Kỳ ảo Trăng Trôi Về Đâu - cập nhật - W. J. E. CATAN

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
10. Tái sinh (1)

17e272dd921edb05604943417553.jpg

10. Tái sinh (1)


Tôi đã chết trên thảo nguyên, dưới bầu trời đầy sao và ánh trăng sáng tỏ.

Nhưng tôi cũng đã chết ở đây, dưới xà nhà rực đỏ và biển lửa ngút ngàn.

Những trảng khói đen cuồng cuộng sộc vào buồn phổi gây ra những cơn ho dữ dội như xé toạc phế quản, đồng thời rút cạn chút sinh lực còn sót lại.

Tôi kiệt quệ ngã đầu tựa vào thành ghế, cố gắng giật mạnh đôi bàn tay bị trói chặt sau lưng. Sợi dây cứa vào cổ tay hình như đã cắt sâu vào da thịt, chỉ một cử động nhẹ nhàng cũng gây ra nỗi đau đến xé người.

Ngọn lửa ngày càng lan đến gần, và xà nhà đang lũ lượt rơi xuống, báo hiệu thời điểm kết thúc của khối công trình. Thế nhưng cả cơ thể đã bị buộc chặt vào ghế khiến tôi không cách nào có thể thoát thân.

Tôi chỉ có thể giương đôi mắt vô vọng nhìn ngọn lửa, những giọt nước mắt bất giác tuôn ra, mang theo bao nỗi đớn đau bất lực đến cùng cực.

Mọi chuyện bắt đầu sai từ khi nào tôi cũng không rõ. Có lẽ là từ khi bước chân khỏi trốn nương thân quen thuộc. Nếu không ngu ngốc mở cửa trái tim mình thêm lần nữa, sẽ không bao giờ phải gặp lại nhau. Nếu không gặp lại nhau, nỗi thống khổ dị dạng sẽ không bị kéo lôi khỏi nơi ngụy trang của nó, để rồi len lỏi khắp mọi tế bào, lại một lần nữa tàn phá và cắn xé tôi mục ruỗng.

Hay có lẽ...

Có lẽ là từ rất lâu trước đây, từ thuở còn là một đứa hèn nhát, tôi đã mắc kẹt trong cái lồng giam của những nỗi sợ không tên, đến nỗi chẳng thể chống lại xiềng xích để tự giải thoát bản thân mình.

Cũng có lẽ... sai lầm từ khi tôi có mặt trên cõi đời này.

Giá như tôi chưa từng tồn tại, tôi sẽ vĩnh viễn trôi dạt như một hạt vật chất trong vũ trụ bao la, chẳng phải bận tâm điều chi, chẳng phải nhớ đến điều gì. Sẽ chẳng cần ai yêu thương tôi, cũng chẳng cần được ai che chở.

Nếu cái chết là điểm kết thúc của mọi giày vò tủi khổ, thật may vì điều đó sẽ đến sớm thôi. Biển lửa sẽ hóa xác tôi thành tro, để linh hồn tôi được tự do, mãi mãi không bao giờ trở về thế gian này thêm một lần nào nữa.

Vào thời khắc cuối cùng của cuộc đời, tôi vẫn chẳng thể nào thôi hủy hoại chính mình bằng những lời cay nghiệt như thế. Không một hy vọng vào kiếp sau, không một lời cầu nguyện được đến thiên đàng. Tôi cứ ngồi đó, bất động, thẫn thờ, và chờ đợi được chút bỏ hơi thở cuối cùng, để những cơn giằng xé cả thể xác lẫn tâm hồn không còn dày vò tôi thêm được nữa.

Mắt tôi dần nhòe đi. Tôi biết thời khắc ấy đã đến. Dòng lệ cuối tuôn ra, không xót xa, không vương vấn, đó là giọt nước mắt cuối cùng tôi để lại nhân gian.

...

Chẳng biết thời gian đã trôi qua bao lâu, tôi cứ lang thang mãi giữa hỏa ngục mênh mông, vô định không mục đích.

Và rồi từ phía xa, tôi trông thấy hai bóng hình mờ ảo bước ra từ ánh sáng chói lóa. Họ tiến đến nắm lấy tay tôi, đưa tôi bay lên bầu trời lấp lánh ngàn ánh sao sa, xuyên qua dải ngân hà, băng qua bóng tối vũ trụ miên man vô tận.

 

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
11. Tái sinh (2)

11. Tái sinh (2)


"Ann! Ann!" - Sâu thẳm trong giấc mơ, tôi nghe thấy tiếng ai gọi tên mình khiến tôi bừng tỉnh.

Không gian xung quanh tối mờ, đậm mùi gỗ mục và mùi hôi ê của thứ gì đó lên men. Bầu không khí cũ kỹ đầy bụi khiến tôi ho khan, những hạt bụi ngay trước mũi vì thế mà bay lên, dày đặc che lấp thứ ánh sáng mờ mờ xuyên qua khe hẹp giữa những tấm ván tường gỗ.

Khó khăn lắm tôi mới có thể chống tay ngồi dậy, đầu vẫn còn ong ong sau giấc ngủ dài. Có tiếng ai vọng ra từ bên ngoài bức tường, thì thào như thể không muốn bị phát giác.

"Ann! Cháu có ở đấy không?"

"Cháu đây, Paul. Chuyện gì đã xảy ra vậy ạ?" Tôi lóng ngóng trả lời.

"Đó là điều ta đang muốn hỏi cháu. Chuyện gì xảy ra thế Ann? Ta vừa từ thị trấn về sáng nay thì nghe tin cháu bị bắt đêm qua. Mấy tay chăn gia súc bảo đêm qua mưa to mà chưa thấy cháu dẫn cừu về nên bọn chúng đổ xô đi tìm. Chúng thấy cháu ngất cạnh bìa rừng còn đám cừu và đồng cỏ thì cháy rụi sạch. Vậy là lão chủ đồn điền tức điên lên sai chúng vác cháu về. May là một người làm trong nhà là người quen của ta nên mới hỏi được tung tích cháu đấy."

Tôi bần thần lục lọi trong ký ức, cố nhớ lại cảnh tượng kinh hoàng đã xảy ra. Tôi ngủ quên và bị đàn sói bao vây. Berry vì cứu tôi mà bị bọn nó cắn chết. Tôi đã đốt lửa hòng giết sạch bọn nó nhưng không thành. Và tôi đã chết, một cái chết anh dũng huy hoàng.

Nhưng rồi tôi nhìn lại bản thân mình, tay chân lành lặn, bộ đồ rách của Fig được thay thế bằng bộ đồ khác cũng cũ mèm nhưng không phải của Fig. Tôi còn sống, nghĩa là chuyện đêm qua chỉ là ảo giác được sản sinh ra khi đầu óc tôi quá kiệt quệ, hoặc chỉ là một giấc mơ. Mắt tôi dáo dác ngó quanh tìm kiếm Berry nhưng chẳng thấy nó đâu, sao lại thế nhỉ, rõ ràng chỉ là ảo ảnh thôi mà.

"Berry đâu rồi bác? Bác có biết Berry ở đâu không ạ?" Tôi hỏi.

"Ta không biết. Chẳng phải hai đứa đi với nhau sao?"

"Vâng, nhưng..." Tôi ngập ngừng không biết phải giải thích chuyện này như thế nào. Berry đâu rồi nhỉ. Nếu tôi chưa chết nghĩa là không có gì xảy ra với nó phải không? Ôi trời ơi, mong rằng không có chuyện gì xảy ra với nó. Chắc thằng nhỏ sợ quá nên chạy về căn chồi và đang đợi tôi về cho nó ăn cũng nên. "Có lẽ nó về nhà trước rồi. Thấy cháu đốt lửa lớn như thế hẳn là nó sợ lắm."

"Vụ đốt lửa là thế nào? Mà thằng nhóc Fig đã dặn cháu tuyệt đối không được dắt cừu về muộn rồi đúng không?"

"Vâng cậu ấy có bảo thế. Nhưng cháu lỡ ngủ quên mất, khi thức dậy thì đàn sói đã giết mấy con cừu rồi nên cháu phải đốt lửa để xua chúng đi."

"Vụ này khá gay go đây. Đám gia nhân đang kháo nhau rằng lão chủ đồn điền định bán cháu đi để đền bù thiệt hại cho đàn cừu và mảnh đất. Vậy nên Bennett và ta đã đi hỏi mượn ít tiền để chuộc cháu ra. Cái lão già tham lam khốn nạn ấy! Khi ta đến hỏi trực tiếp thì lão đòi đến cả một gia tài chứ đùa."

Nghe đến việc sắp bị bán đi khiến tôi sợ phát khiếp. Tôi đi đi lại lại, cố vắt óc nghĩ xem có cách nào để thoát khỏi cảnh này. Bỗng tôi chợt nhớ ra, có một thứ khá giá trị mà có lẽ sẽ cứu nguy tôi được phần nào.

"Paul, bác nghe kỹ lời cháu nói nhé. Trong căn chồi có một cái thùng gỗ to, to nhất trong mấy cái thùng ở đó. Nếu bác mở nắp ra và lục tìm trong đó sẽ thấy một chiếc vòng bạc đính đá màu xanh. Bác đem cái vòng ấy bán đi xem sao, nhưng phải trả giá cao vào. Lẽ ra cháu không được phép làm như thế nhưng chuyện đã lỡ rồi, cháu phải ra khỏi đây trước đã rồi sẽ tính đến chuyện chuộc cái vòng về sau. Ngoài ra trong góc trái căn chồi phía hồ nước, chôn ngay bên dưới cây cột là tất cả tiền tích lũy của cháu, dù không đáng là bao nhưng bác cứ cầm hết đi nhé. À mà còn những bộ quần áo, cháu có vài bộ quần áo khá đẹp và có vẻ cao cấp. Bác cứ bán hết chúng đi giúp cháu. "

"Cả đi lẫn về sẽ tốn kha khá thời gian nhưng ta sẽ gáng nhanh nhất có thể. Cháu có thể cầm cự được đến tối mai không?"

"Vâng."

"Được, vậy ta ngay đi đây."

"Nếu bác gặp Berry thì cho nó ăn giúp cháu nhé!" Tôi nói vọng theo trước khi tiếng bước chân người kia xa dần và tắt hẳn.

Hay là trốn khỏi đây nhỉ? Nhưng lỗi là do tôi thì phải thanh toán một cách sòng phẳng, nếu không sẽ làm liên lụy đến Fig và gia đình bác Paul mất. Nhưng liệu tôi có thật sự bình an thoát khỏi nơi này cho dù đã trả đủ số tiền chuộc hay không. Những câu hỏi tự đặt ra khiến đầu óc tôi xoay mòng mòng, căng thẳng đến nỗi cắn móng tay đến tứa máu. Thú thật là tôi rất sợ. Viễn cảnh bị đánh chết khi đang bỏ trốn cũng đáng sợ như cảnh bị đánh chết trong cái nhà này.

Tôi vừa nghĩ ngợi vừa đẩy nhẹ cánh cửa, đoán chắc nó đã được khóa từ bên ngoài. Bất thình lình có tiếng lách cách phát ra từ phía bên kia, cánh cửa bật mở cùng với đó là sự xuất hiện của ông chủ đàn cừu.

Vẫn như mọi khi, ông ta ném cho tôi cái nhìn hằn học và khinh thường đến mức khiến tôi co rúm cả người.

Tôi chưa bao giờ thích ông ta. Từ điệu bộ cho đến giọng nói của gã đàn ông ấy đều toát lên dáng vẻ của một lão trung niên bặm trợn và thô kệch. Bác Paul luôn gọi ông ta là "ông chủ đồn điền", một cách gọi lịch sự phù hợp với vị thế của ông ta trong cái làng này, nhưng đối với tôi lão chỉ là "gã chủ đàn cừu" không hơn không kém.

Ẩn sau thân hình to lớn đồ sộ nhờ được ăn uống no đủ trên mồ hôi xương máu người khác là một tính cách vội vàng và nóng như lửa, hở một tý lại chửi um lên mỗi khi có điều gì làm ông ta phật lòng. Không biết bao nhiêu lần tôi chứng kiến cảnh lão đánh những người chăn gia súc bằng bất cứ thứ gì trong tầm tay, khi thì cái cuốc, khi thì cái roi quất ngựa treo trên cửa chuồng. Những lúc như thế, tôi thường cố tránh khỏi tầm mắt ông ta để không bị vạ lây. Một kẻ coi thường người khác và nhục mạ người ta bằng đòn roi như đánh thú vật thì có xứng được gọi bằng thứ danh xưng lịch sự hay không? Tôi không cho là như vậy.

Chưa kịp để tôi định thần, lão cầm gáo nước tạt ngay vào mặt tôi rồi buông ra một câu khinh bỉ.

"Ồ! Nhốt mày lâu thế tưởng mày khát nước."

Nhưng ngay khi lão đưa mắt quét qua bộ dạng ướt như chuột lột của tôi từ trên xuống dưới, mặt lão liền tối sầm lại, dữ tợn hơn bao giờ hết. Sau đó, chỉ trong chớp mắt, lão nắm lấy cổ áo tôi bằng một tay, nhấc bổng tôi lên không trung khiến tôi gần như tắt thở.

"Đứa nào dám đưa bộ đồ này cho mày mặc?!"

"Cháu... k...hông biết. Ông... buông... tay... ra... trước... đã..." Khó khăn lắm tôi mới có thể trả lời, đôi tay cố gỡ những ngón tay ông ta đang nắm chặt, hai chân chới với vùng vẫy trong không khí.

Thế nhưng ông ta chẳng hề mềm lòng, ngược lại bằng cái thói vũ phu không nhân nhượng, lão cầm cái gáo bằng tay còn lại phang thẳng vào đầu tôi. Tôi lập tức choáng váng đến đơ người, những giọt nước mắt thất thần rơi ra theo lẽ tự nhiên khi cơn đau cực độ ập đến.

"Định!" "Mệnh!" "Mày!!" "Con!" "Khốn!" "Nạn!"

Ông ta gằng giọng, mỗi một từ thốt ra đều đi kèm với một cú đập, cho đến khi cái gáo vỡ nát và tôi cảm thấy một dòng chất lỏng ấm nóng chảy dài trên mặt.

"Này, nếu nó chết ông sẽ không nhận được một cắc bạc nào đâu." Trong cơn mê sảng tôi vẫn nghe thấy cái giọng lảnh lót không lẫn vào đâu được của bà vợ ông ta, cái giọng mà chỉ cần nghe văng vẳng xa xa thôi đã đủ khiến tôi chạy biến mất dạng.

Nhưng chưa bao giờ như lúc này đây tôi thấy biết ơn bà ta đến vậy, vì ngay sau đó gã đàn ông lực điền ấy buông tay ra khiến tôi rơi xuống đất như một con chuột chết. Con chuột nằm thoi thóp, cố giành lấy từng ngụm không khí trước khi bị thần chết kéo sang thế giới bên kia.

"Chính tôi mặc quần áo cho nó đấy lão già mắc dịch!" Hơi nóng tỏa ra từ những ngón tay bà ta mân mê trên khuôn mặt tôi chỉ khiến tôi lạnh gáy. "Ôi con mèo con bé bỏng của ta, phải mau chóng chữa trị cho cháu thôi. Lão ấy đúng là đồ súc vật, cháu nhỉ? Ai lại ra tay nặng với trẻ con thế này." Rồi bà ta quát lớn, "Lão già khốn kiếp đi tìm tay bào chế về đây đắp thuốc cho nó ngay!"

Hai mắt tôi vẫn nhắm chặt cố làm như mình sắp chết, đủ để tôi nghe thấy tiếng một thứ gì đó bị đá văng vào tường rồi lăng lông lốc dưới đất, sau đó là tiếng chửi rủa sang sảng càng lúc càng xa dần.

"Hôm... nay... cháu... không... xoa... bóp... cho... bà... đâu..." Tôi thều thào khi bà vợ gã chủ đàn cừu vắt cái khăn ấm lau mặt cho tôi. Sau khi gã đàn ông độc ác ấy rời đi, bà ta sai giai nhân mang tôi vào nhà, thay cho tôi bộ quần áo khác, đắp thuốc lên những vết u sưng to như cái bát do vỡ mạch máu gây ra. Nếu không biết bộ mặt thật của người đàn bà này, hẳn là tôi sẽ quỳ rạp ra đất cúi đầu cảm tạ bà ta đã ban ơn cứu giúp. Ngược lại, những gì tôi biết chỉ khiến tôi muốn lộn mửa mỗi khi nghĩ đến.

Có một bí mật tôi đã luôn che giấu, một bí mật có lẽ quá tồi tệ để nói với bất kỳ ai

 

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
12. Bí mật của Fig
92575055_original.gif
93781203_original.gif
52217538_original.gif
14214c82_original.gif
62713a87_original.gif
e22f6937_original.gif
805a9366_original.png
5b9bdef7_original.gif
81e47d23_original.gif

trBXsoy.jpeg

12. Bí mật của Fig

"Fig này, sao cậu tốt với tôi thế?"

Vào một dạo nọ, tôi đã hỏi Fig khi hai đứa chuẩn bị đi ngủ sau buổi phụ đạo tối muộn.

"Cậu giống em gái tớ."

"Cậu có em sao?"

"Ừ, một đứa. Nhưng nó mất rồi," vừa giũ bụi chiếc chăn, cậu ấy vừa nói, "cậu khiến tớ nhớ đến nó. Tên con bé là Zarina, mà theo lời mẹ tớ có nghĩa là một thỏi vàng. Cậu biết không, con bé vô cùng xinh xắn đáng yêu, quả thật là báu vật trân quý nhất trên đời. Tớ đã tự tay chăm nó từ hồi nó mới sinh đấy."

"Thế..." ngập ngừng một lát để nghĩ xem phải phản ứng thế nào, tôi cẩn thận lựa chọn ngôn từ "...tôi có thể hỏi vì sao em ấy mất được không?"

"Lúc đó mẹ tớ vừa qua đời. Nhà chẳng còn gì ăn mà căn trọ thì tan hoang hết cả, chẳng còn sót lại một ai từ cái lần bọn giặc phương Bắc Rammabit [1] tràn vào thị trấn cướp sạch của cải và lương thực tích trữ. Vậy nên tớ phải bế em ra ngoài xin sữa. Nhưng khi đó trời nóng bức khô hanh đến độ cỏ cây héo rũ, đất cũng nứt toác ra, ngoài đường người ta chết đói nhiều lắm. Tớ thì còn có thể cắn rơm cắn cỏ cạp đất mà ăn, nhưng Zarina thì chẳng có gì bỏ bụng. Con bé cứ khóc suốt, khóc mãi đến khi kiệt sức, nhưng chẳng ai có thể giúp đỡ chúng tớ. Thế là em mất, giống hệt mẹ, Zarina cứ ngủ mãi và chẳng bao giờ thức dậy được nữa."

"Tôi xin lỗi, tôi rất tiếc."

Nhờ sự phụ đạo tận tình của Fig, tôi đã biết và cũng thấu cảm phần nào tình cảnh éo le của đất nước này, một đất nước Hemeti đã từng trải qua giai đoạn tang thương khốc liệt của chiến tranh. Dẫu đã chuẩn bị tinh thần để không quá xúc động khi nghe kể về những mẫu chuyện mất mát chia ly, thế nhưng lòng tôi vẫn đau như cắt khi có dịp chạm đến một ký ức chưa từng có dịp tỏ bày.

Vào những đêm tôi, Fig và Berry nằm bên nhau cạnh đống lửa và hồi tưởng về những kỷ niệm xưa cũ. Fig đã khoe với tôi rằng ngày xưa cậu ấy sống trong một khu phố sầm uất cách đây rất xa. Cậu và mẹ sống trên tầng hai một căn trọ lúc nào cũng tấp nập khách ra vào, vô cùng ồn ào nhất là ban đêm. Cậu ấy chẳng mấy khi có dịp được ra ngoài, mà chỉ quanh quẩn chơi với mấy cô sống cùng căn trọ. Thế nên khi lần đầu đặt chân đến thảo nguyên, cảm giác yên bình, phiêu diêu, tự do tự tại đã cuốn hút lấy cậu theo cách không thể cưỡng lại. Thế là cậu ấy chọn làng Ngã Ba này làm điểm dừng chân.

Nhưng Fig chưa từng cho tôi biết vì sao lại rời nhà để chuyển đến đây và sống lẻ loi thế này. Phần cũng vì tôi ngại không dám hỏi. Phần cũng vì tôi đoán cậu ấy chưa sẵn sàng chia sẻ những chuyện sâu hơn. Thế là tôi hỏi dò vợ chồng bác Paul và những người trong điền trang. Nhưng câu trả lời nhận về luôn là họ cũng chẳng rõ. Người ta chỉ biết Fig là đứa bé chăn cừu rất được việc, nhưng chẳng ai biết cậu xuất xứ thế nào và là con cái nhà ai.

Có lẽ đây là lúc thích hợp nhất để hỏi về chuyện này.

"Kể tôi nghe chuyện sau đó nhé, được không?"

"Người ta buộc phải thiêu những người đã qua đời để tránh phát sinh dịch bệnh, vì vậy tớ chẳng thể làm gì ngoài việc để em và mẹ ra đi cạnh hàng tá người cũng nằm trên giàn lửa. Khi tất cả chỉ còn lại một đống tro tàn, tớ theo đoàn đưa tiễn họ về nhà của Chúa. Ở đó cha Peter phân phát thức ăn và cung cấp nơi điều trị cho những người bị thương trong chiến tranh nên rất đông người kéo đến. Tớ ở tạm đó vài ngày trước khi lên đường đi tìm bố. Mẹ tớ từng nói rằng bố làm việc ở một đồn điền ở Làng Ngã Ba Vann-Ker-Blanc."

Làng Ngã Ba Vann-Ker-Blanc chính là ngôi làng mà chúng tôi đang sinh sống. Người ta gọi thế vì đây là nơi tiếp giáp lãnh thổ của ba gia tộc lớn: Vann phía tây, Kerney phía Bắc, và Blanchill phía Đông. Dù cách rất xa thủ phủ nhưng Làng Ngã Ba vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Vann, còn khu phố ngày xưa cậu bạn tôi từng sống nằm ở địa phận Blanchill. Nghe nói ở Blanchill người ta cấm hoạt động tôn giáo, vậy nên đứa trẻ này đã phải di chuyển trên một lộ trình rất vòng vèo sang địa phận Kerney trước khi đến được đây.

Fig của tôi, hẳn là cậu đã phải chịu nhiều vất vả.

"Thế cậu đã tìm được bố chưa?" Tôi nhẹ nhàng hỏi.

"Ừ, tìm được rồi. Nhưng ông ấy đã qua đời trước mẹ vài tháng, nghe nói là bị gấu tấn công khi đi săn trong rừng. Trong lúc tìm chỗ họ đã chôn ông thì tớ trông thấy cái chồi này. Lúc đầu tớ chỉ định tạm dừng chân ở đây vài ngày trước khi quyết định sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng rồi tớ vô tình gặp Paul khi đang mót khoai ngoài đồng. Bác ấy bảo mấy người ở điền trang chỗ bố tớ làm việc đang cần một tay chăn cừu, thế nên tớ bảo bác ấy xin cho tớ làm."

"Khoan, đợi một chút đã." Tôi bất ngờ hỏi lại. "Điều đó có nghĩa là bố cậu từng làm việc ở điền trang nhà ông Wilmot ấy hả? Cái chỗ đang thuê chúng ta chăn cừu ấy?"

"Đúng rồi."

"Nhưng mọi người ở đó bảo không biết bố mẹ cậu là ai."

"Ừ thì tớ cũng đã bảo với họ đâu. Khi đến tìm bố, tớ chỉ bảo là đến tìm ông Tyler. Trước đó tớ đã hỏi ở những điền trang khác nhưng quanh đây chỉ có mỗi bố tớ mang cái tên đó nên họ chỉ cho tớ đến điền trang Wilmot."

"Ra là vậy." Lớp sương mù dày đặc trong đầu tôi dần tản ra từng chút một. "Tội nghiệp cậu." Tôi không biết phải nói gì hơn ngoài một tiếng thở dài sườn sượt.

"Tớ chẳng biết rõ về ông nên cũng chẳng buồn quá nhiều. Lần cuối tớ gặp ông là khi tớ còn bé, thỉnh thoảng ông mới về nhà thăm mẹ, rồi ông lại đi ngay vào ngày hôm sau. Đối với tớ, bố cũng giống như những vị khách của mẹ, chẳng ở lại lâu bao giờ. Điều khác biệt duy nhất là bố thường mua rất nhiều quà, và thường chơi với chúng tớ để mẹ được nghỉ ngơi. Ông rất tốt với chúng tớ và trông mẹ thật hạnh phúc khi được ở bên ông. Nhưng vì ông cứ đi đâu mải miết nên tớ chẳng thể thích ông lâu dài được. Thật ra đã có lúc tớ giận và ghét ông ấy lắm. Không có ông ở nhà, đêm nào mẹ cũng khóc."

"Hẳn là mẹ cậu đã chịu nhiều khổ cực khi phải một mình nuôi hai đứa trẻ. Những người họ hàng của cậu thì sao? Họ có đến thăm gia đình cậu thường xuyên không?"

"Gia đình tớ không có họ hàng, hoặc nếu có thì họ chắc cũng chẳng muốn dính dáng gì đâu. Mẹ tớ ấy mà..." dừng lại một chút như thể đắn đo điều gì đó, cậu ấy tiếp, "...mẹ phải làm việc cả đêm. Lúc đó tớ còn bé quá không nhận thức được tình hình. Tớ chỉ biết đêm nào cũng có người đến tìm mẹ. Mẹ dặn tớ phải ở ngoan trong phòng chăm Zarina để nó không khóc. Mẹ bảo nếu em nó khóc quấy sẽ làm phiền mẹ, và rồi mẹ sẽ không có tiền để chăm lo cho chúng tớ.

Bằng một giọng điệu điềm nhiên và bình tĩnh, Fig chầm chậm tiếp tục câu chuyện.

"Mẹ chẳng bao giờ khóc trước mặt tớ. Thi thoảng từ bên kia bức tường nơi mẹ gọi là phòng tiếp khách, tớ cứ nghe thấy tiếng bà thổn thức, có khi chỉ một lát, có khi kéo dài cả đêm. Vì sao mẹ lại khóc? Người ta đánh mẹ sao? Tớ lo lắng đến phát điên lên được, chỉ muốn tẩn những kẻ đã đánh mẹ một trận cho phải lẽ. Thế là một đêm nọ, khi Zarina đã ngủ say bên con búp bê vải của nó và mẹ đã ngừng khóc, tớ đã mở cửa phòng bà với một cái cán chổi trên tay. Và rồi tớ thấy..."

Dường như quá xúc động, cậu ấy ngưng một chút, trong đôi mắt long lanh thứ gì đó có vẻ đang trực trào ra. Tôi vỗ về cậu bằng đôi bàn tay nhỏ xíu của mình, một thoáng cảm thấy cơ thể cậu ấy đang run rẩy.

"...thôi, cậu còn bé lắm. Những chuyện này không nên kể với cậu thì hơn." Cậu ấy ngắt ngang câu chuyện.

Vài phút yên tĩnh chỉ còn tiếng lửa cháy tí tách đủ để tôi mơ hồ nhận ra vấn đề mà đứa trẻ này đã phải đối mặt ở tuổi đời còn quá nhỏ.

"Không, tôi hiểu mà." Tôi trả lời, cố giữ bình tĩnh trong tông giọng. "Cậu có oán giận bà ấy không?"

"Có chứ. Tớ tuyệt thực và bắt đầu hành động ngỗ ngược như một cách để chống đối. Tớ ném bát đĩa để mẹ không mở cửa cho người ta vào nhà. Tớ bỏ mặc cho Zarina khóc ré lên để đuổi người ta đi. Nhưng dù tớ có quậy phá như thế nào mẹ vẫn không hề đánh tớ. Mẹ ôm tớ khóc. Mẹ van xin tớ. Nhưng tớ không thể tha thứ cho mẹ. Đã hàng trăm, hàng ngàn lần tớ dày xéo mẹ bằng những từ ngữ kinh tởm để buộc tội mẹ phản bội chúng tớ, để trừng phạt mẹ, nhưng mẹ vẫn chẳng hề phản bác. Mẹ chỉ xin tớ đừng ghét mẹ, mẹ hứa với tớ rằng mẹ sẽ không như thế nữa. Vậy là sau lần đó, cho đến khi mẹ bệnh rồi mất, chẳng còn vị khách nào ghé qua phòng trọ chúng tớ thêm nữa. Nhưng lúc đó tớ không hề biết, sau khi mẹ đi rồi tớ mới biết, mẹ nhẫn nhịn chịu đựng đắng cay nhục nhã như thế chỉ để hai đứa chúng tớ được ăn uống đủ đầy."

Chẳng biết từ bao giờ những giọt nước mắt đã rơi trên má cậu ấy làm ướt nhòe những nốt tàn nhang trên làn da tái nhợt. Bằng một cử động nhanh chóng, cậu ta đưa tay lên lau hết chúng đi. Nhưng làm sao có thể ngăn nổi dòng nước lũ đang cuồn cuộn dâng trào trong cảm xúc, chúng cứ trào ra, rơi hết dòng lệ này đến dòng lệ khác.

Một cảm xúc đau đớn nhói lên trong tim tôi, khiến tôi nhào đến ôm chầm lấy cậu, nghiêng đầu cậu lên vai tôi, vỗ nhẹ vào lưng cậu, để cậu có thể an tâm trút hết mọi đớn đau đã luôn dày xé tâm can hàng ngày hàng giờ mà không cách nào có thể nguôi ngoai được.

Cậu ấy khóc nấc.

"Tớ hối hận lắm Ann ạ. Giá như tớ chưa từng nặng lời với mẹ như thế, giá như tớ chưa từng ngỗ ngược, giá như tớ chưa từng mở cánh cửa ấy ra, tớ sẽ không khiến bà đau khổ tuyệt vọng đến suy kiệt để rồi ốm nặng. Mẹ nổi mụn nhọt khắp người đến nỗi không thể ra khỏi giườg vì đau đớn. Cho đến một ngày mẹ qua đời trong giấc ngủ, tớ không còn cơ hội xin lỗi mẹ nữa rồi."

Trên vai áo tôi, những hạt lệ nóng ấm chầm chậm lan ra như thiêu đốt từng tấc da thịt.

Cậu bé mười ba tuổi trước mặt tôi đây, một đứa trẻ lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ lạc quan, vậy mà lại nấc nghẹn trong những tiếng kêu oai oán tang thương của một trái tim được bao bọc bởi kẽm gai và những mảnh thủy tinh bén ngót. Bức tường cảm xúc mà cậu ấy đã cố dựng lên nhằm che lấp mọi cảm xúc bên trong đã hoàn toàn sụp đổ. Giờ đây cậu ấy trần trụi, mỏng manh, dễ vỡ như một viên pha lê, chỉ cần gõ nhẹ cũng sẽ gây một vệt nứt toác không thể nào hàn gắn lại được.

Vậy hãy để tôi bảo vệ viên pha lê ấy.

Tôi sẽ là cha, là mẹ, là em gái, là bạn thân, là bất cứ điều gì miễn là có thể bảo vệ cậu.

Tôi sẽ là gai nhọn, là vỏ sò, là tấm khiên che chở cậu.

Tôi sẽ là sợi dây, là chiếc thang, là con thuyền để cậu bám lấy.

Tôi sẽ là tất cả miễn là cứu được cậu khỏi nỗi khốn khổ hối hận đến tột cùng.

Mãi lúc lâu sau khi tiếng thổn thức không còn nữa, bằng một giọng điệu có phần tươi sáng hơn, cậu ấy lại nở nụ cười như thể chẳng có chuyện gì.

"Xin lỗi nhé, tớ làm bẩn áo cậu rồi." Cậu ấy nói.

Fig của tôi, đứa trẻ đáng thương của tôi lại một lần nữa che lấp nỗi khốn khổ của bản thân bằng dáng vẻ trưởng thành không đúng tuổi. Ở điểm này chúng tôi khá giống nhau, đều bơ vơ trơ trọi trong những xúc cảm quá đắng cay, để rồi phải gồng mình lớn lên mà không thể giải bày nỗi đớn đau vụn vỡ ấy thành lời.

"Ừ không sao cả. Để tôi lau mũi cho cậu."

Tôi kéo cậu bạn ra bờ ao rồi rửa mặt mũi cậu ta cho sạch sẽ. Ngay khi cậu ta đang hông khô mặt trong làn gió, tôi đột ngột đưa tay hất mạnh khiến nước văng tung tóe lên bộ đồ cậu ấy đang mặc, đồng thời khiến bản thân bị té nhào xuống ao. Chưa kịp ngôi lên, thân thể nặng trịch của Berry lại nhảy ào lên đầu khiến tôi ngụp xuống thêm một lần nữa. Thằng nhóc này tưởng chúng tôi đang nghịch nước đây mà. Thế là tôi kéo Fig xuống cùng chịu trận. Ba đứa chúng tôi đã chiến đấu hết mình với mục tiêu tạt nước buộc đối phương phải lên bờ trong tiếng cười đùa xé tan bầu không khí tĩnh mịch.

Chưa bao giờ đêm lại dài như thế.

-- Chú giải --

[1] Giặc Rammabi: một quốc gia ở phía Bắc vương quốc Hemeti, sẽ được kểrõ hơn ở chương 18 và các chương sau.

 
Chỉnh sửa lần cuối:

wonjieon

Gà con
Tham gia
29/4/25
Bài viết
15
Gạo
0,0
13. Bí mật của tôi (1): Bão tới
e16487f0_original.gif
8bf61b6a_original.gif
b2698cc1_original.gif
036de405_original.gif
c5ffde6e_original.gif
de77ed42_original.gif
7781f2a7_original.gif
b445d750_original.gif
7261dcb5_original.gif

13. Bí mật của tôi (1): Bão tới

0cKwSWl.jpeg
Cơ duyên giữa tôi và bà Wilmot là một câu chuyện dài bắt đầu vào một chiều dông.

Bão đến nhanh kéo theo mây đen giăng kín cả bầu trời; liền sau đó là những cơn cuồng phong lướt qua đồng cỏ, cuốn bay những mảnh vỡ hàng rào ngăn cách hai bãi đất trống. Trong tích tắc, một loạt tia chớp lóe lên liên hoàn, vẽ những đường man rợ như mạch máu có màu trắng sáng, xé toạc nền trời tối mịt rồi lao thẳng xuống giữa đồi. Tiếng ầm ầm như trống vỗ dồn dập sau đó dội thẳng vào ốc tai, khiến những kẻ yếu tim liên tưởng đến tai họa đang không ngừng giáng xuống.

Thật may đàn cừu đã về tới điền trang, vì ngay khi cánh cửa chuồng vừa đóng lại, tôi nghe thấy tiếng mấy bác nông dân lớn tiếng ngoài sân, nơi mà cái mái nhà kho ủ phô mai vừa bị gió lật tung một góc, kèm với đó là mưa như trút đột ngột ào đến khiến họ không kịp trở tay.

Trong khi cánh đàn ông đang ra sức vốc cát vào bao tải chèn lên mái nhà, cánh phụ nữ vội vã che chắn hàng kệ chất đầy những mẻ phô mai đang lên men bằng bất cứ thứ gì có thể vớ được.

Giúp đỡ họ vốn dĩ không phải nhiệm vụ của tôi. Nhưng theo thói quen, tôi lao nhanh khỏi chuồng gia súc, hăng hái chạy quanh đóng cửa sổ tất cả nhà kho, rồi xách xô hứng lấy những chỗ đang rũ nước từ chiếc mái nhà bị dột. Thế là điềm nhiên, tôi trở thành một phần trong số những người làm của điền trang, tất cả đều đang ra sức gia cố những khu vực hư hỏng nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại do cơn bão.

Khi mọi việc đã được xử lý xong xuôi, bộ dạng ai nấy đều ướt như chuột lột. Chúng tôi tụ lại quanh đống lửa vừa thắp giữa nhà kho chính, cởi lớp áo ngoài treo lên thanh sào dựng tạm bằng cách bắt ngang cây chổi quét trần giữa hai cái bàn. Trong lúc chờ quần áo được hông khô, bà bếp ném cho mỗi người một củ khoai sẵn có trong kho để tự nướng ăn lót dạ.

Làm việc liên tục cả ngày khiến ai cũng kiệt quệ, tóc tai bết bát dính vào làn da cháy nắng đồi mồi tàn tạ hết chỗ nói. Trách sao được, mới ban nãy trời vẫn còn nắng ráo trong veo không có lấy một gợn mây. Sáng sớm nay khi tôi đến mở cửa chuồng cừu đã thấy mọi người bắt đầu làm việc. Chỗ thảo mộc khô toàn bộ được đem ra phơi nắng để không bị mốc. Mấy tấm vải len vừa mới đập chiều qua cũng được căng ra phơi lên giàn. Đôi bò nâu đã được giống vào đòn ách, sẵn sàng cho công cuộc cày cấy. Cói đã được trải trong sân và cạnh đó là hai người phụ nữ lớn tuổi ngồi tết thảm. Cuộc sống thường nhật vẫn diễn ra như mọi khi, dường như chẳng ai mảy may hay biết chỉ vài tiếng nữa thôi giông bão sẽ đến gần.

Chiếc giỏ đựng khoai to kềnh càng đã vơi đi một nửa mà mưa chẳng có dấu hiệu gì sẽ tạnh. Có vẻ hơi ấm từ con quỷ đỏ đang nhảy tanh tách trên những thanh củi gỗ chưa đủ xua đi gió luồn qua khe cửa, người ta bắt đầu rót cho nhau mấy cốc nước ngã vàng có mùi yến mạch nổi bọt trắng li ti, thứ bia tươi có thể sản sinh ra nhiệt khi trôi tuột vào bao tử. Đến lượt tôi, bà bếp bảo một chị người làm vắt cho tôi ít sữa dê nóng ấm. Cầm lấy bát sữa trong tay, tôi chậm rãi nuốt từng ngụm, từ tốn cảm nhận vì thơm béo đẫm trên đầu lưỡi. Dòng chất lỏng chảy vào dạ dày, nhiệt từ đó chầm chậm lan ra, mang đến cảm giác vỗ về tạm thời xoa dịu cơn run rẩy.

Khi sức lực đã được hồi lại phần nào, mọi người bắt đầu tụm năm tụm ba theo từng nhóm nhỏ trò chuyện rôm rả. Mình tôi vẫn ngồi thu lu một góc, nơi có chiếc ghế dài kê sát vách tường bên dưới chiếc cửa sổ bị gãy bản lề không thể đóng kín. Gió rít và mưa to đằng đẵng hú hét bên tai làm tôi thêm nhung nhớ, chỉ mong gia đình mình nơi phương xa vẫn giữ được bình an.

"Bé con đang làm gì thế?"

Chị người làm ban nãy mang bát sữa cho tôi đột ngột ngồi xuống bên cạnh khiến tôi có đôi chút giật mình.

"Em đang ngắm mưa." Chỗ bản lề cửa sổ hỏng có một cái lỗ to bằng nắm tay, nhờ đó mà tôi có thể trông ra quan cảnh những hạt mưa đang rơi xuống, bao phủ điền trang trong lớp màn đục ngầu mờ ảo.

"Sáng nào chị cũng thấy em đi loanh quanh cùng con chó và đàn cừu nhưng chưa có dịp nói chuyện với em bao giờ. Bé con tên gì thế? Thằng nhóc lúc trước đi chăn cừu với em đâu rồi?" Chị gái ấy hỏi.

"Fig đi học trên thị trấn rồi nên em đang phụ giúp cậu ấy. Em là Ann. Còn chị tên gì?"

"Gọi chị là Jody," vừa nói chị ấy vừa cười toe toét.

Chị Jody là một thiếu nữ mảnh khảnh có lẽ chỉ độ đôi mươi. Khuôn mặt chị không quá xinh với nước da nâu lấm chấm tàn nhan, chiếc mũi to và răng không đều, nhưng khi chị cười toát ra cảm giác nhiệt tình thân thiện. Mái tóc màu nâu cháy được tết thành hai bím giống nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết "Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh." Giọng chị ríu rít như một con chim sẻ vui tươi và tràn đầy sức sống, khiến tôi bị cuốn theo nguồn năng lượng ấy và buông lỏng lớp rào phòng vệ mà tôi đã luôn dựng lên để cách biệt với mọi người.

"Chị Jody làm ở đây lâu chưa?" Tôi hỏi.

"Vừa xong bữa ăn mừng trưởng thành với gia đình là chị được dẫn đến đây luôn. Chắc là khoảng sáu bảy năm rồi nhỉ? Họ cho chị học việc ở lò bánh mì và giờ chị đã thành thợ chính rồi đấy."

"Thích thế!" Tôi cảm thán, vô thức đưa tay mân mê bím tóc chị. Dù chất tóc chị khá khô sơ, nhưng vì thế mà chúng tạo được một độ phồng nhất định trong khá dày dặn. Điều đó khiến tôi thầm ghen tỵ.

Cái đầu hói của tôi đã mọc tóc chỉ sau vài tháng lưu lạc, nhưng khi tóc đạt độ dài tầm 5 xăng-ti đủ để khiến tôi chú ý, tôi mới phát hiện chúng có màu xám tro trông khá kỳ cục. Ban đầu tôi định đợi xem khi dài hơn chúng có đổi sang cái màu đen vốn có không, thế mà càng ngày cái màu xám ấy càng trở nên nổi bật bên dưới tấm khăn che đầu. Thế là tôi phải nhờ cô Bennett cạo phắt chúng đi cho rồi, vì thà rằng tôi trọc lóc vẫn dễ che giấu hơn mang trên đầu cái thứ tóc quái dị chẳng giống ai đó. Khỏi phải nói, cô Bennett cũng tỏ vẻ bất ngờ ngay khi tôi cho cô xem mái đầu xấu tởn, nhưng rồi cô vẫn dịu dàng lấy kéo cắt sát chúng cho tôi, vì cô bảo cạo bằng dao thì đau lắm, mà cái màu này tệp hẳn vào da nên dù chỉ cắt sát vẫn không lộ ra ngoài. Vậy nên cứ sau một hai tuần, khi ngọn tóc có xu hướng mọc cao lên, tôi đều nhờ đến cô Bennett.

Ừ thì tóm lại là tôi ngưỡng mộ mái tóc tết của chị Jody lắm.

Thế là cả đêm tôi cứ bám lấy chị. Chị để yên cho tôi tháo chúng ra và thử tết đủ loại kiểu mà tôi biết, nào là đuôi sam, nào là xương cá, nào là thác nước. Sau đó, chúng tôi ngồi bàn về đủ loại chuyện trên trời dưới đất. Chị Jody nói rất nhiều. Tôi có cảm tưởng chuyện gì trong làng chị ấy cũng biết. Chỉ cần nhắc đến một thứ bất kỳ nào đó thôi là chị Jody có thể kể ra biết bao nhiêu là chuyện liên quan đến cái thứ đó. Vậy là máu nhiều chuyện trong tôi trỗi dậy, tôi cứ nghe hết chuyện này đến chuyện khác, thỉnh thoảng lại bình luận vài câu cảm thán. Quả thực những câu chuyện phiếm về người khác luôn luôn có sức hấp dẫn không thể chối từ.

Đêm dài cứ thế mà trôi. Mưa rả rít cả đêm cuối cùng cũng ru tất cả chúng tôi vào giấc ngủ.

Lạ chỗ nên tôi ngủ không sâu và liên tục chở mình. Tiếng ai đó ngáy to khiến tôi tỉnh giấc, và có vẻ bên ngoài mưa đã tạnh vì tôi không còn nghe thấy tiếng rì rào rơi xuống của những hạt mưa.

Tôi nhón gót nhẹ nhàng tiến đến chỗ cái cửa sổ hỏng nhìn ra bên ngoài. Phía đối diện là ngôi nhà trang viên của ông Wilmot. Vẫn là thứ kiến trúc đặc trưng thường thấy quanh đây, nhưng những bức tường bằng đá với hai tầng lầu bám đầy dây thường xuân đã giúp ngôi nhà toát lên vẻ uy nghi đặc biệt hơn nhiều. Cơn dông đã làm bật gốc vài cây to xung quanh, khiến những bộ rễ khổng lồ bung lên nằm chơ vơ giữa không trung, chĩa ra những sợi dài ngoằn uốn éo như những ngón tay thây ma xương xẩu. Trong bầu không khí tĩnh lặng, tiếng cú kêu vang vọng màn đêm càng tô vẻ thêm cảm giác ám ảnh hoang tàn.

Khi tôi đang mải mê ngắm nhìn cái chong chóng gió hình con gà đang lắc lư trên mái nhà, bất thình lình, một trong những ô cửa sổ bên dưới bật mở, và thò ra khỏi đó là một chiếc chân trần trắng bệch như tượng sáp.

Mặt tôi bỗng chốc không còn một giọt máu.

"Lại cái gì nữa không biết!" Tôi thầm nghĩ, như thể không tin vào mắt mình.

Cái chân ấy đong đưa vài giây rồi lại xuất hiện thêm một cái chân khác. Lần này tôi thấy hình dáng mờ mờ của một chiếc váy ngủ phủ lên đôi chân gầy guộc, cùng với đó là bóng dáng một người lấp ló, ngồi chênh vênh trên thành cửa sổ

Khi người đó chồm ra ngoài, ánh trăng rọi sáng khuôn mặt bằng thứ ánh sáng lạnh toát ngã màu xanh xanh, làm hiện lên đường nét méo mó kỳ dị cùng đôi con mắt vô hồn trống rỗng cứ nhìn trân trân vào khoảng không trước mặt.

Lòng tôi thắt lại khi nhận ra, đó chính là bà ta - người phụ nữ vẫn thường nhìn chằm chằm tôi từ chính ô cửa sổ đó vào mỗi buổi sáng.

Bà ta bám lấy thành cửa sổ, đôi bàn tay khẳng khiu siết chặt, rồi đột ngột đẩy người lao xuống. Tôi giật điếng người, không thể nào cất lên tiếng hét, chỉ nghe một tiếng "huỵch" nặng nề vang lên từ phía bụi rậm bên dưới. Từ độ cao đó, cú ngã không đáng sợ đến mức chết người, nhưng sự im lặng sau đó lại khiến mọi thứ trở nên đáng ngờ. Không có tiếng xào xạc của cành lá, không có bất kỳ chuyển động nào. Bà ta đã bất tỉnh rồi hay chăng?

Tôi rón rén chạy đến lay chị Jody.

"Gì th..." Chị ấy càu nhàu.

"Suỵt," tôi ra hiệu và thì thầm, "dậy đi theo em, nhanh lên."

Nhưng chị Jody với đôi mắt lờ đờ chỉ thở dài rồi ngả người ngủ tiếp. Bất lực, tôi quyết định kéo chị ngồi dậy lần nữa. Lần này, giọng tôi hoàn toàn gấp gáp, "Nhanh đi theo em! Có người vừa mới ngã lầu."

"Kệ họ." Bất chấp nỗ lực của tôi, con người này chẳng thể nào tỉnh táo ngay được. Cũng không thể trách chị ấy, chị Jody có được đào tạo như một nữ hầu đâu mà có thể phản ứng nhanh trong tình huống khẩn cấp được cơ chứ.

Vậy là tôi đánh liều một mình ra xem thử coi sao.

Tiếng cái cửa nhà kho kêu ken két có lẽ đã đánh động người trong bụi cỏ. Bà ta lập tức ngồi bật dậy rồi bỏ chạy theo hướng vào rừng, để lại tôi ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

"Bà ơi!!!"

Tôi gọi với theo, nhưng người đàn bà ấy dường như chẳng hề nghe thấy. Bà ta cứ cắm mặt chạy, trên người chỉ có độc một bộ đồ ngủ và đôi chân trần, trong khi gió trời vẫn còn lồng lộng. Tôi liền thó đôi giày chị Jody đặt cạnh chỗ ngủ, tức tốc đuổi theo bà ta.


 
Bên trên