Long Biên thành(1), năm Thiên Đức(2) thứ nhất, tháng 6.
Giờ Hợi hai khắc, điện Vạn Phúc(3) phía bắc điện Vạn Thọ(4), nàng đang ngồi trước gương tháo chiếc khuyên tai đặt xống hộp. Tỳ nữ Lan đứng sau nàng đang nhẹ nhàng nâng mái tóc nàng chậm rãi chải, cô khẽ thở dài rồi cất tiếng:
- Hoàng hậu người thật là xinh đẹp, vậy mà Bệ hạ ngày nào cũng về muộn, ngài không cảm thấy tiếc nuối chút nào sao?
Nàng im lặng một lát mới lên tiếng:
- Em đừng nói như vậy, Bệ hạ giờ đã là người đứng đầu muôn dân, trách nhiệm lớn, công việc nhiều. Nước nhà vừa mới đổi chủ, cần có thời gian để yên lòng người.
- Em không hiểu, trước đây khi còn đang dựng nghiệp ngài cũng không về muộn như vậy. Bây giờ chí lớn đã thành, bách tính an cư sao mà ngài còn bận nhiều hơn cả lúc trước. Người và Bệ hạ đã ở cùng nhau đã lâu như vậy rồi vẫn chưa có được một đứa con, ngài không lo tới việc này lẽ nào người cũng không lo sinh một tiểu hoàng tử để kế vị hay sao? – Tỳ nữ Lan lại nói.
Lan theo hầu nàng từ khi mới được gả cho Nam Đế, quan hệ của hai người rất thân thiết, nàng hiểu Lan nói vậy chỉ là đang quan tâm chứ không hề có ý thất lễ hay trách móc.
- Ta tất nhiên là đã nghĩ tới chuyện này chứ. Ta cũng đã tự có dự tính, nếu ta không thể sinh được con cho Bệ hạ, ta sẽ tuyển cho người vài vị phi tử thay ta làm chuyện này vậy. – Ngưng lại một lát, nàng nói thêm – Lần sau đừng nhắc đến việc này nữa, Bệ hạ còn bận nhiều chính sự, các em đừng nhắc đến chuyện này trước mặt người làm người thêm phiền nghĩ.
Qua một lúc mà Bệ hạ vẫn chưa về, nàng lại đem hộp kim chỉ ra may may vá vá. Nàng may vá rất khéo, quần áo của người trước đây đều do nàng tự tay may cho, đến khi lên ngôi xưng Đế thì nàng không làm nữa, đã có những người khác phụ trách việc này, nhưng thỉnh thoảng nàng vẫn may vài thứ linh tinh cho người, lúc thì chiếc đai lưng khi thì đôi tất. Lần này nàng đang may một chiếc túi hương, Bệ hạ bận rộn thường về muộn, túi hương này giúp người an thần dễ ngủ.
- Nương nương, sao người không thêu đôi phượng hoàng, bây giờ Bệ hạ và người thân phận cao quý, uyên ương làm sao xứng với hai người? – Tỳ nữ Lan đứng cạnh đó lại lên tiếng.
- Ta chưa bao giờ thêu phượng hoàng, cũng ít khi nhìn thấy loài đó nên không biết phải thêu làm sao. – Nàng đáp lại.
Nàng xuất thân từ nông gia, việc gia chánh nàng đều thuần thục, những thứ đồ cao quý của bậc hoàng gia nàng trước kia không dám để ý tới, càng chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình trở thành mẫu nghi thiên hạ.
Lát sau một tỳ nữ khác bên ngoài rảo bước đi vào, nói:
- Hoàng hậu, điện Vạn Thọ vẫn còn sáng đèn. Cả Thái úy và ngài Thượng thư cũng có ở đó.
- Ta biết rồi. Hoa em đi nấu nước nóng để lát nữa người về ngâm chân. Lan em thay trà mới đi, trà nguội rồi. – Nàng nghe rồi nói với hai cô tỳ nữ, Hoa là tên của tỳ nữ mới tới.
Hơn một canh giờ sau, vua mới chậm rãi bước về tới điện Vạn Phúc. Tới trước cửa phòng, người khoát tay ý bảo bọn nô tài và tỳ nữ phía sau lui đi. Thấy Bệ hạ đã về, nàng liền sai Hoa và Lan mang nước ấm tới cho người rửa mặt ngâm chân. Nàng giúp Vương cởi áo bào ra treo lên giá rồi vừa rót một chén trà vừa nói:
- Có chuyện gì mà khiến chàng ưu phiền như vậy? Sắp có chiến sự nữa sao?
- Phương Bắc lại phái binh tới. – Vua thở dài một tiếng rồi đáp ngắn gọn, mấy việc chinh chiến đối với nàng cũng không lạ gì, trải qua bao nhiêu năm cùng nhau vua không thể giấu nàng điều gì, cũng không muốn giấu.
Vừa nói xong thì hai tỳ nữ đã bưng hai chậu nước tới, một chậu đặt lên kệ là nước rửa mặt, một chậu đặt dưới đất là nước ngâm chân.
- Hai em lui về đi, cứ để ta làm. – Nàng nói với hai tỳ nữ, đợi khi hai người họ rời đi khép cửa lại mới quay sang Vua hỏi thêm – Chàng đã có kế sách chưa?
Nàng theo vua chinh chiến cũng không ít lần, những chuyện như thế này không phải là lần đầu tiên nên cũng không quá lo lắng.
- Vẫn chưa. Nhưng cũng không vội, ta đã cho người đi do thám tin tức, chúng mới tới Giang Tây, từ Giang Tây tới đây ít cũng mất ít nhất hơn một tháng, ta đang tính trước mấy khả năng, chờ khi tin tức về sẽ có chiến lược cụ thể. – Vua đáp lại.
- Chàng là người nhân đức, dân chúng ai cũng biết, ai cũng thuận theo. Có được lòng dân ắt có sức mạnh. – Nàng nghe Vương nói thì hơi yên tâm, nói lời động viên. Nàng nhỏ hơn vua mười tuổi, theo vua hơn 10 năm, nàng cũng không phải nữ tử an phận thủ thường, binh thư đã từng đọc qua mấy cuốn, tất nhiên cũng hiểu đạo lý quân dân đồng lòng.
Mấy ngày sau đó, Vua tập trung binh lực dốc sức rèn luyện chuẩn bị nghênh địch. Sau hơn một tháng, rốt cuộc địch đã tới nhưng không phải bằng đường bộ mà là đường thủy. Năm vạn quân Lương từ Phiên Ngung do Trần Bá Tiên làm Tư mã, theo là các tướng Tiêu Bột và Dương Phiêu tiến vào Giao Châu từ phía đông ở cửa sông Bạch Đằng. Vua cùng các Thái úy là Phạm Tu, Thái phó Triệu Túc, Thượng thư là Tinh Thiều làm quân sư đem ba vạn quân ra nghênh đón, đánh chặn đường tiến công vào kinh thành của địch tại cửa Chu Diên(5). Phạm Tu dẫn đầu tiền quân làm tiên phong, Thái phó Triệu Túc cùng các tướng Trịnh Đô, Tam Cô chỉ huy trung quân, trong cùng là vua cùng Triệu Quang Phục chỉ huy hậu quân.
Lực lượng hai bên chênh lệch lớn, cả về số lượng và chất lượng. Quân Lương năm vạn đều là tinh binh đã được huấn luyện, Tư mã Trần Bá Tiên nổi danh tài trí mưu lược, địa vị trong triều đình phương Bắc cũng không không nhỏ, tướng Tiêu Bột dày dạn kinh nghiệm trận mạc, Dương Phiêu được phái tới làm Thứ sử Giao Châu, đến để trị một châu nổi loạn ắt không phải người đơn giản. Còn quân Vạn Xuân chỉ có ba vạn, quân trang so với địch tất nhiên không bằng, tuổi lớn trẻ đều có, thời gian huấn luyện chưa lâu, trừ một số ít đã theo vua từ trước thì phần lớn đều là tân binh chưa tới một năm. Quân địch chỉ có một yếu điểm là hành quân xa sẽ ít nhiều mỏi mệt, quân của Tiêu Bột từ Định Châu tới cách xa ngàn dặm, lại không quen thủy thổ. Sau nhiều ngày giao chiến, quân Vạn Xuân cầm cự không được, bại ở Chu Diên, phải lui về tới cửa sông Tô Lịch(6) lại bị thua, Thái úy Phạm Tu cùng mấy ngàn quân tiên phong đều đã hi sinh tại đây. Quân Vạn Xuân giờ chỉ còn lại hơn nửa, lại phải chạy về thành Gia Ninh(7) trấn thủ. Quân Lương đuổi theo vây trước cửa thành.
Lúc này đã là cuối năm, dân chúng hai nước đều có tục mừng năm mới, lại thêm hai bên lúc này đã giao chiến liền mấy tháng, quân sĩ đều mỏi mệt, người chết nhiều, thương binh cũng không ít, vì hai lý do này mà không ai nói với ai đều cùng ngưng chiến. Nhưng Trần Bá Tiên không vội đánh thành Gia Ninh còn có nguyên do khác đó là công thành luôn khó hơn đánh chiến trực diện rất nhiều.
Dù vậy nhưng yên ổn cũng không được bao lâu, một ngày sau Tết Nguyên tiêu, đêm, quân Lương bất ngờ tấn công đánh thành Gia Ninh. Cả hai bên đều đã nghỉ ngơi đủ, thay vì đánh trận nhỏ vừa mất thời gian lại khiến đối phương dốc tâm phòng thủ chi bằng đánh một trận lớn, tốc chiến tốc thắng. Quân Lương rất nhanh tiến gần tới gần cổng thành, cách chỉ còn khoảng một dặm. Triệu Túc lúc này thay thế Phạm Tu dẫn quân tiên phong nghênh chiến. Nhưng thế địch mạnh lại bất ngờ, quân tiên phong không giữ được bao lâu phải lui về thủ thành. Quân Lương được thế lại tiến công càng mạnh. Tường thành cao mấy trượng, chúng từ bên ngoài dùng thang leo, lại vừa dùng khúc thân gỗ to đập phá cửa thành, phía sau còn có đội cung tiễn và hai máy bắn cầu lửa. Quân ta ở trên thành ngăn đội leo tường bị trúng tiễn địch hi sinh không ít. Trung quân do Trịnh Đô và Lý Phục Man chỉ huy cũng kịch liệt ngăn địch vào thành, vua và Triệu Quang Phục ở vòng trong cùng theo dõi, hỗ trợ viện binh. Cửa thành bị phá, quân tiên phong và trung quân chặn chiến, được hồi lâu Triệu Quang Phục thấy phía trước không ổn xin xuất quân chi viện, vua đồng ý.
Quang Phục dẫn quân vừa ra tới thì đúng lúc có một mũi tên xoẹt ngang qua, quay sang nhìn đã thấy mũi tên cắm vào giữa ngực vị chỉ huy quân tiên phong. Cậu bất giác kêu lên một tiếng “Cha!”, mũi tên thứ hai bay tới nhưng Triệu Túc đã kịp tránh được. Kẻ bắn tên chính là Tiêu Bột, hắn trước khi tới Giao Châu còn e sợ đường xa, thế mà mới thắng mấy trận đầu đã huênh hoang đứng giữa cổng thành giương cung. Quang Phục trực lao thẳng tới hắn nhưng mới được một đoạn thì dừng lại. Tiếng binh khí va vào nhau, tiếng hô hào kêu la của binh sĩ, tiếng lửa cháy ngùn ngụt, âm thanh xung quanh đinh tai nhức óc nhưng cậu như nghe có tiếng gọi. Cậu nghe thấy không phải bằng tai mà là nghe được từ tâm, nghe bằng một sợi cảm giác vô hình nào đó, mơ hồ nhưng vô cùng thân thuộc. Cậu quay đầu lại, là cha đang hô lớn gọi cậu quay về. Cậu vừa tới ông cũng trực khuỵu xuống, vết thương từ mũi tên trên ngực cộng thêm ra sức kêu lớn khiến ông mất sức thở mạnh. Quang Phục rất nhanh nhảy xuống ngựa đỡ lấy cha.
- Đi! Mau! Đưa Bệ hạ rời khỏi ngay bây giờ, chúng ta không thể trụ được bao lâu nữa. Trong nửa canh giờ phải rời khỏi đây. Ta sẽ cầm chân chúng rồi rút quân theo sau. – Triệu Túc không để đứa con kịp nói gì đã lên tiếng ra lệnh. Ông đã hơn 60 tuổi, cùng Nam Đế chinh chiến bao năm từ thuở đầu dấy binh, ông biết quân ta không thể cầm cự được bao lâu nữa, nếu còn không rút sẽ đều phải chết.
- Không! Cha bị thương rồi, cha trở về cùng Bệ hạ rời khỏi. Con ở đây thay người. – Quang Phục lập tức phản đối.
- ĐÂY LÀ QUÂN LỆNH! – Triệu Túc nhìn thẳng đứa con thét lớn – MAU ĐI ĐI!
Nói rồi ông đứng thẳng dậy, bẻ gãy mũi tên trên người tiếp tục xông ra chém liền mấy tên địch. Quang Phục biết ý cha đã quyết sẽ không thay đổi, tình thế cấp bách đành leo lên ngựa chạy vào trong thành.
Vua và Hoàng hậu cùng gia quyến các vị trọng thần rời khỏi thành Gia Ninh đi về hướng tây bắc. Đi liên tục gần tới giờ Thìn ngày hôm sau mới dừng nghỉ. Trên đường đi đều để lại ám hiệu cho quân của Triệu Túc rút lui theo sau. Dừng nghỉ qua giờ Ngọ lại tiếp tục lên đường, đoàn người hướng tới vùng đất Tân Xương(8) của người Lão. Người Lão trước đây từng chịu ơn của Vua, sau khi lên ngôi vua đối đãi cũng không ít hậu thuẫn. Sau khi rời khỏi thành Gia Ninh một quãng xa, tốc độ di chuyển cũng chậm lại.
Mãi tới cuối giờ Tuất, một đoàn lính chưa tới 5 ngàn mới rệu rã tiến tới, thương binh nhiều lại thêm mệt mỏi đói khát khiến họ trông vô cùng tàn tạ. Quang Phục dù đã nghĩ tới kết quả xấu nhất nhưng khi nghe lời báo cáo của phó tướng Trịnh Đô, cậu cảm thấy như có tia sét giáng xuống, đầu óc choáng váng – cha cậu đã hi sinh. Hai tên lính khênh cáng tới, bên trên phủ một lớp vải thô trắng, cậu quỳ phục xuống bên cạnh, dỡ tấm vải ra, đưa tay lau lau vết máu đã khô trên mặt người cha. Cậu không nói gì, không khóc, cũng không hề biểu lộ biểu cảm gì, cậu đang rất bình tĩnh và vô cảm.
Nửa năm sau, Nam Đế ở Tân Xương chiêu mộ và tập hợp được không ít lực lượng, tới nay đã có gần hai vạn quân, nhiều trong số đó là người Lão, lính tráng chiếm phần lớn, binh sĩ ngày ngày luyện tập không ngơi nghỉ, người dân giúp rèn đúc vũ khí, vua cũng cho chuẩn bị thuyền lớn nhỏ các loại sẵn sàng tiến đánh bằng đường thủy.
Mấy tháng đầu mới tới đây, Vua bận nhiều nhưng sau dần mọi sự ổn định, người cũng không còn hay về muộn nữa. Hôm nay Vua cùng nàng ăn cơm tối xong, như thường lệ, người ngồi đọc sách, nàng ngồi đối diện may may vá vá, thỉnh thoảng nàng cũng có luyện chữ.
- Nàng đang may gì vậy? – Vua đang đọc sách liếc thoáng qua thấy vật nàng may lạ mắt nên dừng lại hỏi. Bình thường người không quá để ý nàng may cái gì, có lúc là cái áo cái quần, có lúc là khăn tay, túi hương. Nàng thích may vá nên Vua luôn để cho nàng thoải mái.
- Là áo trẻ con. – Nàng nhìn Vua mỉm cười nhẹ nhàng nói.
- Là con của ai mà có diễm phúc được Hoàng hậu may áo cho vậy? – Vua nhìn nàng một lát rồi mới hỏi đùa. Thực ra từ ánh mắt và giọng điệu của nàng người đã biết được bảy tám phần, nhưng không hề biểu lộ ra ngoài. Hai người làm vợ chồng lâu như vậy cũng chưa có con nên cũng không vội mừng, dù sao thỉnh thoảng nàng cũng may mấy đồ linh tinh tặng phu nhân, tiểu thư con các quan.
- Là con của chàng đó. – Nàng vừa nói vừa kéo mũi kim.
Vua nghe vậy liền hơi nhổm người dậy, hớn hở cười:
- Nàng có rồi sao?
- Y sư nói được hai tháng rồi. – Nàng đáp lại cố ý thêm hai chữ y sư để khẳng định.
Vua lúc này mới bỏ sách xuống, đi tới ôm lấy nàng. Dù trong lòng đang rất kích động, vui sướng muốn hét lên thật to nhưng nơi đây không phải điện Vạn Phúc, xung quanh còn nhiều binh lính canh gác và gia đình các quan, nếu kêu lên sẽ làm kinh động tới mọi người mất.
(Còn tiếp)
______________
Chú thích:
(1) Long Biên thành: Đại Việt Sử ký toàn thư chép “Bấy giờ các thủ lệnh hà khắc, người Lâm Ấp cướp biên giới, vua dấy binh đánh đuổi, xưng làm Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.”, trong đó cũng giải thích Long Biên bấy giờ không phải là Hà Nội, cũng chưa rõ vị trí chính xác thành Long Biên. Ngày nay nhiều người công nhận kinh đô của nhà nước Vạn Xuân tại vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội).
(2) Thiên Đức: niên hiệu của nhà nước Vạn Xuân khi Lý Nam Đế lên ngôi, tức năm 544.
(3) Điện Vạn Phúc: nơi ở của Vua và Hoàng hậu, tên do người viết tự đặt.
(4) Điện Vạn Thọ: nơi triều hội của Vua.
(5) Chu Diên: phía dưới sông Lục Đầu, vào khoảng lưu vực sông Thái Bình (Theo ĐVSKTT)
(6) Cửa sông Tô Lịch: bấy giờ sông Tô Lịch còn là một nhánh của sông Hồng mà Hồ Tây chưa có, cửa sông Tô Lịch bấy giờ vào khoảng Hồ Khẩu (gần chợ Bưởi) trên Hồ Tây ngày nay (Theo ĐVSKTT).
(7) Thành Gia Ninh: ở vùng Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ
(8) Tân Xương: huyện Phong Châu, Phú Thọ
______________________
Vài lời của tác giả: Cốt truyện chủ yếu dựa trên những sự kiện lịch sử có thật, nhưng những diễn biến và chi tiết cụ thể được viết dựa trên tưởng trượng và hư cấu của tác giả, truyện không có có giá trị tham khảo về mặt lịch sử.
Chỉnh sửa lần cuối: