĩa là "Tôi đang đói và khát lắm". Cậu nhóc ra hiệu tôi đi theo, thế nên tôi bế Berry đứng dậy.

Một nhánh cúc dại [1] không biết từ đâu rơi xuống bắt lấy ánh mắt tôi. Tôi nhặt lấy nó, tò mò không hiểu quanh đây sao lại có nhánh hoa đẹp thế này. Những cánh hoa trắng ngần tỏa ra từ một nhụy hoa vàng, giống như một chú ong mật yên bình cuộn tròn trên một chiếc gói trắng tinh.

Tôi giắt nhánh hoa vào cổ áo, vừa ôm Berry vào lòng, vừa lò tò chạy theo cậu bạn đã đi trước một đoạn dài.

Phải dốc hết sức chạy theo tôi mới bắt kịp. Khi hai đứa sóng bước bên nhau, tôi mới biết, thì ra Fig cao hơn tôi đến cả một cái đầu.

Điều đó khiến tôi hơi bất ngờ, bởi lẽ trông ấn tượng của tôi khi còn nằm yên một chỗ, Fig chỉ là một đứa trẻ nhỏ tuổi hơn tôi, có lẽ vừa lên trung học được một tí. Nhưng dáng vẻ cậu nhóc gầy nhòm trong cái áo tay lỡ không che giấu nỗi đôi cánh tay xương xẩu còi cọc của những ngày đói ngoắc đói ngheo.

Thế mà cậu ta vẫn không quên chia sẻ cho một người lạ như tôi một phần thức ăn kiếm được. Ngay cả khi tôi ốm yếu, cậu bạn cũng tìm bác sĩ cho tôi. Fig chăm sóc tôi và nhường tôi tất cả những gì cậu ta có.

Nghĩ đến điều đó khiến lòng biết ơn trong tôi trỗi dậy, cảm động đến mức nước mắt lưng tròng.

Khi nào tôi về nhà, tôi sẽ bảo cha mẹ thết đãi cậu ta một buổi ăn thịnh soạn, rồi cha mẹ tôi sẽ cho cậu bạn ít tiền đủ để sống qua ngày, rồi khi nào cậu ta cần giúp đỡ có thể tìm đến tôi, tôi sẽ dốc hết lòng mà trả. Hoặc cậu nhóc có thể đến ở nhà tôi. Tôi sẽ xin phép ba mẹ nuôi cả hai chúng tôi, và bọn tôi sẽ trở thành người nhà, kể cả bé chó này. Người nhà... nhưng... khi nào tôi sẽ được về nhà?

Nhà tôi không xa xôi hẻo lánh như thế này. Đến cả vùng thôn quê như nhà Ngoại cũng có chuyến xe buýt đi ngang mỗi ngày 2 lần vào sớm tinh mơ và khi trời sập tối. Còn ở đây người ta vẫn còn dùng ngựa truyền thống để chở hàng.

Tôi nói thế vì chẳng biết tự lúc nào chúng tôi đã đứng trước một con ngựa kéo xe to lớn. Fig ngả mũ chào bác đánh xe đang đứng trên cỗ xe kéo hai bánh trông đã cũ lắm rồi. Thằng nhóc nói gì đó có vẻ rất buồn cười khiến người đàn ông trung niên phải cười nắc nẻ. Rồi bác đưa cho chúng tôi một thứ trông như chiếc túi da mà bác giắt ngang hông.

Thằng Fig mở nắp uống một ngụm rồi đưa cho tôi, bên trong sóng sánh thứ chất lỏng giống như nước. Tôi cũng chẳng ngần ngại ngửa mặt uống cạn cả túi. Đến khi dốc mãi không còn giọt nước nào rơi ra, tôi mới nhớ đến Berry bé nhỏ. Nhưng Berry trông chẳng lấy gì làm phiền hà, ngược lại còn vẫy đuôi tíu tít nhảy vồ lên xe bác. Thằng Fig cũng nhảy phóc lên xe, rồi nó quay lại kéo tôi lên.

Bác xà ích lại hỏi gì đó, có vẻ là "Tên con bé là gì". Tôi đoán thế vì thằng nhóc chỉ tay vào nó, "Fig", rồi lại chỉ bé chó, "Berry", tiếp đến là bác xà ích, "Paul", cuối cùng nó chỉ vào tôi. Tôi lí nhí trả lời:

"Ann"

"Được rồi Ann," câu này thì tôi hiểu, bởi Fig đã nói với tôi như thế biết bao nhiêu lần.

Ông bác hô lên một tiếng, chiếc xe từ từ chuyển động trên con đường đất đá gập ghềnh. Hai đứa tôi ngôi vắt vẻo ở đuôi xe, sau lưng chất đầy hàng đống túi to dính đầy bụi đất, bắt đầu một chuyến hành trình kỳ lạ.

35660c50.png
35660c50.png
35660c50.png

[1] Hoa cúc: Đặt một nhành hoa cúc lên xác người chết là một tập tục ở Hemeti nhằm gửi lời chúc và đưa tiễn người đã khuất sang thế giới bên kia.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
4. Khúc khải hoàn
3ac76335_original.gif
fcc720c7_original.gif
edf97b53_original.gif
2eacb6b5.gif
1138e95c.gif
229f9c70.gif
bb03af03.gif
5ebe2b17.gif
e21dedaf.gif

17c0cce9bbaf7711959688063444.jpg

4. Khúc khải hoàn

Rời khỏi ngoại ô, xe chúng tôi đi xuyên qua mảnh rừng bạt ngàn xanh thẳm xen giữa những quả đồi và tiến vào thị trấn. Ban đầu là sự xuất hiện thưa thớt của những ngôi nhà mộc mạc với cửa sổ bé tí hin, sau đó, phía cuối con đường hiện ra một tường thành sừng sững được tạo thành từ hàng vạn khối đá khổng lồ. Theo sau chúng tôi, nhiều người từ các hướng đang dần tụ lại trên những cỗ xe kéo thô sơ chất đầy hàng hóa.

Xe chúng tôi chạy chậm dần rồi dừng hẳn. Vài người đàn ông trang bị vũ trang trong chiếc áo choàng đỏ đứng chắn giữa cổng vòm, đang yêu cầu bác đánh xe điều gì đó.

Bác lôi trong túi ra một mảnh giấy được gấp làm tư đưa cho người đàn ông có vẻ là chỉ huy. Vị chỉ huy lật giở tờ giấy xem xét một lát, sau đó, ông ta sai những người còn lại kiểm tra những túi hàng. Tôi cũng không giấu nỗi tò mò nhìn thử, thì ra bên trong bao tải toàn là nông sản. Nào là hành tây, bắp ngô, củ cải, sà lách, khoai tây, và một túi đầy tràn vàng óng những hạt lúa mì.

Đợi họ kiểm tra xong, tôi bắt chước thằng Fig hì hục buộc lại bằng mấy sợi dây đay. Xem chừng mọi thứ đều ổn, họ trả lại tờ giấy cho ông bác, chiếc xe tiếp túc lăn bánh tiến vào bên trong.

Đầu tiên, đập vào tai tôi là thứ âm thanh hỗn tạp của đường xá chật ních người, tiếng trò chuyện, tiếng rao vặt và tiếng nhạc không biết từ đâu ra. Sau đó, đập vào mắt tôi là một khung cảnh nhộn nhịp vô cùng sầm uất.

Không còn những đồng ruộng đìu hiu cô quạnh, con đường vắng vẻ bỗng chốc được thay thế bằng phố xá tấp nập người đi bộ và những cỗ xe ngựa bóng bẩy chạy ngược chạy xuôi. Hai bên đường là những sạp hàng hóa đa dạng các loại mặt hàng, nào là quần áo, giày dép, trang sức, đồ thủ công, vải dệt, đá quý, gia súc, cây con, vân vân.

Không khó để bắt gặp mấy người thương nhân ra sức chèo kéo khách hàng bằng những món đồ tuyệt đẹp. Ở giữa hai quầy hàng, có người đàn ông đang đắn đo lựa chọn một trong hai con bò xem còn nào tốt hơn. Một cặp tình nhân đang ướm thử cho nhau đôi vòng cổ. Những cô gái xinh như bông như hoa đang tụ tập tại quầy phấn son. Quầy đồ sứ với thìa đĩa sặc sỡ thu hút những người phụ nữ lớn tuổi. Tiếng nhạc mà tôi nghe từ nãy được thổi từ chiếc sáo của một nhạc công ngồi trên thảm trải một hàng đạo cụ. Và hàng loạt những cảnh tượng thú vị khác tôi chưa thấy bao giờ của một phiên chợ trời vô cùng náo nhiệt.

Xe chúng tôi cố lách mình trong dòng người đông nghẹt. Tôi thì ngẩn ngơ cả người vì choáng ngợp. Thằng Fig thì mặt mày đầy hào hứng, vừa liên mồm nói chuyện với bác đánh xe, vừa giơ tay chỉ hết cái nọ đến cái kia. Berry thì khỏi phải nói, chú chó nhỏ mừng rỡ quẩy chiếc đuôi xoắn tít và nhiệt tình sủa với mấy người qua đường.

Đột nhiên, tiếng chuông ngân từ trên cổng thành phát ra leng keng khiến mọi người gần như bất động, nhưng trong tíc tắc, bầu không khí bỗng chốc lại càng thêm hứng khởi. Người ta kháo nhau dạt ra hai bên đường, chen lấn đứng tràn lên cả những bậc thềm, chừa ra một lối đi rộng ở giữa.

Xe chúng tôi khó khăn lắm mới chen được vào ngách giữa hai căn nhà. Chỗ đỗ xe nằm ngay bên dưới một cầu thang hẹp dẫn lên tầng hai ngôi nhà sát vách, thế là thằng Fig bảo ông bác điều gì đó, ông bác liền bế nó cho nó đu người lên. Lên được bên trên rồi, nó và ông bác lại hợp sức đưa tôi và Berry (lúc này đã được nhét vào áo tôi) lên, cuối cùng ông bác tự đu người leo lên.

Bốn người chúng tôi trèo lên sân thượng ngôi nhà đó, cùng với hàng trăm người khác có cùng ý tưởng như thế cũng trèo lên nóc các tòa nhà, từ trên cao nhìn xuống.

Từ ngoài cổng thành, hàng chục người đàn ông mặc áo choàng đỏ, tay cầm kèn đồng chạy vào bên trong, xếp thành hàng ngay ngắn.

Tiếp đó, xen kẽ từng người dạt qua hai bên, chiếc kèn cổ dài đặt sẵn vào vị trí. Trên mỗi chiếc kèn đều gắn lá cờ màu đỏ với gia huy hình con gấu hung tợn, viền ngoài bởi dải tua rua vàng. Người đi đầu trong số họ, tay không cầm kèn mà chỉ cầm một cây gậy, đứng nghiêm trang giữa lối đi như chờ đợi sự kiện bắt đầu.

Không để mọi người đợi lâu, từ trên cổng thành, một người cũng mặc áo choàng phất lên một ngọn cờ màu đỏ. Chỉ huy đội kèn giơ cao cây gậy, cả đội thổi lên ba tiếng kèn dài, cũng là lúc một đội quân hùng dũng tiến vào thành. Ngay lập tức, một khúc tráng ca đầy hào hùng phấn khởi được ngân lên trong tiếng hò reo chúc mừng của hàng ngàn dân chúng:

"KERNEY!" "HEMETI!" "KERNEY!" "HEMETI!"

Đoàn quân tiến vào thành, dẫn đầu bởi đội kỵ binh, đến bộ binh, cung binh, và cuối cùng là hậu cần.

Đâu đó trong số những chiếc cửa sổ hướng ra con đường, một cánh tay không ngừng ném những cánh hoa sặc sỡ đầy màu sắc. Dân chúng phía dưới cũng bắt chước làm theo. Họ truyền tay nhau ném cho những vị chiến binh những cành hoa sặc sỡ. Gió thổi cánh hoa bay ngộp trời, trông như phước lành được đấng trên cao ban phát cho các con của người, mang theo tất cả hy vọng của chúng dân, tạo ra một cảnh tượng khải hoàn hết sức hoành tráng.

Dẫn đầu đội kỵ binh là một người đàn ông vạm vỡ với mái tóc vàng đẫm mồ hôi sau một chặng đường dài. Anh ta mặc chiếc áo choàng đỏ có phần đặc biệt hơn tất thảy những người khác, thêu những họa tiết kiêm sa lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời.

Người đàn ông trẻ tuổi nở nụ cười đón nhận niềm hân hoan mà dân chúng trao tặng, nhưng nét mặt không hề đánh rơi sự kiêu hùng của một người đã kinh qua bao trận thập tử nhất sinh. Con hắc mã chở người chiến binh ấy được thắng bộ yên cương đỏ thẫm, hiên ngang bước đi oai phong lẫm liệt.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
5. Kerney? Hemeti?
b1d551b5.gif
55f5ea8d.gif
398f95c0.gif
9c7d7230.gif
3ed8ec3a.gif
0cfa18e8.png
5281d423.gif
dbb09d17.png
a98b2f09.gif

5. Kerney? Hemeti?


Khi tiếng kèn vừa dứt cũng là lúc đoàn quân đã khuất sau ngã rẽ cuối con đường. Chúng tôi trèo xuống theo lối cũ để tiếp tục cuộc hành trình còn dở dang. Bỏ lại phiên chợ sau lưng, chiếc xe tiếp tục lăn bánh trên con đường lát đá.

Vừa tiến vào cổng thành thứ hai, tôi đã phải thốt lên một tiếng cảm thán.

Nhà cửa ở đây trông bệ vệ, khang trang và sạch sẽ hơn hẳn nơi khu chợ. Phần lớn cửa sổ đều cỡ lớn, bên trong là khung bảo vệ gồm những ô vuông vức đều nhau. Ngay bên dưới bệ cửa sổ, những khóm hoa nở rộ tô điểm thêm vài nét chấm phá rực rỡ khiến những tòa công trình không hề khô khan vô vị .

Người dân nơi đây có nước da trắng ngần và ăn vận phục trang vô cùng lộng lẫy. Phụ nữ mặc những chiếc đầm xếp tầng xòe dài phủ gót chân, áo nịt chiết eo chặt đến nổi dải đăng ten viền trên ngực áo không thể giấu đi sự hiện diện của đôi gò bông đảo căng tròn. Mái tóc tết cầu kỳ đầy phụ kiện trang sức ánh lên dưới ánh sáng mặt trời, làm nổi bật vẻ sang trọng hệt như những quý phu nhân xuất thân giàu có.

Đi giữa những người phụ nữ kiêu sa kia là cánh đàn ông trong hai trường phái trang phục cũng phô trương không kém. Một số đội những chiếc mũ to trang trí phức tạp, mặc áo khoác dài đính khuy tinh xảo, cổ áo xếp nếp như thác nước dài đến thắt lưng, từ đầu tới chân đeo hằng hà các loại đá quý.

Số còn lại ăn vận như đoàn quân mà chúng tôi vừa gặp ở khu chợ, nhưng có phần tiết chế đi nhiều. Vẫn lấy màu đỏ làm chủ đạo, họ mặc áo tay ngắn có phần lai dài đến đầu gối bên ngoài áo dài tay, dải thắt lưng đinh tán kèm thanh kiếm bóng loáng vắt ngay hông, tay đeo găng phòng vệ được kết từ những sợi xích kiêm loại cỡ siêu nhỏ.

Cảnh tượng kỳ lạ cho đến giờ khiến tôi có cảm tưởng mình đã đi lạc vào một hội chợ hóa trang, nơi mà khách tham gia có nhiệm vụ hóa thân thành nhân vật trong các bộ truyện tranh hay trò chơi điện tử đề tài trung cổ.

Nhìn quanh các tòa nhà, tôi lờ mờ đoán được nơi đây dường như tập trung những cửa hiệu lớn nhất thị trấn với giá cả xa xỉ dành cho giới nhà giàu. Từng hàng từng kệ những khay bánh mì bày trí vô cùng công phu lướt qua mắt tôi như một cơn gió, tiếp đó là tiệm may với hai khung ma nơ canh trong trang phục đôi nam nữ bên cửa sổ. Tiếng lò rèn từng hồi từng hồi vang rền xuất phát từ tiệm vũ khí cực kỳ hoành tráng ngay bên cạnh, thu hút rất đông cánh đàn ông tấp nập ra vào. Mùi da thuộc hăng hắc ngập ngụa trong không khí khiến tôi phải bịt chặt mũi cho đến khi đã rời xa tiệm đóng giày cả một đoạn dài.

Chiếc xe ngựa lọc cọc dừng lại bên hông một căn nhà ồn ào náo nhiệt có lẽ là tiệm ăn. Ông bác thả ba chúng tôi xuống bậc thềm cùng vài túi nông sản rồi đánh xe đi mất khiến tôi bối rối cực kỳ.

Đứa bạn đồng hành dường như đã quen thuộc với hành động ấy, nó mạnh dạn gõ lên cánh cửa gỗ sờn cũ, phải mất một lúc mới có một bà lớn tuổi, lưng còng, đầu đội khăn, mặc chiếc tạp dề cũ mở cửa cho chúng tôi. Tiếng nói cười đổ ào ra như tiếng đàn ong vỡ tổ khiến cả tôi và Berry đều giật mình hết hồn. Bà già chẳng nói năng gì, chỉ đi thẳng một mạch xuống bếp, để hai đứa trẻ con kéo lê mấy chiếc túi nặng trịch vào bên trong.

Căn nhà tràn ngập mùi đủ thứ loại đồ ăn như một hình thức tra tấn mới làm cái bụng đói của tôi lại thêm một phen dậy sóng. Thằng Fig nghe thấy thế liền đưa tay bụm miệng cười, còn tôi thì xấu hổ phải biết.

Sau khi nhặt hết thứ này đến thứ kia trông bao tải lên kiểm tra, bà ta chìa ra mấy đồng xu lẻ cất trong một cái túi nhỏ đeo ngang hông. Thằng Fig cầm lấy đếm đi đếm lại, rồi nó nói gì đó khiến bà già cười khoái lắm. Bà lại đưa cho nó thêm một đồng trước khi đẩy hai đứa tôi ra cửa.

Ngay khi cánh cửa phụ đóng lại sau lưng, thằng Fig kéo tôi chạy ngược con đường vừa đi ban nãy, xông thẳng vào cửa tiệm bánh mì.

Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều loại bánh mì như thế. Có cái vừa to vừa tròn hơn cả đầu tôi, có cái nhỏ xíu như nắm tay, có cái thuôn dài như cây bút, có cái cong cong như nửa vầng trăng, có cái màu trắng ngà, có cái màu nâu hạt dẻ, lại có cái màu sô cô la, có cái rắc đường, có cái phủ đầy vụng đậu phộng... Tất cả những gì trông cửa hàng này cùng với cái mùi béo ngậy của nó làm tôi thèm đến chảy nước miếng.

Thằng bạn tôi nhanh chóng lấy ra một đồng xu đưa cho ông chủ tiệm. Ông chủ đưa nó một ổ bánh mì nâu đơn giản cũng khá to. Tôi đứng kế bên nhìn ông ta chằm chằm trong lúc đợi ông đưa lại tiền thối. Nhưng người đàn ông ấy chỉ đứng đó nhìn lại tôi (hoặc có thể là cái đầu không có tóc của tôi) mà chẳng nói gì. Cùng lúc đó, Fig lại kéo tay tôi ra ngoài.

Ra đến cửa là cậu ta hớn hở chia ngay ổ bánh ra làm ba, cậu ta một cái, tôi một cái, Berry một cái. Chúng tôi vừa đi vừa nhai cái bánh, bụng tôi nhanh chóng no căng nhưng đầu thì vẫn còn điều chưa thỏa đáng: Không lẽ một xu duy nhất thằng bạn tôi kiếm được từ sáng đến giờ chỉ đủ mua một ổ bánh mì?

Đã quen với cảnh ăn nhờ ở đậu, bấy lâu nay tôi quên khuấy mất không để ý thằng Fig, người bạn đã cưu mang tôi, làm thế nào mà nuôi được ba miệng ăn như thế này.

Từ hồi tôi tỉnh lại cho đến nay, mỗi ngày hai bữa tôi đều được cho ăn soup thuốc và khoai tây nướng vào buổi sáng trước khi cậu ta ra ngoài và buổi chiều tối sau khi cậu ta trở về. Nhìn đồ đạc trong căn chồi là biết, hầu như cậu bạn tôi chẳng có đồng nào để mà tiêu pha. Tôi còn không hình dung được với công việc chăn cừu như thế, cậu ta sẽ được trả công bằng cách nào. Và với cái chồi gió lùa hở trên hở dưới như thế, cậu ta làm cách nào cất giấu được mấy đồng tiền công?

Có lẽ cậu ta không nhận được một xu tiền nào, mà đổi lại trả công bằng hiện vật là mấy củ khoai tây. Có lẽ mấy củ khoai tây tôi đã ăn chính là tất cả gia sản cậu ta có được để tự nuôi sống bản thân mình.

Nhìn đứa bạn nhai ngấu nghiến miếng bánh mì mà miệng tôi bỗng trở nên đắng chát. Miếng bánh lúc nãy vẫn còn thơm mùi bơ giờ đây trở nên thật rệu rạo vì tôi không biết có nên nuốt xuống hay không nữa.

Vẫn còn lại nửa mẫu to tướng, tôi loay hoay kéo cái lai áo dài quá khổ gấp ngược lên cao thành một chỗ cất đồ rồi buộc nó lại một cách tạm bợ, định rằng sẽ ăn dè ăn xẻng cho đến khi nghĩ ra cách trở về nhà.

Mà đến cả bộ quần áo đang mặc trên người cũng không phải là của tôi nốt. Tôi lại vừa đạp nhầm vũng nước khiến lai quần bên trái ướt sũng dính dớp vào chân cực kỳ khó chịu. Nhìn xuống bên chân còn lại thấy cái ống quần tôi lê lết cả ngày đã lủng một lỗ do chà sát liên tục dưới đất, một công tắc cảm xúc trong tôi như được bật lên, khiến tôi bắt đầu rơm rớm nước mắt.

Trông thấy bộ dạng tôi lúc này, thằng bạn tôi dường như đã đoán ra vấn đề. Cậu ta lại kéo tôi đi một đoạn khá xa, phải rẽ qua liên tục mấy góc đường đến trước một tòa nhà có bậc thềm cao dẫn đến một cánh cửa cực kỳ lớn. Vừa đúng lúc chiếc chuông trên đỉnh tháp kêu lên mấy tiếng, cánh cửa được trạm khắc công phu mở toang.

Một không gian thờ nguyện giản dị xuất hiện trước mắt tôi, nổi bật bởi vách gỗ trắng đầy nắng chiều chiếu xuyên qua khung cửa sổ gothic. Căn phòng đem đến cảm giác đơn sơ và mộc mạc đến nổi nếu không có hai hàng ghế tạo ra lối đi ở giữa, tôi sẽ không thể nhận ra nó thiếu mất đi bóng dáng của những vật thường thấy trong các nhà thờ cơ đốc.

Chính giữa gian phòng, một người đàn ông trong chiếc áo chùng đen chào đón chúng tôi bằng nụ cười phúc hậu. Thằng Fig cởi chiếc mũ rơm, kính cẩn cúi chào vị tu sĩ. Tôi cũng làm theo, không quên bắt Berry (lúc này đang được tôi bế trong tay) cũng phải thực hiện hành động kính cẩn như thế.

Chúng tôi đi giữa hai hàng ghế tiến đến trước mặt ông, cậu bạn tôi trình bày với ông có lẽ là chuyện liên quan đến tôi, chỉ thấy ông gật gù tỏ vẻ đồng cảm. Sau đó ông mời chúng tôi ngồi xuống một chỗ trong hai gian ghế, còn bản thân thì loay hoay với giấy tờ và quyển sách trong tay.

Một lát sau, lác đác vài người dân cũng tiến vào nhà nguyện, cùng ngồi xuống hai bên gian ghế. Khi chỗ ngồi đã ổn định, tất cả đều đứng dậy cất tiếng hát bài bình ca. Khi giai điệu hợp xướng không nhạc đệm kết thúc, vị tu sĩ bắt đầu đọc một lời cầu nguyện, và tất thảy mọi người đều nhắm mắt cúi đầu. Buổi lễ sau đó diễn ra tương đối ngắn gọn so với suy nghĩ của tôi. Mặc dù không hiểu nhân vật chính của buổi lễ đang nói gì, nhưng tôi đã cố hết sức không gây tiếng động nào phiền nhiễu những người xung quanh. May mắn làm sao Berry cũng lăn ra ngủ say như ngất.

Kết thúc buổi lễ, vị tu sĩ nhanh chóng đánh xe đưa chúng tôi đến một căn nhà cách đó không xa.

Lần này người phụ nữ mở cửa cho chúng tôi trông bộ dạng tiều tụy hết chỗ nói. Không còn hình ảnh của những dải đăng ten hào nhoáng, người đàn bà trung niên mặc trang phục tối màu, mái tóc búi cao, hai mắt sưng húp vì khóc. Chiếc khăn mùi xoa trên tay chốc chốc lại quệt đi nước mắt nước mũi trên khuôn mặt khi bà nói chuyện với người đàn ông.

Sau một hồi trò chuyện, bà mở cửa mời ba chúng tôi vào trong. Bà lôi từ phòng ngủ ra một chiếc hòm gỗ cũ kỹ, bên trong là mấy bộ quần áo trong còn khá mới. Trước khi tôi kịp phản ứng, bà đã ướm thử nó lên người tôi. Không biết trông tôi có vừa mắt bà hay không, chỉ thấy bà lại bưng mặt khóc nứt nở. Nhờ sự an ủi của vị tu sĩ, bà lại lau nước mắt cố lấy lại vẻ bình tĩnh.

Bà dẫn tôi vào phòng, thay quần áo cho tôi như cách mà tôi vẫn thay quần áo cho mấy con búp bê của mình. Rồi bà đưa mắt nhìn tôi một lượt từ trên xuống dưới trước khi lấy trong tủ ra một chiếc khăn màu xanh lá có họa tiết hoa và buộc nó lên đầu tôi nhằm che đi mái đầu không có tóc. Cuối cùng, nhờ tấm lòng cảm thông của bà, tôi được cho cả hòm quần áo mà trong đó khoảng chừng có đến năm sáu bộ.

Thằng Fig cúi đầu chào bà vẻ vô cùng biết ơn. Tôi cũng bắt chước lặp lại hành động và lời nói đó. Bà tiếc nuối vỗ vai hai đứa tôi rồi tiễn chúng tôi ra xe đi về.

Về đến tòa nhà có đỉnh tháp chuông, người đàn ông dẫn chúng tôi ra bãi đất trống bên cạnh. Bao quanh bởi bờ giậu xanh um là rất nhiều phiến đá xám, mỗi phiến đều được khắc chữ và bao phủ bởi rêu phong. Như thể đã quá quen thuộc với nơi này, đứa bạn tôi cùng người đàn ông đi băng băng qua một loạt các phiến đá trước khi dừng lại.

Chữ trên phiến đá trước mặt chúng tôi không phải là chữ la tinh. Tôi cố lục lọi trong trí nhớ mình xem đó có thể là chữ viết của quốc gia nào nhưng chẳng thể nào nhớ được. Nhưng không khó để tôi nhận ra hình khắc bên dưới những dòng chữ đó là chân dung một đứa bé gái có mái tóc xoăn dài và đôi mắt to tròn đáng yêu.

Người đàn ông rút ra từ quyển sách ông cầm trên tay một nhành cúc trắng. Nhành hoa không nhỏ lắm, nhưng chẳng hiểu sao tôi chẳng để ý thấy ông mang nó theo bên mình trên suốt quãng đường. Ông cẩn thận đặt nó xuống rồi đọc to một lời cầu nguyện trước khi tất cả chúng tôi đều cúi đầu chào.

Rồi thằng bạn kéo tôi đến một phiến đá nhỏ hơn nằm khuất sâu trong góc vườn. Chữ trên phiến đá này ít hơn nhiều, và rất khó để người ta biết được hình dạng vị chủ nhân của nó. Cậu bạn tôi cũng đọc một lời cầu nguyện và bất chợt, cúi xuống hôn lên bia đá lạnh giá như thể trao một nụ hôn nồng ấm dành cho người thân trong gia đình.

Điều này làm tôi chợt nhớ đến đóa cúc dại mình đã gắn trên cổ áo từ ban trưa, thế là tôi lấy nó ra, tuy đã rơi mất một cánh nhưng trông vẫn còn tươi lắm. Tôi đưa cho Fig bông hoa của mình, nó vui mừng cầm lấy đặt lên trước khối bia, bịn rịn một hồi trước khi rời đi.

Chia tay người đàn ông trước bậc thềm, thằng Fig nói lời cảm ơn vì sự giúp đỡ nhiệt tình của ông. Giờ thì tôi cũng đã học được cách nói lời cảm ơn theo ngôn ngữ của họ nhờ học được từ đứa bạn tôi, một đứa trẻ ngoan và hiểu chuyện. Chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt ông rồi nặng nề khiêng hòm quần áo đi về lối cũ.

Lúc này, nắng chiều vàng ươm đã hắt bóng cây đổ dài trên đất còn mặt trời đã xuống lấp ló sau những rặng cây. Chúng tôi gặp lại bác đánh xe trước cửa tiệm ăn nơi bác đã cho chúng tôi xuống. Mấy túi nông sản của bác đã vơi đi khá nhiều để lại chỗ trống đủ để hai đứa tôi nằm ườn ra đánh một giấc. Những tưởng đã đến lúc trở về, ấy thế mà cuộc hành trình của chúng tôi vẫn tiếp tục khi bác đánh xe đi thẳng con đường chính, tiến về phía lâu đài.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
6. Đại tiệc
1385d243.gif
c7c365a6.gif
09e76065.gif
9c40f115.gif
c3d4a4a8.gif
cca60a60.gif
ceb5e476.gif
8f5883da.gif
ebdf6cfa.gif

17dd73c79fb8554a392216446624.jpg


6. Đại tiệc


Từ dưới nhìn lên, tòa pháo đài trên đỉnh đồi là một khối kiến trúc khổng lồ gồm nhiều toà tháp cao được xây dựng trên vách đá thẳng đứng và bao quanh bởi thành lũy kiên cố. Để lên được trên kia, chú ngựa kéo phải thực hiện một nhiệm vụ hết sức vất vả là lấy hết tốc lực chạy lên con dốc uốn lượn ôm quanh ngọn đồi. Khi chạy với tốc độ nhanh, làn gió cản bước chúng tôi cũng đồng thời cuốn đi cái nóng bức của một ngày ôi ả khiến tôi lấy làm thích thú. Ánh hoàng hôn rực rỡ càng khiến khung cảnh thị trấn từ trên cao nhìn xuống thêm phần diễm lệ đậm chất trữ tình.

Lên đến nơi cao nhất, chúng tôi nối đuôi những cỗ xe kéo khác đang xếp hàng dài tiến vào cổng chính.

Đỗ ngay trước chúng tôi là một xe chở than củi. Kế đến là cỗ xe chất đầy thủng ủ rượu thường thấy trong nhưng bộ phim cao bồi miền viễn tây. Buồn cười nhất là cảnh một đoàn xe sang trọng trông như toa xe lửa hở hai đầu, bên trong là những người phụ nữ mặc xiêm y lộng lẫy và đoàn tháp tùng cưỡi ngựa theo sau, bị kẹp giữa hai xe chở cừu đã được cạo lông sạch sẽ. Và khi mà ráng chiều càng lúc càng sẫm đi như màu quýt chín, hàng đợi lại càng ngày càng dài hơn nhờ sự góp mặt của những cỗ xe chở khách được tạo tác phức tạp công phu.

Đoàn thương nhân dỡ hàng hóa từ trên xe rồi chất đống giữa khoảng sân lâu đài đang tập nập người ra kẻ vào. Bên kia dãy hành lang, khách mời đổ xô tiến vào đại sảnh đường, tay bắt mặt mừng cùng đội chiến binh, nói cười huyên náo cả một góc lâu đài.

Bác Paul dẫn chúng tôi đến phòng bếp, một nơi mà tôi đã đoán ra ngay từ khi đi dọc ngoài bờ tường bởi cái mùi đồ ăn tỏa ra qua ô cửa sổ lớn. Mọi người trong căn bếp đều mặc tạp dề bằng vải lanh, phụ nữ đầu quấn khăn, đàn ông đội mũ vải trắng che hết cả vành tai. Tất cả họ đều đang cặm cụi chuẩn bị nguyên liệu bên những chiếc bàn lớn cạnh lò sưởi, trên bàn chất đầy các rau củ vật liệu đang chờ đến lượt được cho vào vạc nấu.

Paul và Fig chào hỏi người đàn ông đội chiếc mũ nâu trông có vẻ là lớn nhất ở đây. Sau vài câu trò chuyện, hai người họ nhiệt tình đẩy tôi ra trước ánh mắt dò xét của ông ta như thể một con đại bàng đang đánh giá sinh vật trước mặt có phải miếng mồi ngon hay không. Chỉ đợi ông ta gật đầu đồng ý, ngay lập tức thằng Fig được ném cho chiếc mũ trắng và một con gà luộc để ngồi vặt lông cùng mấy bà cô trong góc phòng. Còn nhiệm vụ của tôi là nghiền hết đống lá chút chít bằng cái cối đá để rắc lên bánh mì và vắt lấy nước sốt cho món xúc xích heo.

Thỉnh thoảng tôi cũng bị sai vặt mang món ăn qua đại sảnh đường khi những dĩa thức ăn đã trang trí xong trải đầy khu bếp mà bóng dáng mấy chị hầu gái lại chẳng thấy đâu. Nhờ thế mà tôi có dịp ngó qua buổi tiệc đã khiến tôi vô cùng mất kiên nhẫn vì tò mò từ nãy đến giờ.

Mái vòm cao chót vót được nâng đỡ bởi hai hàng thức cột kiểu la mã tạo ra một cảm giác cực kỳ choáng ngợp. Nổi bật giữa bức tường chính là tấm gia huy màu đỏ hình con gấu hung tợn và cái khiên được bao quanh bởi họa tiết lá nguyệt quế và vài hình thù đặc trưng khác - một phiên bản phức tạp hơn những lá cờ mà tôi đã có dịp trông thấy ở buổi lễ sáng nay.

Ngay phía dưới đó, ngồi ở vị trí trung tâm và cao nhất là người đàn ông có mái tóc vàng trong bộ trang phục uy nghi đang nồng nhiệt uống cạn những cốc rượu mừng được dâng lên.

Thuộc hạ của anh ta ngồi đầy năm dãy bàn trải dài đến tận cửa lớn, xen giữa là những cô gái tóc xoăn tít búi cao được trang điểm lộng lẫy (và theo tôi là có phần hơi diêm dúa). Tất cả bọn họ đều trong tình trạng phấn khích tột độ nhờ men nồng của những cốc rượu nho, khiến lời nói và hành động dường như mất kiểm soát và trở nên thô bạo.

Không ít lần tôi giật nảy mình vì tiếng đồ vật rơi loảng xoảng, hay âm thanh la hét lớn tiếng của những gã đàn ông lực lưỡng, râu tóc xòm xoàm và nói năng lỗ mãng.

Thỉnh thoảng khi có tình huống căng thẳng phát sinh giữa họ, thì giọng nói ê a ngọt như đường của những cô gái cạnh bên cùng cử chỉ nũng nịu xoa dịu khiến đôi bên lấy lại bình tĩnh rồi lại thi tài nốc cạn cả thùng rượu to.

Phục vụ cho bữa tiệc thật ra chẳng khó khăn như tôi tưởng bởi thậm chỉ tôi còn chẳng cần mang những khay thức ăn đến đúng vị trí của nó. Lần nào tôi cũng chỉ cần đi dọc các dãy bàn, liền có người nào đó lấy nó đi từ trên tay tôi. Tuy nhiên sự việc xảy ra tiếp theo khó khăn hơn nhiều, khiến tôi trở nên căng thẳng và chỉ muốn chạy nhanh về bếp không quay lại nữa.

Chẳng là tôi vô tình va phải một người đàn ông to béo có bộ mặt thô kệch, ông ta càm ràm gì đó tôi không hiểu khiến tôi vô cùng bối rối. Đang định bụng nhanh chóng chuồn đi, đột nhiên ông ta kéo tôi lại, vừa nắm chặt lấy vai tôi, vừa cúi xuống nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Rồi ông ta thô lỗ chỉ tay vào mặt tôi cười cực kỳ khoái trá, kéo theo những người khác cũng tạm ngưng cuộc vui mà nhìn về phía tôi. Rồi bằng những ngọn tay múp míp như nải chuối, ông ta khiếm nhã giật phát cái khăn tôi buộc trên đầu làm lộ ra cái đầu hói của tôi, khiến tôi vừa thẹn vừa cực kỳ giận.

Tôi cố lùi lại nhưng đám đông không biết tự lúc nào đã bu kín xung quanh khiến tôi bỗng chốc sợ xanh mặt. Họ cứ cố cầm lấy mặt tôi, hết người này đến người khác xoay mặt tôi qua lại như một trái bowling, ngắm nghía nó như thể thứ gì lạ lùng lắm. Trong thoáng chốc tôi đã nghĩ, hẳn là họ đã phát hiện tôi là người ngoài, còn cái đầu hói là nguyên nhân khiến họ chê bai giễu cợt và có thể là sẵn sàng đuổi đánh tôi ra khỏi đây bất cứ lúc nào.

Đột nhiên một tiếng nói cứng rắn dõng dạc phát ra từ đằng sau đám đông, khiến tất cả mọi người đều phải dừng lại. Lại thêm một mệnh lệnh đanh thép nữa buộc họ phải tản ra quay về chỗ cũ như thể chẳng có chuyện gì và uống nốt chỗ rượu còn dang dở.

Người đã cứu nguy lấy tôi đang đứng trên bục cao kia, chính là người đàn ông tóc vàng mà tôi đã trông thấy dẫn đầu đoàn kỵ mã. Diện mạo người đó trông nổi bật hơn hẳn những người xung quanh, với khuôn mặt ưa nhìn, phong cách gọn gàng và vóc dáng to lớn mặc dù tôi chỉ có thể nhìn thấy ở khoảng cách xa thế này.

Người đó ra hiệu tôi lui đi, thế là tôi cứ cắm đầu cắm cổ chạy một mạch về bếp, không quên nhặt lại chiếc khăn bị người ta vứt rẻ rúng dưới nền nhà.

Về đến căn bếp nghi ngút khói mà tay tôi vẫn còn run bần bật. Tôi lại ngồi xuống cạnh Fig, cố giữ bình tĩnh và đánh vảy mấy con cá đang chuẩn bị làm món phi lê bằng mấy cái chảo gang trên ngọn lửa lò sưởi.

Chẳng biết mất bao lâu, cho đến khi đôi tay tôi mỏi rã rời thì mọi người cũng dừng làm việc để ăn lấy một chút súp bánh mì lót dạ. Mấy cái vạc đồng đang treo giữa lò sưởi mới đó mà đã sôi sùng sục chín nhừ món súp thịt cừu hầm củ cải tím cùng nghệ tây và hạt tiêu đen. Thế là một lần nữa, khi một chị trong nhóm hầu gái khều tôi trước khi cầm lên bát súp, tôi biết mình lại phải trở thành con thiêu thân bay vào giữa đám người thét ra lửa mới vừa khiến tôi sợ khiếp vía trong căn phòng kia.

Chúng tôi đặt những bát súp nóng bên cạnh giỏ trái cây trước mặt những thực khách mà phần lớn trong số họ đã gục xuống mặt bàn.

Vẫn còn một phần cuối cùng còn sót lại mà lẽ ra phải được dâng lên vị gia chủ đang ngồi ở vị trí trên cao kia trước tất thảy mọi người. Tôi cẩn thận cầm lấy chiếc bát đó, tiến về phía người đàn ông đang chìm trong suy tư sau một bữa tiệc mừng ồn ào và hoành tráng.

Nhìn gần thế này tôi mới thấy, người đó hẳn là vẫn còn trẻ, với đôi mắt xanh như màu lá cây, đường nét khuôn mặt nam tính, mái tóc vàng xoăn tự nhiên hơi lòa xòa và cúp vào sau gáy.

Người đó không biết đang bận tâm điều chi, ánh nhìn cứ vô định về phía những vị khách say xỉn, tay mân mê chiếc cốc vàng, lắc lư nó khiến thứ chất lỏng tím sẫm cứ sóng sánh như muốn tràn ra bất cứ lúc nào.

Khi đã hoàn thành xong nhiệm vụ của mình và chuẩn bị rời đi, một âm thanh quen thuộc bằng thứ ngôn ngữ đất nước tôi văng vẳng bên tai khiến tôi giật mình quay ngoắt lại.

"Bé con!"

Rõ ràng là tôi đã nghe thấy thế.

Tôi đưa mắt dáo dác nhìn quanh để chắc chắn rằng mình không nghe nhầm. Nhưng, hẳn là tôi đã nghe nhầm, bởi giờ đây nơi này còn ai đủ tỉnh táo để mà quan tâm đến một con bé ngoại quốc như tôi. Người ta hoặc là lần lượt dắt díu nhau rời đi, hoặc là nhỏm dậy chén nốt miếng súp cuối cùng như một cách giải rượu, hoặc là dành trọn đêm nay trong cái đại sảnh đường này cho đến khi mặt trời hửng sáng.

Thế rồi lại giọng nói ấy, giọng nói đã cứu nguy tôi bằng thứ ngôn ngữ xa lạ được cất lên, ôn tồn nhưng dịu dàng như một hiệu lệnh dành riêng cho một đứa trẻ.

Tôi xoay người nhìn về phía người đàn ông. Người đó ra hiệu tôi tiến đến gần rồi chìa ra cho tôi bát súp.

Sau đó người ấy chỉ vào chiếc ghế trống bên cạnh có phủ vải thêu sang trọng, như thể bảo tôi: Đừng bận tâm gì cả, hãy ngồi xuống tử tế và ăn nó đi. Điều đó khiến tôi bối rối, không chỉ vì cử chỉ lịch thiệp có phần lạ lùng của người đàn ông kia, mà còn vì mấy miếng thịt cừu trong cái bát cứ mê hoặc lấy tôi, khiến cái bụng chỉ có vài ba miếng bánh mì nấu súp nhão nhoét nhạt toẹt của tôi ra tín hiệu lên cơ quan đầu não rằng còn chờ gì nữa mà hãy ăn đi.

Tôi lại đưa mắt nhìn quanh xem có ai để ý không, lúc này mấy chị hầu gái lại lẫn đi đâu không biết. Vậy là tôi rón rén ngồi xuống chiếc ghế sang trọng được chỉ định, múc lấy múc để mấy miếng thịt cừu cho ngay vào miệng.

Cảm giác lâu lắm rồi mới được ăn thịt khiến tôi hạnh phúc như trên mây. Không phải là mấy củ khoai tây vô vị hay thuốc súp đắng chát, thứ đang trông miệng tôi đã được tẩm ướp sơ qua với muối với từng thớ thịt dai dai và vị béo của mỡ, pha lẫn cái mùi hơi hăng hắc đặc trưng của thịt cừu, cũng cái vị nồng nồng cay cay của hạt tiêu. Tôi cứ ăn hết miếng nọ đến miếng kia, thậm chí còn cầm cả cục xương lên mà gặm. Tôi không còn quan tâm được bất cứ điều gì trên đời nữa. Giờ mà có bị đuổi khỏi đây và lết bộ về căn chồi thì tôi cũng thấy cam lòng.

Sau khi bụng dạ đã no căng thì tôi mới ý thức được hành động của mình có lẽ là không phải phép. Nhưng người đàn ông bên cạnh đã đưa cho tôi chiếc khăn lau tay có thêu hoa văn cầu kỳ, còn đẩy giỏ trái cây lên trước mặt ra hiệu tôi ăn đi. Tôi nhón lấy một quả nho xanh tươi cho vào miệng, lau sạch sẽ đôi tay dính bẩn rồi lại định cầm bát súp còn dư mà chuồn đi. Nhưng người đó kéo tôi lại, rồi bằng một động tác dứt khoát xé toạc một mảnh áo choàng và gói ghém giỏ trái cây trong ánh mắt kinh ngạc của tôi.

Tôi định nói lời cảm ơn mà tôi vừa học được hôm nay nhưng chẳng còn thời gian đâu mà chần chừ thêm nữa. Một trong số những người gác cổng hớt hải chạy vào, chỉ kịp để tôi ôm cái túi áo choàng nhảy xuống bậc thềm rồi lặng lẻ lẻn ra khỏi cửa.

Tôi không rõ nỗi xấu hổ khi không thể che giấu được sự tham lam của một đứa trẻ con là lý do khiến khối cơ trong lồng ngực đập liên hồi, hay vì nỗi bồi hồi được đứng cạnh bên một vị thần mang vẻ đẹp không thể cưỡng lại của những tạo vật cổ xưa.

Hình ảnh người chiến binh có đôi mắt màu nho cứ lặp đi lặp lại trong đầu tôi như một cuốn phim tua chậm, mỗi khung hình đều được áp filter rực rỡ ánh hào quang. Giọng nói của anh trầm ấm như củi cháy trong lò sưởi, bao bọc lấy tôi cùng những cử chỉ quá đỗi dịu dàng, khiến cho vẻ mặt giận dữ khi anh đập mạnh chiếc cốc trong tay xuống bàn không còn vẻ gì là đáng sợ.

Tôi nép mình vào một hõm tường tối tăm khuất sâu trong lối đi vắng vẻ, vươn mắt nhìn về hướng chậu nguyệt quế đã nở rộ những nhành hoa trắng ngần bên dưới ô cửa sổ cuối cùng của hành lang. Bóng hình người đàn ông lướt qua hàng ô cửa sổ đang sải những bước thật nhanh theo sau viên gác cổng, băng qua khoảng sân thoáng đãng lúc này đã tràn ngập ánh trăng. Tấm áo choàng khuyết đi một góc tung bay phấp phới trong không trung, như thể đó là bằng chứng cho trận đấu một mất một còn giữa mãnh thú và vị anh hùng.

Lặng lẽ đợi ở góc sân là một cỗ xe ngựa có gian ngồi hệt như trái bầu nằm giữa bụi dây leo. Trong khoảnh khắc khi ngọn đèn trên tay viên xà ích lướt qua ô cửa, để lộ một bóng hình mờ ảo ở bên trong, ánh trăng vằn vặc chiếu rọi những tia dịu dàng huyễn hoặc khiến tôi tự hỏi, liệu có phải nàng lọ lem đến dự buổi dạ tiệc của chàng hoàng tử hay không. Bởi chàng hoàng tử giờ đây đang vội vàng chạy đến giằng mạnh tấm rèm treo nơi lối vào khiến cả khối kim loại khổng lồ không ngừng lắc lư lẩy bẩy.

Liệu chàng sẽ ôm chặt lấy nàng dưới sự chứng giám của những vì tinh tú lấp lánh trên cao?

Tấm rèm kéo lên, tim tôi hẫng đi một nhịp.

Người vừa bước xuống ngã nhào vào lòng anh, khiến chàng chiến binh chật vật xoay người đỡ lấy bằng tấm lưng rắn rỏi. Chiếc áo chùng mau đen dài đến gót chân phủ phục lấy thân thể cả hai người, giấu khuôn mặt sau mũ áo chỉ để lộ lọn tóc vàng mềm mại phủ xuống bờ vai anh. Nhanh như cắt, anh vội vàng cõng nàng chạy thật nhanh, xuyên qua màn đêm, xuyên qua ánh mắt hiếu kỳ của những vị khách mời đang tản mát, rồi sau đó biến mất chỗ ngã rẽ cầu thang dẫn lên lầu.

Tôi có thể thấy ánh nến mới vừa được thắp lên toả ra từ một căn phòng trên tầng hai vốn đã luôn tĩnh lặng. Viên gác cổng và viên xà ích thong thả trở lại công việc của mình. Còn mấy người đầy tớ thì có vẻ chẳng mảy may hay biết gì sự xuất hiện của một vị khách mới.

Hẳn hai người họ đang ở cùng nhau, gần kề bên nhau trong một không gian riêng tư cẩn mật.

Tôi lầm lũi trở về căn bếp bừa bộn như một bãi chiến trường mà cảm giác nặng nề cứ đè mãi lên tim. Vừa chùi rửa mấy cái nồi đồng dính đày nhọ bếp, tôi vừa trông ra chỗ đám khách đang bắt đầu tàn tiệc. Một số lên xe đi về, một số khác được sắp xếp ngủ lại trong những căn phòng tối như hũ nút ở các tầng trên cao.

Khi bóng của toà lâu đài hắt trên mặt đất đã hoàn toàn đổi hướng, cũng là lúc việc dọn dẹp đã hoàn tất và chúng tôi đã có thể nghỉ ngơi. Fig đi với bác Paul còn tôi được cho ngủ trong cái hộc để đồ bên dưới bệ cửa sổ phòng mấy thím nấu bếp.

So với tưởng tượng về một "cái chuồng cho gia nhân" với đầy gián, chuột và một đống người làm lem luốc chen chúc nhau, thì nơi tôi được sắp xếp cho ngủ trông ọp ẹp nhưng sạch sẽ và không đến nỗi nào. Có lẽ vì nền đất lạnh, hoặc có thể vì chỗ tôi nằm đem đến cảm giác ngột ngạt như trong một cỗ quan tài, khiến tôi cứ trằn trọc mãi không sau ngủ được. Nến đã tắt từ lâu, còn tôi thì lồm cồm bò dậy đứng bên cửa sổ trông ra khung cảnh bên ngoài.

Chỉ vài tiếng trước thôi, ánh đèn từ tất cả các gian phòng của lâu đài được thắp lên như hồi sinh khối công trình đã cũ. Giờ đây chỉ còn mỗi căn phòng đối diện trên cao kia hắt ra thứ ánh sáng lờ mờ xuyên qua tấm rèm chòng chành qua lại. Tôi nửa muốn ai đó tắt nó đi, nửa chỉ mong ngọn lửa đó không bao giờ tan biến.

Thượng đế hẳn đã nghe thấy những suy nghĩ rối mù trong tâm trí tôi, và ngài quyết định sẽ thêm vào đó một ít gia vị cho nó càng thêm rối rắm. Từ trên cầu thang tầng hai, một bóng đen lao vút ra khỏi cửa rồi đi xuống sân, nhanh nhẹn đến mức tôi tưởng đó là một tồn tại siêu thực. Chỉ khi cái bóng dừng lại trong một góc tường và loay hoay như đang tra chìa vào ổ khoá, tôi mới nhận ra lọn tóc vàng uốn lượn như cơn sóng. Thứ gì đó lấp lánh rơi ra từ tấm áo chùng khi người kia cất chìa, nhưng cánh cửa đã nhanh chóng đóng lại, và nàng Lọ Lem đã hoàn toàn biến mất.

Tôi nằm xuống nhắm chặt hai mắt để định thần, trong đầu vẽ ra vài kịch bản mà tôi có thể sắp xếp vai phản diện dành riêng cho cô ta. Người phụ nữ bán đứng người yêu. Người phụ nữ giết chồng cướp tài sản. Người phụ nữ dẫn đường cho giặc. Người phụ nữ ngoại tình trong đêm.

Tôi đắn đo không biết có nên chạy ra nhặt lấy bằng chứng mà cô ta để lại hay không. Một phần trong tôi dự cảm rằng dính dáng đến cô ta sẽ không đem lại chuyện tốt lành. Phần còn lại thôi thúc tôi giữ lấy nó rồi kể lại cho người ấy chuyện tôi đã chứng kiến cô ta bỏ chạy như thế nào, chuyện người đã bị phản bội ra sau. Khát vọng trở thành người hùng đã chiến thắng, trước khi đi tôi xác nhận lại một lần nữa cô ta có quay lại hay không, rồi rón rén mở cửa chạy ra nhặt lấy vật chứng.

Trời đã hửng màu xanh khởi đầu buổi bình minh. Trùng hợp làm sao thứ tôi cầm trên tay là một chiếc vòng cao cấp đính đá màu xanh lam mà tôi đoán rằng cô ta được tặng như món quà của cuộc tình này. Cánh cửa nơi cô ta đi qua đã được khoá lại. Căn phòng nơi cô ta ở vẫn còn thắp đèn. Vậy là tôi đã nắm được tình hình hiện trường và sẵn sàng ra toà làm chứng. Giờ tôi chỉ việc quay về cái hộc và chờ sáng hôm sau sự việc được phát giác công khai.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
7. Nàng Lọ Lem
e4f0ac29.gif
b6e0957f.gif
aac1e757.gif
86627b4c.gif
4893c975.gif
df7946a8.gif
f037bafe.gif
751256ef.gif
870025ee.gif

17dd745caa7ed4c5181150407987.jpg

7. Nàng Lọ Lem



Tiếng chuông tháp canh đánh thức tôi giữa cơn say ngủ, khiến tôi choáng váng bật dậy trong trạng thái đầu óc vẫn đang chờ loading.

Căn phòng trống trơn không một bóng người còn chăn gối đã được sắp xếp ngăn nắp. Hẳn mấy thím nấu bếp đã quên khuấy mất cái thân nhỏ xíu của tôi được giấu trong cái hộc để chăn, vì ngay khi tôi đứng lên vài ba tấm chăn đã xếp nếp đổ xuống nằm ngổn ngang dưới đất.

Dưới sân đang tổ chức một buổi họp mặt. Tôi đoán thế vì binh sĩ và khách dự tiệc hôm qua đang tập trung quanh cái bục cao nơi người đàn ông tóc vàng là chủ tọa.

Bầu không khí có vẻ căng thẳng, vì tôi nghe thấy giọng hai người đàn ông sang sảng đối đáp nhau theo cách không mấy hòa nhã, còn đám đông thì thi thoảng lại la ó rần rần. Hôm nay có vẻ lại có thêm khách mời, vì xen giữa số đông nhóm người mặc áo choàng đỏ là một nhóm khác chỉ cỡ chục người đứng cùng nhau trong chiếc áo choàng xanh dương.

Nổi bật nhất trong số họ là một vị thủ lĩnh cũng có mái tóc màu vàng và trang phục đính kim sa cao cấp, đang ra sức chỉ trích một ông khách lòe lẹt trong bộ độ đính đá quý và chiếc mũ lông công.

Không biết vì chuyện gì, hai bên xanh đỏ đều có vẻ hung hăng và xem chừng sắp lao vào hỗn chiến.

Tôi vẫn tiếp tục công việc hôm qua là lúi cúi trong bếp chuẩn bị cái gì đó để ăn. Căn bếp hôm nay nhộn nhịp hơn hẳn vì mọi người đều bận xầm xì to nhỏ chuyện xảy ra ngoài kia, nên chẳng ai buồn để ý sự có mặt muộn màng của tôi. Khi đang loay hoay nhồi rau củ vào trong một con gà, tôi bỗng nghe thấy tiếng đám đông la hét thất thanh. Một chị hầu gái chạy vào nói gì đó khiến mọi người đều đổ ra ngoài đứng xem. Tôi cũng vội vã theo chân họ.

Đám đông đang di chuyển về hướng cổng lâu đài, ào ạt đổ ra như đàn kiến vỡ tổ. Thật khó để hiểu được tình huống hiện tại khi gặp rào cản ngôn ngữ như thế này. Tôi chỉ có thể trông thấy người ta kéo nhau bu quanh một cái gì đó rồi di chuyển dần xuống đồi. Trong số những người ở lại, nhóm chiến binh áo xanh và vị thủ lĩnh của họ, đang theo bước vị chủ nhân lâu đài tiến vào một căn phòng gần đó.

Khi lượng khách giảm đi cũng đồng nghĩa với không có mấy việc cần làm, và tôi cứ ngồi mãi ở bật thềm ngắm nhìn mấy thím nấu bếp loanh quanh hái rau nơi mảnh vườn nhỏ.

Trông tôi thật giống chú gà con đang đi lững thững đằng kia, đưa mắt dáo dác khắp nơi tìm kiếm gà mẹ mà chẳng thấy đâu. Sáng nay Fig và bác Paul đã đi đâu mất, và từ ngày hôm qua tôi đã không nghe thấy tiếng sủa của Berry.

Tôi tự hỏi không biết mọi người có lại bỏ quên mình mà trở về nơi vùng quê hẻo lánh kia hay không. Nếu thế thật thì tôi sẽ buồn-khá-là-nhiều. Phần còn lại của nỗi buồn-khá-là-nhiều đó lạ thường ở chỗ tôi biết mình sẽ tiếc nuối nếu buộc phải rời xa nơi này.

Thi thoảng, bóng dáng một tà ảo đỏ lướt qua trên dãy hành lang không thể nào khiến tôi không chú ý đến. Tôi đã chờ đợi một điều gì đó mà tôi biết sẽ không bao giờ có thể chạm vào.

Vị khách mới có vẻ rất được các chị hầu gái ngưỡng mộ, vì tôi thấy họ tranh giành nhau chiếc ga trải giường và lọ cắm hoa trước khi bước vào căn phòng của người đàn ông kia. Khi người kia trên đường trở về phòng và chạm mặt cả nhóm nơi ngã rẽ cầu thang, trong ai cũng bẽn lẽn và cố tỏ ra dịu dàng như thể những cái quát vào mặt nhau ban nãy chỉ là trò đùa của những cô hầu rỗi rãi.

Vào bữa ăn tối hôm ấy, tôi có cảm giác họ trở nên xinh đẹp và chăm chỉ hơn hẳn ngày hôm qua. Món ăn vừa được đổ ra đĩa đã thấy vài người trong số họ xắn tay áo lên bê đi mất. Một trong số những chị gái ấy, người mà theo tôi nhớ hôm qua vẫn còn mặc chiếc tạp dề chắp vá chằng chịt, hiện đang mặc một chiếc mới cóng tinh tươm. Và khi họ trở ra từ đại sảnh đường, không còn sự xuất hiện của những cái chau mày khó chịu và những khuôn mặt thất thần, tất cả đều tươi tắn như những bông hoa được tưới nước sau ngày nắng nóng.

Công việc lau dọn hành lang bằng cây lau cao gấp rưỡi cái thân nhỏ xíu này rốt cuộc cũng đến tay tôi và hai chị gái xui xẻo khác, một chị mặt tàn nhan và một chị lúc nào cũng trong bộ dạng co rúm như một bé nhím con. Có lẽ vì tôi là đứa bé nhất, nên hai người họ đã giúp tôi múc nước từ dưới giếng, nhiệt tình chỉ tôi cách vắt miếng giẻ rách trên đầu cây lau và mang giúp tôi cái xô lên cầu thang.

Hành lang tầng ba sáng hoắc ánh đuốc nhưng hầu như chẳng có bóng người. Dù sao cũng không ai để ý, thế là tôi nghĩ ra cách cứ khoảng vài chục phút lại kéo lê cái xô trên hành lang, mỗi lần lại vung vẩy nước ra nền để trông như thể chỗ ấy vừa được lau xong chưa kịp ráo. Thời gian còn lại tôi ngồi ngắm trăng sao và bầu trời màng đêm huyễn hoặc, mường tượng những kỷ niệm hạnh phúc khi còn được ở nhà. Sẽ ra sao nếu tôi quên mất mình là ai, quên luôn cả đường về nhà và chết đi để lại cha mẹ và bà ngoại vẫn luôn mòn mỏi ngóng tin tôi từng ngày.

Nỗi sợ hãi thoáng qua đó dẫn tôi đến một suy nghĩ táo bạo: Nếu tôi tìm đến vị chủ nhân lâu đài đã tử tế cho tôi ăn ngày hôm qua và nhờ cậy một sự giúp đỡ, liệu người ấy có tốt bụng liên lạc với cảnh sát hoặc đại sứ quán để đưa tôi về nhà hay không?

Hẳn là người ấy sẽ thế, hẳn là người ấy phải thế, vì chỉ một ánh mắt cũng đã biết người ân cần với tôi biết nhường nào. Một người ân cần như thể hẳn sẽ không bỏ mặc một hoàn cảnh khó khăn trong mảnh đời xa lạ này mà không đưa tay ra giúp đỡ.

Tôi cứ miên man trong suy nghĩ và nhúng đi nhúng lại miếng giẻ trong xô nước không biết đến bao giờ. Rồi tôi nghe thấy giọng nói thân thuộc cùng tiếng bước chân anh đang đi lên cầu thang.

Nỗi xấu hổ ập đến khiến tôi vứt cây lau vào vách tường và nép mình vào một góc khuất. Bóng anh đổ trên nền đất cùng một người khác đang nhanh chóng tiến đến chỗ tôi khiến tôi càng nín thở rút mình sâu vào bên trong cho đến khi bờ vai đụng phải cái gờ cửa sổ.

Cách đó vài bước chân, hai người họ biến mất vào trong một căn phòng, rồi từ khung cửa sổ tôi vừa va vào hắt ra thứ ánh sáng mờ mờ của những ngọn nến vừa thắp. Từ đây tôi có thể nghe rõ tiếng trò chuyện của hai người.

Đối phương rõ ràng là người áo xanh kia đang thản nhiên ngã lưng trên chiếc giường chạm trỗ hoa văn tinh xảo. Ngược lại, vị chủ nhân lâu đài chỉ khoanh tay trước mặt đừng nhìn như thể chính anh mới là khách trong căn phòng này.

Họ bàn luận vấn đề gì đó rất sôi nổi, đến mức tôi nghe thấy tiếng anh cười, những tràng cười vô cùng thoải mái mà tôi chưa từng trông thấy từ khi đến đây. Hai người họ có vẻ rất thân nhau, trái với ấn tượng ban đầu sáng nay khi cấp dưới của họ có vẻ xem nhau như cái gai trong mắt.

Trong suốt cuộc trò chuyện giữa hai người đó, tôi chú tâm lắng nghe mặc dù không hiểu nổi lấy một từ. Tôi biết điều tôi đang tò mò. Tôi biết điều tôi đang tìm kiếm. Tôi đang chờ đợi một cái tên, một danh xưng để mỗi khi tôi nhắc về anh, nhớ đến anh sau khi rời xa nơi này, sẽ không còn là một danh từ chung chung "người đàn ông ấy".

Có một từ mà người áo xanh kia đã lặp đi lặp lại nhiều lần, và vị trí xuất hiện của nó giống với cách mà chúng ta thường dùng để gọi tên một người.

Tôi ngắt vội lá và nhánh một chậu cây cảnh gần đó để khắc lên cái từ tôi vừa học được rồi kẹp nó vào cái khăn che đầu, lòng thầm ước rằng tôi đã đúng.

Lúc này trăng đã lên cao, tôi cứ nấn ná ở đó mãi, phần vì không biết làm sao với cái xô lau nhà, phần vì tôi muốn chờ được gặp anh. Đêm đã khuya mà sao họ vẫn còn chưa chịu ngủ. Thế là tôi nằm cuộn tròn trên nền đá mặc kệ hết mọi sự trên đời, tôi mệt và tôi nhắm mắt, giấc ngủ nhanh chóng ập đến đưa tôi vào cõi chiêm bao.

Không biết làm cách nào mà tôi tỉnh dậy trong một cái phòng nhỏ xíu đầy đủ giường tủ và một cái bàn con. Căn phòng trông giống phòng ngủ riêng tư của một gia nhân trong nhà mà tôi đoán chừng phải có chức vụ đặc biệt nào đó để được đặc cách có phòng riêng.

Vừa mở cửa bước ra, tôi va phải Fig đang chạy quanh tìm tôi và bị nó mắng một trận xối xả. Mắng xong rồi, nó lôi tôi qua khu bếp chào mọi người và ông bếp trưởng, người vừa chìa ra một đống tiền xu cho bác Paul khiến bác cười ngoác đến tận mang tai. Vừa quay qua quay lại đã thấy con ngựa đã được dống vào xe để chuẩn bị khởi hành, tôi chỉ có ít thời gian để đi tìm tấm áo choàng bọc trái cây hôm trước và quên khuấy mất chuyện tôi định làm ngày hôm qua.

Khi cỗ xe lăn bánh rời khỏi cổng lâu đài, tôi vẫn còn ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Berry cứ nhào vào lòng tôi ngoe nguẩy cái đuôi và hào hứng chồm lên để tôi phải ôm lấy nó. Còn thằng Fig chìa cho tôi mười đồng xu mà tôi đoán là tiền công tôi được trả cho công việc lặt vặt hai hôm nay. Với món tiền này chúng tôi sẽ không lo chết đói trong vài ngày tới. Nhưng mà... thế còn việc trở về của tôi thì sao?

Tôi hết nhìn bác Paul, người đang vừa đánh xe vừa huýt sáo, đến nhìn thằng bạn đang vui vẻ ăn túi trái cây tôi vừa cho, rồi đến ngọn đồi tòa lâu đài vừa bỏ lại sau lưng mà trong lòng như chết lặng.

Những giọt nước mắt trong tôi cứ dâng lên, dâng lên khiến mũi tôi nghẹn đắng và hai dòng lệ tuôn rơi. Tôi òa khóc nức nở khiến cả những người đang đi hai bên đường đều nhìn tôi chằm chằm. Tôi không quan tâm, tôi không thể quan tâm nữa. Mặc cho đứa bạn cứ vỗ về và Berry dụi người vào lòng tôi như an ủi, bác Paul thậm chí còn dừng xe lại chờ cho tôi nín khóc, tôi vẫn cứ mếu máo mãi thôi. Một cảm giác bất lực trong tôi bùng nổ như ngọn núi lửa. Tôi cứ nghĩ mãi phải làm sao, phải làm sao bây giờ. Tôi nhớ nhà và muốn được trở về nhà. Nếu cứ ở mãi nơi đồng quê kia thì làm sao tôi có thể về nhà được đây.

Dẫu vậy, khi đã qua rồi cơn bùng nổ, tôi vẫn ngoan ngoãn trèo lại lên xe vì tôi biết nếu không có Fig ở cạnh tôi thì tôi sẽ chết. Tôi nằm dài trên xe nhìn bầu trời buổi sáng trong xanh, để mặc hai dòng nước mắt lăn dài rồi khô đi thành bụi muối.

Quãng trường nơi chúng tôi đi qua trước khi ra khỏi lớp tường thành cuối cùng tụ tập rất đông người đứng xem. Trên đỉnh một cây sào, một thân thể treo lững lơ trên ngọn thòng lọng đã bắt đầu thu hút bọn quạ bay đen trên trời.

Chiếc mũ lông công cùng bộ đồ đính đá được truyền tay nhau, đến cuối cùng khi những thứ trang sức lòe loẹt đã chẳng còn hiện diện trên bộ y phục màu tím sẫm, chúng được vứt giữa đường như một thứ hàng bỏ đi. Cho đến khi một đứa trẻ lang thang nhặt lấy chúng, cái mũ trơ trọi được đội lên đầu còn tấm áo khoác rộng thùng thình được mặc tròng bên ngoài bộ đồ rách rưới, quãng đời bộ trang phục lại một lần nữa được tái sinh.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
8. Một đồng vàng
cb576d28.gif
4bb10a61.gif
09ed8399.gif
ce75dd64.gif
ce760817.png
79abbe13.gif
3842f354.gif
8189d5ec.gif
ec04dca5.gif

8. Một đồng vàng

Mỗi khi cảm thấy bất an tôi đều lén lúc khóc trong nhà vệ sinh. Cảm xúc ấy có lẽ quá tầm thường vì ai cũng bảo sao cứ khóc mãi toàn những chuyện bé tí hin.

Mỗi khi tôi xuất hiện trong bộ dạng mắt đỏ hoe và mũi khụt khịt, sẽ luôn có những lời bình phẩm rằng "lại sao thế?", "con bé đó lại khóc nữa à?". Vậy nên tôi đã học cách che giấu nó đi.

Mỗi khi khoé mắt bắt đầu cay cay, tôi luôn cố lau vội đi trước khi có ai trông thấy, rồi vừa cười vừa nói như thế chẳng có gì.

Và nếu xảy ra chuyện giống như hôm nay, tôi sẽ luôn tự trách mình đã không kiềm nén để người ta trông thấy bộ dạng xấu hổ thiếu khôn ngoan.

Đêm nay cũng thế.

Sau một ngày ngổn ngang và bộn bề, tôi ngồi co ro trong chiếc chăn mỏng dính bên đống lửa, lặng lẽ rơi nước mắt sau khi Fig và Berry đã ôm nhau say giấc nồng.

Tôi nghĩ về những chuyện đã qua, những nơi tôi đã đi, những người tôi đã gặp, và về cái người trên giá treo ở quảng trường. Mọi điều tôi biết về đất nước này thật mông lung. Một sự việc kinh khủng như thế xảy ra trong địa bàn dân cư mà không có bóng dáng cảnh sát hay cấp cứu đâu.

Câu hỏi về cái chết của người kia cứ quanh quẩn bám lấy tôi khiến tôi không sao chợp mắt.

Có phải đó đơn thuần là một tai nạn, hay là sản phẩm của một vụ giết người? Liệu chủ nhân toà lâu đài và người áo xanh kia có liên quan gì đến cái chết ấy hay không? Vì sao tối hôm đó anh lại cười? Ngẫm lại thì cách anh cười vào cái đêm hôm đó chứa đầy sự ngạo nghễ đắc thắng, khiến tôi cảm thấy mình hoàn toàn là một trò đùa lố bịch trong câu chuyện này. Liệu anh có giả vờ đối tốt với tôi, như cách những kẻ bắt cóc trẻ con dụ dỗ những đứa trẻ trước khi ra tay đưa chúng vào tròng? Liệu rằng sẽ có một ngày, người tiếp theo trên giá treo cổ ấy sẽ là tôi?

Tôi khóc vì thấy mình ngu dại quá. Tôi đã ảo tưởng đến mức nào mà tin tưởng người ta vô điều kiện khi mới vừa gặp lần đầu.

Dẫu vậy, một tia hy vọng vẫn tồn tại trong tôi, nhắc nhở tôi không nên suy đoán viễn vông mà hay tin vào lý trí. Chẳng có bằng chứng nào chỉ ra anh có liên can đến sự việc kia. Thời nay còn mấy ai vừa cai quản lâu đài vừa cai quản cả vùng đất xung quanh như lãnh chúa phong kiến nữa đâu. Dù anh có là chủ đất, tôi cũng không thể vô lý đổ tội cho anh vì một sự việc đổ máu trên mảnh đất chỉ được viết tên anh trên mực giấy.

Tôi lấy chiếc lá khắc tên ra khỏi chỗ cất giấu, ngón tay mân mê từng nét chữ trên đó. Tôi không biết cách viết tên anh, và tôi không rõ đây có phải là tên anh hay không. Giá như tôi biết chữ, giá như tôi nghe hiểu những lời họ nói, tôi sẽ không phải hoang mang khổ sở như thế này. Nếu tôi biết chữ, tôi sẽ nhanh nhạy hơn trong việc phán đoán cái gì tốt cái gì xấu cho mình. Nếu như tôi biết chữ, thì đường về nhà sẽ chẳng còn mất hút xa xôi.

Khi đã trấn tỉnh bản thân bằng những ý nghĩ tươi sáng hơn, tôi lim dim thiếp đi trong tiếng ru tí tách của đám lửa hồng.

Sáng hôm sau, quyết định trở nên bận rộn hơn để quên đi những ưu phiền vừa mới chớm nở, tôi tắm sớm trong tiết trời lạnh queo lúc trời chưa sáng tỏ và lon ton theo Fig đi chăn cừu. Tiếng kim loại va vào nhau lẻng xẻng trong cái túi quần của tôi khiến đứa bạn ái ngại dẫn tôi ra một góc căn chồi, đào một cái lỗ rồi trút hết mười đồng tiền xu xuống đó. Khi chúng tôi đang lấp đất dở dang, cảm giác cộm cộm sau lớp vải áo khiên tôi thò tay vào túi lôi ra thêm một đồng vàng không biết nguồn gốc từ đâu.

Hai đứa tôi đưa mắt nhìn nhau đầy kinh ngạc.

Thằng Fig cầm lấy đồng vàng sáng bóng nghi ngờ nhìn tôi như muốn hỏi "Cậu lấy cái này ở đâu ra?". Tôi huơ tay lắc đầu hoàn toàn không biết. Tôi thề là tôi không thó bất cứ thứ gì trong lâu đài chỉ trừ túi áo choàng và... cái vòng xanh lam. Nhưng cái vòng ấy là một tai nạn. Tôi không hề cố ý mang nó về nhà. Trước khi tôi nhận ra phải làm gì với cái vòng ấy thì tôi đã ngồi trên chiếc xe cọc cạch về gần đến căn chồi. Dẫu sao thì, chuyện quan trọng trước mắt không phải là cái vòng. Làm sao mà tôi biết được đồng vàng ấy từ đâu chui ra nằm trong túi áo tôi như một sự sắp đặt đáng nguyền rủa như thế chứ.

Sau khi lưỡng lự một hồi, hai đứa tôi quyết định thả đồng vàng chung với đống tiền xu và lấp đất lên, sau đó sửa soạn cùng Berry lên đường.

Đàn cừu của Fig không con nào còn mặc chiếc áo lông mềm dày như những đụm mây. Thì ra chỉ trong mấy ngày chúng đã bị cạo sạch sẽ nhằm chuẩn bị cho mùa kéo sợi và đan len. Nhìn bọn chúng ốm nhom đỏ hỏn khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Nhưng chẳng mấy chốc sự đồng cảm ấy tan biến như bụi cát. Thoát được đám lông nặng nề đó, bọn cừu trở nên nhanh nhẹn hoạt bát hơn khiến ba đứa tôi đuổi theo bở hơi tay.

Những ngày sau đó tôi vẫn tiếp tục đi chăn cừu như một cách học việc. Dần dà tôi đã đọc được đường đi nước bước của bọn này và nhận ra không phải cứ liều mạng đuổi theo tụi nó thì sẽ được việc. Berry cũng đang dần thành thục kỹ năng lùa cừu. Cứ cái đà này khi cu cậu lớn hơn sẽ hoàn toàn làm chủ được cuộc chơi trở thành đệ nhất chó chăn cừu trên cái thảo nguyên này

Công việc chăn cừu thật ra không hề bận rộn. Vì vậy Fig có nhiều thời gian dạy cho tôi cái này là cái gì, cái kia nói thế nào. Chẳng mấy chốc mà tôi đã nói được và nghe hiểu nhiều.

Tôi biết phải nói gì với ông chủ đàn cừu để nhận được tiền công là mấy củ khoai tây mỗi khi dẫn bọn chúng về chuồng khi trời chuyển tối. Thỉnh thoảng ông ta hào phóng hơn sẽ cho chúng tôi bắp cải hoặc mấy con cá muối khô.

Tôi cũng biết gọi vợ của bác Paul là "cô" khiến bà ấy thích lắm, thỉnh thoảng "cô" lại cho chúng tôi ít trứng và rau màu tự trồng trên mảnh ruộng quanh nhà. Fig nói bác Paul là "một người nông dân độc lập", tức là bác được quyền làm chủ mảnh ruộng của mình mà không phải làm thuê cho bất kỳ ai. Quanh đây cũng có vài nhà nông độc lập như bác, nhưng không ai biết đủ chữ để xin giấy thông hành và có con xe ngựa oách xà lách như bác. Đó là lý do vì sao bác hay đánh xe đi bỏ mối nông sản khắp các miền thị trấn và cả những vùng đất xa hơn.

Nếu bác Paul biết chữ, chắc chắn là bác biết phải đi học ở đâu.

Việc học tiếng của tôi với Fig dần dà bị chững lại, nguyên nhân là vì bác Paul định mở một sạp rau củ trong thị trấn nhờ món tiền tích cóp được cả đời, và bác rất cần có người phụ trông coi cửa hàng khi bác đi vắng.

Nhân dịp này tôi bàn với Fig hãy để tôi thay nó đi chăn cừu, còn nó theo bác Paul lên thị trấn tìm trường học chữ. Mỗi lần trở về nó có nhiệm vụ phải dạy lại cho tôi tất cả những gì nó được học ở trường. Đứa bạn cùng nhà không có vẻ gì muốn thực hiện kế hoạch này cho lắm.

Mặc dù nó tìm đủ mọi cách để lẩn đi nhưng tôi đã cố thuyết phục nó về những lợi ích của việc đi học. Khỏi phải diễn giải sâu xa, chính bác Paul là ví dụ tốt nhất cho thấy người biết chữ luôn luôn có triển vọng thành công hơn những người không biết rất nhiều. Đặc biệt là khi chúng tôi nghèo, thì việc học lại càng cần thiết để tự tạo cơ hội vươn lên vị trí khá giả hơn.

Vấn đề lớn nhất ở đây là chúng tôi không có dư dả tiền bạc. Mặc dù tôi đã đào đống xu của tôi lên và hứa rằng tất cả chỗ tiền này sẽ chỉ dành cho nó đi học, nhưng nó vẫn một mực từ chối.

Trước tình hình này, tôi phải lên kế hoạch cho đứa bạn cùng nhà thấy rằng tôi sẽ lo được cho chúng tôi tự cung tự cấp cái ăn lâu dài.

Hôm sau, tôi không đi chăn cừu mà cầm hai xu chạy quanh làng tìm mua một con gà mái mơ tuyệt đẹp và một cặp thỏ mới lớn. Sau đó tôi vào rừng nhặt cành cây về làm chuồng gà và chuồng thỏ. Tôi khá tự tin vào kỹ năng lắp ghép lego của mình, nên việc tạo ra một thứ gì đó bằng việc ghép nối chúng với nhau là một trải nghiệm khá thú vị.

Bằng một con dao gấp nhỏ mượn từ vợ bác Paul, tôi mài nhẵn cành cây và bắt chước cách người ta tước vỏ cây bện thành dây thừng từng được phát trên ti vi. Cũng phải mất ba ngày liên tục nhặt, đan và ghép, mãi cái chuồng gà mới ra dáng cái chuồng gà, và cái chuồng thỏ mới đủ vững chắc để giữ lấy cái mái che nắng che mưa.

Khỏi phải nói đứa bạn cùng nhà tôi đã kinh ngạc đến mức nào khi trông thấy thành tựu tôi dày công tạo lập, vừa đúng lúc con gà mái mơ ban cho chúng tôi quả trứng đầu tiên trong cái ổ rơm tôi tạo ra.

Không chỉ thử chăn nuôi, tôi còn thử trồng trọt trên mảnh đất quanh căn chồi. Mặc dù không có tí kinh nghiệm nào, tôi vẫn xới đất bằng cái cuốc tự chế như những gì từng nghe nói rồi chôn xuống bất cứ loại rau củ nào chúng tôi có mà tôi cho là có thể trồng được.

Vấn đề đầu tiên phát sinh là làm sao giữ thành quả không bị chim ăn. Tôi phải tự đi ra tận ruộng lúa mì xin về một mớ rơm sau thu hoạch và hy sinh một bộ quần áo để mặc cho con bù nhìn. Trông nó điệu đàng đến nỗi tôi dám cá không có một con bù nhìn nào khác trong làng này này đẹp rực rỡ như con bù nhìn của tôi.

Vấn đề thứ hai là vào đêm nọ tôi phát hiện một con cáo đang rình trộm mấy bé động vật nhà tôi. Berry vẫn còn quá nhỏ để đối phó với con vật khôn ranh đó. Và từ khi tôi chuyển hai cái chuồng vào trong căn chồi thì con cáo lại bắt đầu trò đào trộm nông sản vào ban đêm. Chuyện này dần thực sự trở nên rất đau đầu. Tôi không thể bỏ một món tiền lớn để mua một con bò chỉ để dùng đuổi con vật tinh ranh này vì có thể dẫn đến một số rắc rối lớn chẳng hạn như ruồi và dịch bệnh. Thế là tôi lại đi nhặt những khúc gỗ lớn hơn và ngồi bện dây thừng bất cứ khi nào có thể. Nhờ đó, hàng rào mới xây phần nào giúp tôi yên tâm bảo vệ những thành viên nhỏ trong nhà mình.

Tôi thậm chí còn thử làm chỗ ủ phân hữu cơ để bón cho cây trồng. Kết quả không thể nhìn thấy được ngay lập tức vì cần phải đợi ít nhất nửa năm để đống thực vật phân hủy thành chất có lợi cho cây.

Ngày tiễn Fig đi thị trấn cuối cùng cũng đến. Tôi dúi hẳn vào tay cậu ta ba xu và dặn dò nhất định phải mua giấy bút để ghi chép lại cho tôi. Khi cậu ta đi rồi, tôi và Berry cứ nhìn theo mãi cho đến khi bóng dáng cỗ xe biến mất sau những rặng cây.

Không có Fig ở nhà thật ra tôi thấy lo lắng lắm. Tôi chưa từng tự nhóm lửa bao giờ, cũng không biết cách chăm sóc cho Berry. Trước giờ toàn là Fig chăm sóc cho hai đứa tôi còn tôi chỉ đi theo cậu ta như một sinh vật hội sinh. Mặc dù đã có thể nghe nói được một ít nhưng tôi vẫn chưa thuần thục và vẫn phải sử dụng ngôn ngữ hình thể là chủ yếu. Vậy nên tôi rất sợ cảnh tượng người ta phát hiện ra tôi là người ngoài.

Còn một điều quan trọng hơn tất thảy, tôi không nghĩ việc một đứa trẻ con, đặc biệt là trẻ em gái, sống một mình trong căn chồi tồi tàn giữa rừng là một ý kiến hay. Tất nhiên trí não của tôi hoàn toàn vượt xa với dáng vẻ bề ngoài, nhưng điều đó không có nghĩa tôi có đủ sức tự bảo vệ mình trong những tình huống khẩn cấp.

Tôi đã thử suy tính đến việc rời bỏ căn chòi và đến ở với vợ bác Paul. Chưa bàn đến việc bác ấy có đồng ý hay không, thì việc rời đi cũng không hề dễ dàng gì. Tôi khá chắc đứa bạn tôi cất giấu gia tài tích cóp của nó đâu đó bên dưới cái chòi này, và việc cứ để đống của cải y nguyên vị trí của chúng mà không có ai trông coi hay là mang chúng theo bên mình đều dẫn đến kết cục khá nguy hiểm. Chưa kể nếu không có tôi, thành tựu được gầy dựng mấy ngày qua xem như đổ sông đổ bể.

Mất cả ngày đắn đo suy nghĩ, tôi quyết định sẽ bôi tro trát trấu lên người, theo đúng nghĩa đen.

Việc cải trang thành một đứa con trai không hề khó. Tôi đã tự đan cho mình chiếc mũ rơm và mỗi ngày tôi đều lăn lộn trên đất cho lấm lem nhất có thể trước khi ra ngoài. Tôi cắt ngắn bộ đồ của Fig cho vừa với chiều cao của mình và dẹp hết tất cả đống quần áo con gái kể cả bộ đồ của con bù nhìn.

Tôi định tự gia cố lại căn chồi, nhất là cửa ra vào và cửa sổ, nhưng lại không tìm được gỗ phù hợp và sức tôi không đủ để mang vác leo trèo. Thế là tôi tự làm một cái thùng có nắp đậy kích cỡ y như cái thùng ủ phân. Tôi lót một ít rơm và nhét cái mền vào đó, buổi tối tôi chui vào đó ngủ để không một kẻ tò mò nào có thể trông thấy tôi một mình trong căn chồi.

Mỗi khi ra ngoài, tôi hạn chế tiếp xúc với người khác nhất có thể, vì tôi không muốn người ta nhớ đến sự tồn tại của một đứa trẻ như tôi. Phần lớn thời gian tôi chỉ đi chăn cừu, gặp vợ chồng bác Paul nếu hôm đó đói ăn, rồi lại trở về căn chồi đóng kín cửa. Hai cái chuồng cũng được tôi cải tạo để có thể dễ dàng di chuyển vào căn chồi khi đêm xuống, và thế là tôi không phải đốt lửa xua đuổi thú rừng vào ban đêm.

May mắn làm sao Berry càng lớn càng béo múp ra cực kỳ khoẻ mạnh. Con gà mái tơ vẫn đẻ trứng đều đều mang đến cho chúng tôi một nguồn protein ổn định. Cặp thỏ cũng đã đẻ lứa đầu tiên vừa đúng lúc vườn rau củ đang độ tốt tươi. Và Fig cũng trở về thăm tôi trông bộ dạng tươm tất rất ra dáng một cậu học trò. Khỏi phải nói cậu ta cười ngất khi trông thấy mấy việc tôi làm khi cậu ta không có ở nhà.

Tối hôm đó hai đứa tôi lại đốt đống lửa to, rồi nằm bên đống lửa kể nhau nghe những trải nghiệm mới mẻ của mình. Cậu ta không quên lời hứa dạy cho tôi tất cả những gì cậu ta học được trong thời gian qua. Với trí óc của tôi, việc học và ghi nhớ tất cả những thông tin ấy trong thời gian ngắn chỉ là chuyện nhỏ. Vậy là cứ liên tục như thế, mỗi khi Fig trở về, bọn tôi lại cùng nhau đi chăn cừu, cùng nhau học chữ, cùng nhau đi phá làng phá xóm.

Đó có lẽ là quảng thời gian tươi đẹp nhất của tôi gắn liền với ngôi làng heo hút âý.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
9. Những giọt nước mắt đắng cay
bc954ddb.gif
3732ab47.gif
8e24d67a.gif
e2bafc2f.gif
01000882.gif
b733bace.gif
bbd7092f.png
c25c94e1.gif
b03bb19b.gif

9. Những giọt nước mắt đắng cay

Suốt mùa đông năm ấy khi trời rét run và tuyết rơi dày phủ lên ruộng đồng một màu trắng xoá, chúng tôi may mắn được tá túc bên dưới mái ấm nhỏ của vợ chồng bác Paul.

Ngôi nhà gỗ mộc mạc vốn đã chật chội nay lại càng không có chỗ đặt chân. Mỗi đêm, hai đứa chúng tôi đều chỉ có thể nằm sát bên tấm chắn lò sưởi bất chấp củi lửa cháy hừng hực mà chí choé xem ai được gác chân lên người ai. Lần nào Berry cũng cố chen chân vào cuộc chiến đó bằng cách chui vào giữa hai đứa tôi, hoặc ngồi lên người bọn tôi với cái thân chẳng còn bé bỏng gì nữa. Con gà mái mơ cứ chui rúc trong đống lộn xộn dưới chạn bếp, thỉnh thoảng lại ra góp vui bằng cách leo lên đầu khi cả bọn đang ngủ mê man mà không ngừng cục ta cục tác. Đàn thỏ được chúng tôi giữ chung chuồng với anh bạn ngựa to lớn để kiềm hãm quân số qua cái mùa thiếu ăn.

Cô Bennett bảo chưa mùa đông năm nào mà ngôi nhà lại được dịp nhộn nhịp như thế. Bác Paul đã từng cố thuyết phục Fig về ở luôn với vợ chồng bác, nhưng lần nào nó cũng từ chối. Chỉ khi mùa gió buốt kéo tới nó mới gom hết đồ đạc chuyển qua đây, vì căn chồi trống hoác trống huơ không thể cản nổi cái lạnh lúc nào cũng thường trực bên cửa.

Vào những mùa đông như thế, hai bác cháu thường đi câu cá trên sông băng nhằm tìm kiếm nguồn lương thực thay thế cho cây trồng đã héo khô trên những mảnh ruộng cằn cõi. Vì không thể trồng trọt, hun khói con lợn duy nhất trong chuồng là cách để đảm bảo cả nhà không đói ăn trong mấy tháng ròng. Bác Paul luôn là người gánh vác công việc nặng nề này, còn người phụ nữ duy nhất trong nhà, cô Bennett luôn nhận nhiệm vụ đan rổ từ cành liễu và gỗ cây vát mỏng với hy vọng sẽ bán được chúng trong phiên chợ thị trấn.

Nhập môn đan rổ đòi hỏi nhiều sự tỉ mỉ hơn tôi tưởng. Nếu không tập trung và bỏ quên một mối đan, việc phải tháo bỏ tất cả và làm lại từ bước sai tốn khá nhiều thời gian và mang đến một thử thách lớn cho lòng kiên nhẫn. Dẫu vậy khi tôi sai nhiều cũng là lúc tôi học được nhiều, và dần dà tôi đã tạo ra được chiếc rổ đan đầu tiên của riêng mình mặc dù trông nó vẫn còn vụng về lắm.

Khi mùa đông trôi qua và mùa xuân đến, tôi đã thuần thục món nghề này và đã bán được vài xu thành phẩm. Vì vậy tôi quyết tâm biến nó thành nghề tay trái bên cạnh công việc chăn cừu.

Tôi mê mẩn quay cuồng bên những chiếc rổ đến nỗi, có khi tôi ngủ quên giữa buổi chăn cừu vì đã thức suốt đêm qua tự mày mò kiểu đan mới. Công sức đó mau chóng được đền đáp khi cô Bennett liên tục bán được những chiếc rổ kiểu dáng mới của tôi với giá cao. Vừa nhận được tiền, chúng tôi ngay lập tức ăn mừng bằng một cái đùi dê nướng thơm phức. Tôi cũng không quên mua cho Fig một cục xà phòng mỡ lợn và một bộ đồ mới cóng thay cho những bộ đồ đã bị tôi cắt sửa te tua. Niềm hạnh phúc được tiêu pha những đồng tiền vất vả kiếm được đã cuốn lấy tôi bằng sức cám dỗ mạnh mẽ vô cùng.

Xuân qua rồi lại xuân đến, thấm thoắt tôi đã lưu lạc được hai năm. Vào một ngày, tôi vẫn nhớ như in trời âm u và mưa kéo dài từ tối hôm trước đó. Vừa mở cửa vào sáng sớm, cái ao cạnh căn chồi đã đầy tràn thu hút hai mẹ con bé hưu sao ghé thăm. Vừa nhìn thấy tôi, hai đứa nó giật mình đứng yên cảnh giác, sau đó nhanh chóng bỏ chạy mất hút vào rừng khi Berry đột ngột nhào đến tiếp cận chúng như một trò đùa tinh quái.

Tôi và Berry đang chuẩn bị đi chăn cừu như mọi khi. Trên con đường mòn dẫn đến nông trại của ông chủ đàn cừu, những vũng lầy chèm nhẹp đã khiến tôi phải nhảy tới nhảy lui tìm chỗ khô ráo đặt chân. Ngược lại, Berry cứ khoái trá lao vào đám cây bụi bờ đẫm nước rồi lại nghịch ngợm lắc mình cho nước văng tung toé, buộc tôi phải lớn tiếng mắng nó suốt cả quãng đường mà nó đâu có thèm nghe. Thằng nhóc giờ đã là một chú chó trưởng thành và nó đủ sức vật tôi ngã lăn quay nếu tôi càu nhàu quá nhiều. Nhưng đa phần nó thích chu cái mỏ lên cãi lại khiến tôi xấu hổ không biết giấu mặt đi đâu. Trông chúng tôi như hai đứa trẻ con đang cãi nhau ba cái chuyện vặt vãnh. Chuyện hai đứa mỗi sáng đều vì một lý do nào đó mà cực kỳ ồn ào như thế, dường như sắp trở thành tiếng chuông báo thức đặc trưng riêng ở ngôi làng này.

Sau khi lùa đàn cừu đến bìa rừng, nơi có cỏ mọc dày gần hàng liễu roi mà tôi chưa có dịp cho chúng dạo quanh bao giờ, tôi quyết định nơi này vừa đủ thích hợp để làm điểm đóng chân.

Những cành liễu rũ dài xuống đất như một chiếc ô khổng lồ được bao phủ bởi hằng hà những sợi dây tua rua tạo ra một khoảng không gian riêng tư rực rỡ. Khi tôi buộc chúng lại với nhau để không che đi tầm nhìn giữa tôi và đàn cứu, vô tình tạo thành hình những chiếc rèm che cửa sổ, khiến tôi tưởng mình đang ở trong một vọng lâu được bao quanh bởi những ô cửa kính khổng lồ giữa một rừng hoa. Nếu thế tôi sẽ vào vai một cô tiểu thư duyên dáng hiền thục đang tự tay làm món quà cho người mình yêu. Và đó là cách tôi lấy động lực lôi đồ nghề ra, ngồi dưới tán cây và bắt đầu công việc của mình.

Giữa trưa mây mù bắt đầu tan và những tia nắng mùa hè dần lan toả. Cái không khí nồm ẩm càng làm dậy lên mùi đất và mùi hơi nước bốc lên từ những bụi cây. Tôi đang chuẩn bị bước vào công đoạn cuối cùng của chiếc rổ đan và định bụng sẽ hoàn thành sau khi xơi xong miếng bánh mì nâu độn cám mà cô Bennett nướng hôm qua. Thế nhưng cái lưng mỏi nhừ và mí mắt nặng trĩu buộc tôi phải nằm dài ra đất. Sau một đêm thức trắng vì dàn đồng ca của loài lưỡng cư và tiệc chè chén của các loài côn trùng mùa hè, giờ giấc sinh hoạt của tôi bị lệch đi và đã đến lúc rơi vào tình trạng sụp nguồn ngay lập tức. Tôi tự nhủ mình sẽ ngủ một tý thôi, chỉ cần sạc pin năm phút rồi đâu sẽ vào đấy cả.

"Năm phút" lười biếng đó đã đánh đổi một cái giá quá đắt cho cuộc đời này.

Khi tôi giật mình thức giấc là lúc tôi nghe thấy tiếng Berry sủa inh ỏi. Ánh trăng chiếu rọi màn đêm đủ để trông thấy đàn cừu đang bị thứ gì đó đuổi theo chạy toán loạn khắp nơi. Berry đã cố gắng sủa lớn tiếng nhằm đe doạ chúng phải rời đi, nhưng khi một trong số chúng nhào lên buộc Berry phải lao vào trận chiến, những con còn lại ngay lập tức ập tới con mồi.

Một con cừu non vừa bị cái thứ kia tóm được, nó kêu rên thảm thiết như tiếng em bé sơ sinh khát sữa mẹ, yếu dần, yếu dần rồi hoàn toàn lịm hẳn đi. Đôi mắt long lanh của nó ánh lên tia sự sống cuối cùng, còn cái cổ nơi những chiếc răng nanh nhọn hoắc ngoạm chặt ngoẹo hẳn sang một bên.

Sói! Không chỉ một mà đến năm con!
Tôi run rẩy lần mò tìm đá đánh lửa trong túi quần, cố giữ bình tĩnh trước nỗi khiếp sợ đang bao trùm lên tâm trí

Tôi run rẩy lần mò tìm đá đánh lửa trong túi quần, cố giữ bình tĩnh trước nỗi khiếp sợ đang bao trùm lên tâm trí. Cần phải có thứ gì đó để mồi lửa, tôi ngồi thụp xuống cố mò mẫm xung quanh. Vừa vớ được cái giỏ đan, ngay lập tức tôi chà sát hai viên đá vào nhau, cố bắt lấy những tia lửa yếu ớt.

Bỗng nhiên từ phía sau, tiếng răng rắc của một cành cây gãy phát ra khiến tôi chết đứng. Trong bóng tối, đôi con mắt long lên sòng sọc đang chậm rãi tiến đến chỗ tôi, mỗi lúc một gần.

Tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình như muốn vỡ tung trong lồng ngực.

Vừa cẩn thận xoay người đối mặt với con quái và lùi dần ra chỗ sáng, tôi vừa ra sức đánh lửa mạnh tay. Lửa vẫn chưa bén, nhưng con quái vật ấy vẫn tiến tới không ngừng.

Nó đang chờ cơ hội tóm lấy tôi như cách nó chầu chực ăn tươi nuốt sống những con cừu.

Không còn hy vọng nào để mồi được lửa, tôi đánh hai hòn đá vào nhau, cố la hét thật to như một tín hiệu giả cho nó biết tôi không phải một món mồi dễ ăn.

Thế nhưng, việc này chỉ khiến nhưng con còn lại trong đàn thú săn mồi chuyển hướng chú ý sang tôi.

Bọn nó bắt đầu bao quanh lấy tôi trong thế gọng kìm.

"Tầm này không chạy thì chỉ có chết."

Tôi hít một hơi thật sâu. 1... 2... 3... lấy hết tốc lực quay người chạy thật nhanh.

Vừa chạy đi chưa được vài chục bước, cảm giác đau đớn tột cùng ở chân cùng một sức nặng khủng khiếp quật tôi ngã xuống đất. Một con đang ra sức cắn chặt lấy chân tôi giữ cho bọn kia có thời gian lao đến.

Ngay khi đám còn lại nhe hàm răng nhọn hoắt định dứt điểm tôi bằng cú cắn chí mạng, một hình hài quen thuộc lao thẳng vào bọn chúng, không ngừng cắn táp điên cuồng.

Berry của tôi đang phải một mình chiến đấu với cả đàn sói.

Tôi đau quá. Máu cứ không ngừng chảy, còn thân thể này không sao cử động được nữa rồi.

Tiếng Berry dần lạc hẳn đi trong mớ âm thanh cắn xé hỗn độn.

Cố gắng chút sức tàn cuối cùng, tôi cầm hai viên đá lửa cọ vào nhau, mà mồi lửa chính là cái áo rách tôi đang mặc trên người.

Cuối cùng, lửa đã phừng lên như một ngọn đuốc.

Cảm giác đau đớn khủng khiếp ở chân dần chuyển thành cảm giác rát bỏng trên da thịt. Kỳ lạ thay, tôi không còn cảm thấy yếu ớt như ban đầu. Tôi đẩy người đứng dậy trên chiếc chân ban nãy đã nát tươm, bằng một sức mạnh thần kỳ nào đó mà đã ngừng ứa máu, thay vào đó là ngọn lửa rực đỏ từ đầu đến chân.

Tôi lao ngược về phía bọn chúng, biến mình thành một ngọn đuốc sống.

Đàn sói quay đầu bỏ chạy nhưng vẫn kịp cho tôi tóm lấy một con. Lông trên người nó bắt lửa từ tôi, khiến nó giãy giụa không ngừng.

Thảm cỏ tôi đi qua cũng bắt đầu bén lửa và lan ra.

Con ác quỷ chẳng mấy chốc đã bị thui đến chết, và đồng cỏ dần bị nuốt chửng với tốc độ lửa lan nhanh.

Những con sống sót trong đàn cừu đã chạy đi rất xa, để lại hai đứa tôi giữa bãi chiến trường đẫm máu.

Berry của tôi đang thoi thóp cạnh xác những con cừu, cả người đỏ hỏn toàn vết máu thấm đẫm bộ lông. Nó cứ rên rĩ gọi tôi, tiếng kêu yếu ớt ấy như xé nát trái tim tôi, ghim vào đó hàng vạn mảnh thuỷ tinh khiến tôi như uất nghẹn. Tôi chỉ muốn ôm nó vào lòng, cho nó dụi vào người tôi, nói với nó rằng "sẽ không sao đâu", như cái cách mà chúng tôi đã cùng nhau vượt qua những ngày đói khổ. Nhưng tôi không thể. Ngọn lửa địa ngục có lẽ sẽ không bao giờ tắt nếu không tiêu diệt được con mồi.

Cái cảm giác không thể ở bên cạnh người bạn mình yêu thương vào những giây phút cuối cuộc đời, đau đớn biết bao nhiêu.

Tôi gục xuống vị trí cách đó không xa, miệng không ngừng gọi tên chú chó nhỏ của mình.

"Berry à."

"Berry ơi."

Có lẽ là trăm lần, lần nào nó cũng đáp lời tôi, trung thành và run rẩy.

Nếu tôi còn có thể khóc, hẳn nước mắt đã lăn dài và nước mũi đã tèm lem. Nhưng tôi sẽ không bao giờ có thể khóc được nữa. Sẽ không bao giờ còn có thể ôm chầm lấy nhau, chia nhau miếng bánh mì, ủ ấm nhau khi gió lạnh ùa về, bảo vệ nhau những khi cô độc.

Berry của tôi, Berry yêu quý của tôi. Ước cho em luôn hạnh phúc ở kiếp sau.

Giữa biển lửa mênh mông, tôi không còn trông thấy Berry đâu nữa.

"Hai chiếc chuông báo thức sắp tắt mất rồi, Berry nhỉ." Tôi phì cười.

Chẳng còn tiếng gì đáp lại.

Không một âm thanh nào trên đời này còn tồn tại.

Không một thứ gì còn sót lại ở nhân gian.

Cơ thể tôi đã cháy thành than, đưa tôi vào cánh cửa địa ngục.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên