“KHAI NỎ!”
Chỉ huy đội nỏ thủ trên bức tường thành cao nhất tay phải cầm loa đồng gầm lên, cùng lúc dứt khoát hạ tay kia xuống. Hàng trăm mũi tên đồng liền lao ra khỏi cỗ máy nỏ, phóng qua vùng không gian giữa tòa thành và đội quân xâm lược phía trước.
Đội bộ binh mở đường của kẻ địch cầm vẫn không chùn bước, chúng hò hét to hết cỡ để tạo uy thế, các hàng quân của chúng cầm khiên nhẹ đưa lên trước mặt và đồng loạt lao thẳng về tòa thành. Sự liều mạng đó khiến chúng lãnh hậu quả ngay tức thì. Những mũi tên đồng và các tấm khiên va chạm vào nhau. Với điểm tập trung áp lực cực lớn trên đầu bọc đồng, các mũi tên xuyên thủng qua tấm khiên, xé rách phần áo vải và cắt sâu vào da thịt kẻ địch.
Những tiếng la hét kinh khủng bắt đầu vang lên, kẻ địch ở những hàng đầu tiên thi nhau gục ngã. Những tấm khiên tròn quá nhỏ và yếu, những bộ áo vải không đủ chắc để giữ lại mạng cho chúng trước những mũi tên đồng. Chỉ khoảng một nửa số quân là còn có thể tiếp tục mở đường ra phía trước.
Người chỉ huy đội nỏ thủ trên tường thành không bận tâm đến việc có bao nhiêu kẻ địch vừa bị hạ gục, ông ta ra lệnh qua cái loa đồng trên tay:
“ĐỘI HAI: KHAI NỎ. ĐỘI BA: CHUẨN BỊ!”
Chỉ huy ở các bức tường thành kế bên cũng ra lệnh tương tự. Các mũi tên đồng tiếp tục bay ra như mưa về phía kẻ địch.
Những cỗ máy bắn nỏ phức tạp to lớn trên thành được làm từ đồng và gỗ. Trên máy có tới ba lẫy nỏ uốn cong có độ dài tăng dần lên, nối với nhau ở hai đầu. Cả ba lẫy nỏ đều làm bằng gỗ dẻo dai, đệm thêm bởi một lớp đồng ở bên ngoài và được tán chặt vào bằng đinh ốc. Ba lẫy nỏ này không thể nào kéo nổi bằng tay người bình thường mà phải kéo xuống bằng tay quay ở phía cuối hai bên cỗ máy. Sau đó chỉ việc kéo thanh chốt ở đuôi cỗ máy để bắn. Nỏ lớn đồng nghĩa mũi tên cũng phải lớn tương tự, thân tên làm từ gỗ có độ uốn vừa phải, dài một mét, đầu mũi tên được đúc từ đồng cứng và chia làm ba cạnh. Một cỗ máy nỏ có thể nạp được sáu mũi tên như thế và bắn chúng ra cùng lúc với lực mạnh tương đương nhau.
Cơ cấu hoạt động của cỗ máy phức tạp đến nỗi cần tới ba người để vận hành. Một người làm nhiệm vụ quan sát thước ngắm trên cùng cỗ máy, tính toán sao cho nỏ ngắm bắn trúng kẻ địch, hai người còn lại chỉnh khớp quay dưới chân cả dàn máy theo lệnh của người ngắm và nạp tên, bắn theo lệnh của chỉ huy.
Vị chỉ huy nỏ thủ đi qua đi lại, nheo mắt quan sát một lượt những cỗ máy và những người lính đang vận hành nó. Ông hít thở từng hơi gấp gáp rồi phóng tầm nhìn ra xa, nơi kẻ địch đang càn quét đến gần. Ông để tóc dài che cả mang tai, mớ tóc được cột gọn gàng thành một chùm phía sau. Trên đầu, ông đội một cái nón ống được tô điểm bằng các hoa văn màu xanh lá. Ở giữa nón đính một mảnh đồng nhỏ chỉ xéo qua một bên, kí hiệu chỉ huy đội nỏ thủ.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, một cỗ máy bắn nỏ bỗng bị trục trặc, tay quay ở bên hông máy bị kẹt khiến cho hai người lính ở đó không quay mũi nỏ hướng lên được. Chỉ huy bỏ cái loa xuống, nhanh chóng chạy đến bên cỗ máy gào lên:
- KHÓA CHỐT BẮN RỒI TRA DẦU VÀO MAU LÊN!
Thậm chí, ông xắn tay vào múc dầu ở cái thùng bên cạnh, tra vào khe hở trên gờ hai bên cỗ máy trong lúc hai người lính khóa lại các chốt an toàn trên máy. Động tác của ông nhanh đến nỗi người ta dễ dàng lầm tưởng ông là một người lính chứ không phải là một vị chỉ huy của cả một đại đội nỏ thủ trên thành.
Người lính thước ngắm la lên:
- Đội trưởng, chúng vào tầm ngắm rồi!
Vị chỉ huy ngước đầu nhìn ra ngoài chiến trường, kẻ địch đúng là đã vào tầm ngắm. Không còn thời gian để mà nhặt cái loa lên nữa, ông lấy hơi vào lồng ngực gầm lên:
“ĐỘI BA: KHAI NỎ. ĐỘI MỘT: CHUẨN BỊ!”
Ra lệnh xong, ông gấp gáp xoay nhanh cần quay để kiểm tra, cỗ máy đã hoạt động trơn tru trở lại. Ông ra lệnh:
“Mở chốt và chỉnh lại tầm ngắm mau lên!”
Hai người lính mở chốt và xoay cần lên theo hướng dẫn của người ngắm. Cả cỗ máy kêu cạch cạch và nâng dần lên, chĩa về phía kẻ địch.
“ĐỘI MỘT: BẮN!”
Sáu mũi tên đồng từ cỗ máy nỏ trục trặc ra trận vừa kịp lúc cùng với những mũi tên khác.
Xa xa phía sau tầng tầng lớp lớp hàng ngũ quân địch, những lá cờ hiệu cùng cờ xí bay phần phật không ngừng. Nổi bật nhất trong đó là lá cờ vàng thêu hình đầu rồng đang há mồm nhe nanh một cách dữ dằn. Và nơi tập trung cờ cũng là nơi tập trung hầu hết tướng lĩnh của kẻ địch, mỗi lần cần ra lệnh, các lá cờ hiệu mang hàm lệnh tương đương sẽ được phất lên.
Một lá cờ đỏ với rằn đen quanh viền được phất lên từ phía sau, đó là lệnh tấn công. Mặc cho phe mình đã chết vô số người vì những mũi tên đồng khủng khiếp của đối phương, tên tướng lĩnh không những không cho lui quân mà còn ra hiệu tiếp tục tiến lên. Nhưng lần này là tệnh tổng tấn công, bộ binh nhẹ, lính mở đường, kị binh…
Tất cả kẻ địch dồn toàn bộ quân lực tiến thẳng về phía thành, khoảng cách giữa chúng và tường thành càng lúc càng rút ngắn.
Người chỉ huy điều đội nỏ binh ra sát tường thành, đứng xen kẽ với những cỗ máy bắn nỏ với khoảng cách đều nhau.
Nỏ binh sử dụng những chiếc nỏ đồng cầm tay nhỏ gọn, dễ dàng sử dụng hơn so với những chiếc nỏ máy to lớn gắn cố định trên tường thành, chỉ cần kéo ngược dây nỏ, đặt mũi tên vào rồi ngắm bắn. Nhưng loại nỏ cầm tay này chỉ có thể bắn các mục tiêu ở cự li tầm trung – gần và chỉ có thể bắn một mũi tên mỗi lần bắn so với nỏ máy.
Chỉ huy di chuyển gấp dọc tường thành, quan sát trận địa của kẻ địch bên dưới rồi thét lên:
“ĐỘI NỎ BINH. NGẮM!”
Và ra lệnh:
“BẮN!”
Những mũi tên đồng giờ đây nhiều hơn cả trước đó, chúng lao vun vút cùng với nhau. Cứ một mũi tên lớn bắn ra từ nỏ máy thì kèm theo ba mũi tên nhỏ từ nỏ binh. Các mũi tên lớn bay được xa hơn nên thường đáp xuống các mục tiêu nằm ở khu vực trung tâm đội hình quân địch. Chúng mạnh đến nỗi đủ sức hạ gục được cả kị binh, đơn vị cơ động và khó bị bắn trúng tên nhất. Những mũi tên đâm thẳng vào thân ngựa, khiến cho chúng hoảng loạn, hất ngã chủ của mình và quay ra đạp bừa vào những kẻ gần đó.
Ở khu vực tiền tuyến, vô số kẻ địch bị hạ gục bởi lực lượng nỏ binh. Nhưng số không bị trúng tên còn đông hơn thế gấp nhiều lần và chúng đang dần áp sát tường thành.
Vị chỉ huy mất bình tĩnh, gào lên:
“TẤT CẢ: BẮN TỰ DO!”
Và những mũi tên không còn bắn ra theo từng đợt nữa mà bắn ra liên tục không ngừng, tự do phóng ra ngoài thành. Một cơn mưa tên thực sự.
Chỉ huy đội nỏ binh ra lệnh đánh trống, báo hiệu cho đội bộ binh trong thành chuẩn bị giáp chiến. Ông tóm lấy một cái nỏ, lôi xềnh xệch một bao tên ra sát tường thành, trực tiếp tham chiến cùng mọi người.
Nhưng cơn mưa đó chẳng là gì so một biển kẻ địch đông đúc, hung hãn. Giống như một cơn mưa trên đất liền bị bão biển ập vào và nuốt chửng.
Bây giờ, người chỉ huy cùng với đội quân thủ thành của mình thậm chí không cần nhắm nữa. Kẻ địch đông tới mức bắn trật còn khó hơn cả bắn trúng. Ông nheo một mắt lại nhắm, hai tay liên tục nạp, bắn tên không ngừng.
Hàng loạt tiếng cộp cộp phát ra ở dọc hai bên tường thành, kẻ địch đang dựng thang, tiến công theo chiều dọc lên thành.
Một cái thang cũng vừa được bắc vào tường thành ngay vị trí của vị chỉ huy nỏ binh. Kẻ địch nhanh chóng đóng cọc xuống đất, khóa chặt thang với những cây cọc để cố định nó.
Vị chỉ huy liền với tay vào bao tên, nhưng ông không với được thứ gì cả, ông liền hốt hoảng nhìn vào trong bao. Nó trống rỗng. Một tên địch nhanh chóng leo lên, hắn chỉ mặc quần áo bằng vải thô sơ, không mang giáp và xách theo một cây kiếm. Không chần chừ, vị chỉ huy ném ngay cây nỏ xuống đất, rút cây chủy thủ làm bằng đồng đỏ giắt sau lưng ra, cận chiến với hắn.
Thông thường, các nỏ binh thường vô cùng kém cỏi trong việc đánh nhau cận chiến. Họ được huấn luyện để sử dụng nỏ thuần thục, hạ gục nhanh nhiều kẻ địch từ xa chứ không phải sử dụng cơ bắp mà chơi trò cận chiến một chọi một.
Vì thế, đây có thể là một cuộc đọ sức khó khăn với một vị chỉ huy vốn quen với việc sử dụng nỏ.
Và cuộc xáp lá cà giữa chỉ huy đội nỏ binh và tên địch kết thúc chóng vánh chỉ trong một nhát đâm. Người sống sót chính là người chỉ huy, với một cú dịch người nhanh, ông đã đâm trúng ngay tim kẻ địch trước khi hắn kịp ra tay phản công.
Trong giây phút đó, cơn thịnh nộ của ông bùng nổ. Ông tóm lấy xác hắn, đứng lên tường thành, nâng cái xác lên cao, gầm lên và ném xuống cái thang lúc nhúc kẻ địch. Bất ngờ bị vật lạ ném trúng, cả tá tên mất thăng bằng, buông tay ra khỏi thang và rơi la liệt xuống đất.
Quân địch tràn lên tường thành liên tục, gây hỗn loạn và phá vỡ hoàn toàn đội vệ binh trên tường thành. Với cây chủy thủ trên tay, ông lăn xả vào bất kì kẻ nào không thuộc phe mình, chiến đấu bằng tất cả sức lực mà ông có.
“ĐÙNG!”
“RẦM!”
Vị chỉ huy nhìn quanh, mọi thứ đã quá muộn, cổng thành đã đổ. Quân địch đã bao vây toàn bộ tường thành và tràn vào con đường đất bên dưới. Đội thương binh của kẻ địch rầm rập tiến thẳng vào bên trong thành và đang nghiền nát đội quân thủ thành.
Khác hoàn toàn với đội bộ binh mở đường, thương binh là đơn vị quân được tuyển lựa vô cùng kĩ càng và khắt khe từ những người khỏe mạnh nhất. Chúng mặc trên người một bộ giáp đan sắt chắc chắn, có khôi giáp bảo vệ đầu và sử dụng một mũi thương dài, lớn làm vũ khí. Mỗi lần tấn công, cả đội quân sẽ đồng loạt chĩa mũi thương tới trước, hướng thẳng về phía mục tiêu mà đâm.
Những đội lính phòng vệ trong thành không hề có cơ may chiến thắng trước đội quân mình đồng da sắt này. Họ nhỏ con hơn, không có giáp sắt chắc chắn như chúng nên nhanh chóng bị tiêu diệt.
Đứng trên tường thành, ý chí của vị chỉ huy chùn xuống, từ bỏ mọi hi vọng. Trong cơn loạn chiến đó, ông cùng một tốp lính thân tín bước lên gờ tường thành và nhảy xuống.
Nhưng đó không phải là một cuộc tự sát tập thể. Họ tiếp đất an toàn và còn sống. Một người lính lấy ra một thứ đưa cho vị chỉ huy, thứ mà lẽ ra không nên tồn tại ở thời đại này, một chiếc máy liên lạc.
Vị chỉ huy cầm lấy chiếc máy và bấm nút báo ngay:
- Thành thất thủ rồi!
Giọng nói từ chiếc máy ra lệnh:
- Mau chóng rút toàn bộ người của ta ra khỏi thành đi!
- Rõ rồi!
Tại một khu vực nằm ở hướng đông nam, cách nơi xảy ra chiến sự khá xa, có một đội quân nhỏ đang đóng quân ở đó. Hơn chục lán trại nhỏ được dựng lên tại khu đất trống trong rừng, tách biệt với mọi thứ xung quanh.
Xung quanh khu trại tập trung khoảng hơn trăm người. Kẻ thì đứng dưới gốc cây, người thì ngồi trên cành cây cao chót vót, vài tên khác tụ tập trò chuyện trước mấy căn lều.
Khác hẳn với hai đội quân đang giao tranh trong thành, đội quân tách biệt này có cả nam lẫn nữ. Bọn họ đều mặc giáp chia lớp, làm bằng kim loại mỏng và nhẹ, ốp vào từng phần trên người để cử động dễ dàng. Trên vai giáp của họ đều có kí hiệu ba dấu vạch xéo khắc chìm vào trong, vạch giữa nhích lên cao hơn hai vạch còn lại. Giáp phục của họ giống nhau cứ như một đội quân chính quy thật thụ.
Tuy nhiên vũ khí của đám người này lại không ai giống ai. Kẻ thì giắt kiếm bên hông, kẻ thì xách theo một cây giáo ngắn… Dường như vũ khí của họ được sử dụng tùy theo sở thích cá nhân. Nhưng chúng đều có một điểm chung là đều rất mới, sáng bóng và được chạm trổ cực kì tinh xảo.
Rõ ràng đây là một tốp quân được tổ chức, huấn luyện bài bản, trang bị hiện đại hơn. Thậm chí khả năng chế tạo vũ khí và công nghệ cũng đi trước cả thời đại, nếu đem ra so sánh với những thứ được sử dụng trong cuộc loạn chiến tại thành.
Chính giữa khu trại được đặt một tháp thu phát sóng di động cỡ nhỏ, có thể tháo lắp được. Một nhóm năm người đang tụ tập quanh đó, gồm một người đàn ông trung niên, bốn người kia trẻ tuổi hơn gồm hai nam hai nữ, dưới nền đất đặt một tấm bản đồ lớn.
Người đàn ông trung niên không mang giáp như những người kia mà mặc một bộ áo màu xanh da trời nhạt và áo khoác ngoài màu đen. Ông ta đặt cái máy liên lạc xuống, lắc đầu và thở dài:
- Cuối cùng thì chuyện này cũng tới.
Ông ta khẽ nhổm người lên, mắt nhìn vào tấm bản đồ:
- Con người. Khi đã nắm quyền lực trong tay thì luôn kiêu căng và cao ngạo!
Người thanh niên ngồi cạnh ông chống tay lên thanh kiếm của mình, phì cười:
- Thì chúng đều là con người thôi mà!
Nói xong, ông nhìn xuống tấm bản đồ, lướt tay mình nhẹ nhàng trên đó như thể đó là một thứ rất đáng quý với ông. Ông nhìn chầm chậm từng nơi trên bản đồ bằng khuôn mặt mơ màng, đầy cảm xúc, không để ý gì đến mọi thứ xung quanh.
Tất cả đều im lặng, không ai nói gì cả.
Ngoại trừ cô gái trẻ tuổi nhất trong nhóm, cô dường như chẳng quan tâm lắm đến việc đó. Cô lôi cây dao ra lau lại rồi soi mặt mình trong đó, con dao hắt sáng lên khi cô đưa nó ra ánh mặt trời.
Sau một hồi mân mê với con dao, cô lên tiếng:
- Vậy chúng ta làm gì đây?
Người đàn ông chợt tỉnh lại, ông rời mắt khỏi bản đồ, nhìn mọi người và bảo:
- Thông báo cho tất cả đi. Tối nay chúng sẽ đột kích vào thành!
Nửa đêm, tiếng bước chân của các tốp lính đi tuần vang lên khắp nơi trong thành. Chúng lùng sục từng con hẻm một, tìm xem liệu có còn người sống sót trốn ở đây không.
Kể từ khi được xây dựng xong, ngôi thành này chưa từng thất thủ lần nào do thành được xây trên mô đất cao, xung quanh được bao che bởi rừng cây rộng lớn, nhiều con kênh rộng và các hào sâu. Chẳng những có địa hình hiểm trở bảo vệ mà thành còn sở hữu một hệ thống nỏ phòng thủ liên hoàn, có thể tiêu diệt được kẻ địch từ xa.
Nhưng giờ đây, nơi này như biến thành một pháo đài ma, xác người chết ở khắp nơi. Nhà cửa ở ven thành bị đốt trụi, thắp sáng lên nhằm dập tắt hi vọng của những kẻ cố trốn ra khỏi thành.
Tuy nhiên, lại có những kẻ kì lạ thay vì phải tránh xa nơi nguy hiểm này thì chúng lại chui đầu vào. Bốn bóng đen men theo những cành cây trên cao, leo trèo qua các vách tường và tụ tập lại tại khu vực đông nam trong thành.
Ở đó, một nhóm người nhỏ đang đứng chờ, người dẫn đầu chính là vị chỉ huy đội nỏ binh thủ thành. Ông ta cùng các thân tín của mình mặc một bộ đồ giống hệt những kẻ đột nhập. Một bộ giáp chia lớp gọn gàng, chắc chắn và kí hiệu ba vạch xéo khắc chìm trên vai.
Bốn bóng đen đó tập họp tại chỗ vị chỉ huy. Đầu tiên là hai cậu thanh niên, người lớn tuổi nhất, già dặn nhất trong đám đeo một cây kiếm ở sau lưng, cậu kia thì chẳng mang thứ gì theo cả ngoại trừ cặp giáp bảo vệ cánh tay. Theo sau là hai cô gái, một người ra dáng chị cả, cô ta vác một cây nỏ và một hộp mũi tên, cô gái nhỏ nhắn hơn chỉ xách theo một con dao nhỏ giắt trên cổ tay.
Ông ta hỏi ngay:
- Các người lấy được bản thiết kế đó về chưa?
Người thanh niên dẫn đầu đáp:
- Lấy được rồi. Chúng tôi cũng tiêu hủy hết cả những bản sao chép của chúng!
- Còn những kẻ biết về bản thiết kế đó?
Cô gái đeo nỏ lấy một mũi tên ra, lăn nó trong lòng bàn tay và trả lời:
- Cũng đã xử lí xong rồi!
Vị chỉ huy liếm môi chua chát:
- Bao nhiêu ơn nghĩa…
Giọng ông đứt đoạn.
- Trả như thế đã là quá đủ rồi. Đây sẽ là lần cuối cùng chúng ta giúp họ.
Đưa tay lên nhúc nhích bên vai đang đeo kiếm của mình, người thanh niên bảo:
- Như vậy thì những người này sẽ thua chắc. Bọn địch đang dẫn theo đội viện binh lớn hơn đến đây đấy!
Vị chỉ huy liếc qua bên kia con hẻm, ông thấy mấy ánh đuốc của lính đi tuần ở phía xa, có lẽ chúng đang đến gần đây. Ông nói:
- Họ phải tự lo thôi!
Ánh đuốc đến gần hơn, con đường chính ở trước mặt họ cũng bắt đầu có ánh đuốc xuất hiện.
Vị chỉ huy bắt đầu phân công, đầu tiên là kẻ mang kiếm:
- Anh dẫn mọi người đi đánh sập toàn bộ các lò rèn trong thành. Nhớ cẩn thận một chút, hiện giờ chúng đang trông giữ xưởng rèn rất cẩn thận.
Ông hất đầu với những thuộc hạ:
- Họ sẽ dẫn đường!
Ánh lửa hiện ra, cả hai tốp lính ở hai đầu đường đều phát hiện ra họ, mỗi tốp gồm mười người với tám thương binh mang giáp bảo vệ, cầm thương dài trên tay, hai kiếm binh cầm theo lồng đèn đi trước và kiếm nhẹ. Lũ kiếm binh liền hô hoán lên khi phát hiện ra một đám người dám ngang nhiên tụ tập trong thành. Chúng đồng loạt xông thẳng đến mục tiêu.
Tuy nhiên, việc đó dường như không ảnh hưởng nhiều lắm đến cuộc họp riêng của những người này. Tên sát thủ đeo kiếm nhảy lên trên nóc nhà cùng với thuộc hạ của vị chỉ huy và đi mất.
Chỉ huy nhìn sang cô gái đeo nỏ, nói chuyện một cách bình thường:
- Cô theo tôi đi xử lí mấy cái máy.
Cuối cùng ông hất đầu về phía đám lính canh đang hung hăng xông đến đây, ra lệnh cho hai người còn lại:
- Còn hai người: Thu dọn chỗ này. Sau đó theo đội trưởng thu dọn xưởng rèn. Chỗ đó tốn khá nhiều thời gian đó.
Sau đó, vị chỉ huy bỏ đi cùng với cô gái đeo nỏ, để hai người kia ở lại. Đám quân tuần tra hung hăng lao tới gần hơn cùng với mấy tiếng gầm thét không ngừng.
Cả hai người nhìn nhau và cùng nhoẻn miệng cười. Họ tỏ vẻ khinh thường đám quân đông đúc kia, như thể đám lính này là quá tầm thường so với khả năng của họ. Cô gái rút con dao trên cổ tay ra, thứ mà cô đã dùng để soi mặt vào sáng nay. Còn chàng trai kia đập vào cái chốt nhỏ trên giáp bảo vệ ở hai cổ tay, hai lưỡi dao tuốt ra.
Họ đưa vũ khí lên, chuẩn bị cho trận tử chiến với đám lính tuần tra. Lưỡi dao của họ phản chiếu ánh đuốc bập bùng, theo sau là lũ thương binh ở rầm rập lao tới, cùng chĩa mũi thương đen xỉn, mờ đục về phía họ.
Tại xưởng rèn, những tên lính gác không tập trung vào nhiệm vụ canh gác của mình, chúng trò chuyện rôm rả về chiến thắng ngày hôm nay. Vài tên cầm vũ khí múa may, phô diễn khả năng của mình. Chúng không biết rằng có những bóng đen đang âm thầm tiến đến gần mình từ các nóc nhà ở gần đó.
Ngay trước cửa xưởng rèn có hai tên lính đang đứng gác, chúng trở thành mục tiêu đầu tiên. Hai sát thủ rón rén tiến đến gần từ trên nóc xưởng rèn, một tên đưa ba ngón tay lên và đếm ngược bằng cách rút dần từng ngón vào rồi cả hai cùng lao xuống. Lưỡi kiếm dài vung ra, một tên lính bị đâm xuyên qua lưng. Tên đứng cạnh bị hai bàn tay thò ra từ phía sau lưng chộp lấy đầu, bẻ cổ. Trong một thoáng chốc khựng lại vì ngỡ ngàng, lũ lính canh lúc này mới hốt hoảng cầm lấy vũ khí để tự vệ, đồng thời hét lớn lên, báo động cho năm tốp lính canh đang đi tuần ở gần đó đến tiếp cứu. Nhưng chúng không biết rằng những kẻ chúng đang đối đầu không phải là những tên sát thủ thông thường.
Bốn sát thủ nữa ập xuống từ trên cành cây, trong đó có hai cô gái, nhập bọn hỗ trợ với đồng bọn của mình.
Và sáu tên sát thủ đối đầu với cả đội quân gần sáu mươi người. Một chọi mười, cuộc chiến không công cân sức.
Lũ thương binh dốc thương lao về phía lũ xác thủ, lũ kiếm binh bao vây bọc lót từ phía sau. Còn những tên cầm khiên vây chặt hai bên chặn mọi lối thoát của đám sát thủ liều mạng này.
Một cô gái trong đội sát thủ mở màn tấn công bằng việc nhảy vào tên lính nằm ở ngay chính giữa đội thương binh. Cô trèo lên ngồi ngay sau lưng, kẹp chặt chân vào người hắn, xọc hai dao vào ngay cổ và thoát hiểm bằng cách vươn hai tay sang ngang, đạp vào người hắn, bung mình một vòng trên không trở ngược ra. Mọi việc xảy ra trong chớp nhoáng, chỉ khoảng trong vòng vài giây.
Tên lính đổ gục xuống chết, máu me bê bết trên nền đất. Đứng giữa vòng vây của kẻ địch, cô gái giơ hai cây dao lên, cười mỉm. Nụ cười đó gieo nỗi sợ và sự hoang mang ngay tức thì. Lũ lính chần chừ nhìn nhau, không ai dám đến gần. Và đó là thời điểm, đội sát thủ bắt đầu màn trình diễn khả năng giết chóc của mình.
Kết quả kẻ chiến thắng cuối cùng cũng là lũ sát thủ. Bọn lính nằm chết la liệt khắp nơi, không một ai còn sống. Còn đội sát thủ thì vẫn còn đủ người, không ai thiệt mạng.
Đội trưởng của đám sát thủ cất cây kiếm ra sau lưng, quơ tay hướng thẳng vào lối đi xuống dưới xưởng rèn. Hàng chục tên sát thủ khác lũ lượt xuất hiện từ những nơi ẩn nấp gần đó, chúng tiến thẳng vào xưởng rèn với cây đèn pin gắn trên vai phải và đeo theo một cái túi to ở sau lưng.
Lối vào dẫn sâu xuống lòng đất, dần mở rộng ra thành một cái hang ngầm rộng lớn với nhiều cột đá tự nhiên lẫn nhân tạo mọc lên cao tới trần nhà. Cái hang đã được cải tạo thành một xưởng rèn với vô số lò luyện kim, búa, kềm... Các xe đẩy chất đầy quặng kim loại nằm ngay bên dưới những giếng trời lớn, với những sợi dây thừng thòng xuống từ trên cao. Sâu hơn bên trong là các lò rèn với nhiều khuôn đúc và vô số các hầm chứa các đầu mũi tên bằng đồng.
Những cột đá mọc từ đáy lên cao là thứ giữ cho nơi nơi này còn nguyên vẹn và không sụp xuống. Đám sát thủ chia ra từng nơi, lấy ra hàng đống những thiết bị máy móc và các cuộn dây điện. Họ đặt những cục thuốc nổ nhỏ, đặt lên những cột đá, nối dây từ các khối thuốc nổ đó vào một thiệt bị hẹn giờ hình tròn. Sau khi nối dây xong, sáu cái đèn nhỏ trên đó bắt đầu chớp tắt liên tục, họ tiếp tục nối dây từ các thiết bị đó vào nhau. Cứ như thế, cả núi thuốc nổ và thiết bị hẹn giờ được cài trong khắp hang cùn ngõ hẹp trong cả cái xưởng rèn dưới đất này.
Trong lúc đó, trên tường thành phía đông của thành, đám sát thủ cũng vừa xử lí xong lũ lính canh, xác chúng nằm rải rác trên tường thành. Chỉ huy nỏ binh nhìn xuống dưới tường thành, điềm tĩnh bảo:
- Một tên chạy thoát kìa!
Một tên lính kịp chạy thoát, hắn vứt bỏ vũ khí lẫn nón bảo vệ cho nhẹ người, tháo thân chạy thẳng theo đường mòn vào trong thành. Hai tên sát thủ trên thành lập tức nhảy xuống đuổi theo. Cô gái đứng cạnh chỉ huy nỏ binh lắc đầu cười:
- Lũ nghiệp dư!
Cô lôi cái nỏ ra phía trước, kéo cả ba cánh cung thép về sau, đặt mũi tên vào và nhắm về phía tên lính. Thay vì nhắm thẳng về phía tên lính, cô hướng mũi nỏ lên, qua khỏi đầu mục tiêu chút xíu và bắn.
Mũi tên cắm phập ra sau gáy tên lính, ngay trước khi lưỡi dao và mũi giáo găm vào. Hai tên sát thủ giật mình quay lại nhìn. Cô gái mỉm cười:
- Nhặt giùm mũi tên nhé!
Và cô quay trở vào trong tường thành, cầm cây đèn pin lên chĩa ra bìa rừng ngoài thành, bấm đèn chớp tắt vài cái. Lập tức cả chục người ào ào băng qua rừng, họ đeo theo một cái túi lớn, nhảy lên tường thành. Họ chia ra đi dọc theo tường thành, mỗi người tiếp cận một cái máy bắn nỏ và bắt đầu công việc “sửa chữa” nó.
Bọn họ lôi ra hai hũ chất lỏng, cột nó lên cái máy bắn nỏ, gắn chúng với nhau bằng các ống tiếp nối và trang trí thêm bằng một bộ điều khiển ở trên cùng. Sau đó, họ bắt đầu nối chúng lại với nhau bằng dây điện.
Vị chỉ huy đi qua từng cỗ máy để kiểm tra, ông nhắc nhở họ liên tục:
- Nối dây vào mấy bình cẩn thận. Thứ này mà phát nổ là không ai chạy kịp đâu.
Ông chỉ tay lên trên cùng mấy cái nỏ máy khổng lồ:
- Coi chừng bộ điều khiển, kiểm tra kĩ các mối nối thêm một lần sau khi hoàn tất.
Cô gái đi theo sau lưng chỉ huy hỏi:
- Trước sau gì chúng ta cũng đi. Vậy cần gì phải tốn sức hủy hết mấy thứ này. Chúng chỉ là những thứ vũ khí thô sơ thôi mà.
Vị chỉ huy bảo:
- Thô sơ với chúng ta thôi. Nhưng với lũ con người thì chúng là thứ vũ khí tân tiến đấy. Nếu lũ giặc dã kia mà sửa được thứ này, gắn thêm bánh xe vào là thứ này sẽ trở thành vũ khí tấn công cơ động tầm xa. Không còn là vũ khí phòng thủ nữa đâu.
Ông dẫm qua xác một tên lính, đạp cây kiếm gãy của hắn qua một bên:
- Lúc đấy, chúng mà thôn tính hết các nước, hợp nhất loài người lại thành một thì sớm hay muộn gì… Chúng cũng sẽ tìm ra và tiêu diệt cả chúng ta.
Cô gái kéo chốt khóa bên dưới nỏ, các cánh nỏ tự động gấp lại, trập sát vào thân, cô bật cười:
- Ngài lo xa quá đấy!
Người đàn ông trừng mắt với cô gái:
- Cứ cho ta là người thích lo xa đi. Thà tiêu diệt mầm họa ngay trước khi nó hình thành còn hơn là để sau này tốn công tốn sức thu dọn một mớ hổ lốn.
Cô gái không nói gì, nhíu mày suy nghĩ và cất cái nỏ của mình ra sau lưng.
Sau khi đặt thuốc nổ xong, cả hai nhóm sát thủ tiến về phía hoàng cung. Hầu hết lính canh đều đã được lệnh tả ra khắp nơi trong thành để truy quét những người còn sống sót trong thành, chỉ còn một số ít ở lại canh gác hoàng cung.
Bên ngoài cung điện, từng tốp lính canh bị hạ gục trong im lặng. Thậm chí, những kẻ phát hiện ra, muốn đánh trống báo động cũng nhanh chóng bị hạ gục.
Giữa cuộc tàn sát im lặng, vị chỉ huy nỏ binh bỗng phát hiện một lá cờ lạ trên nóc tháp canh cao nhất của hoàng cung. Ông nghiến răng tức giận ngay khi ra đó là lá cờ vàng thêu hình đầu rồng đang há miệng nhe răng. Không chần chờ, ông leo ngay lên đỉnh tháp, tuốt dao trên giáp tay ra chém gãy lá cờ xuống. Ông cầm theo lá cờ, gầm lên:
- Tiến vào đại sảnh!
Hàng chục cây đuốc cùng những chảo lửa đang cháy không lên không ngừng trong đại sảnh hoàng cung, thắp sáng nơi này. Ánh sáng đó rọi rõ từng chi tiết hoa văn trên tường, những con cò, chim cỏ lau, hình người đang giã gạo… Có cả những vị thần mà họ từng thờ phụng, những hình người cách điệu đang cầm những thứ vũ khí khác lạ, giúp họ đánh lại kẻ thù.
Trong căn phòng rộng thênh thang, tên tướng giặc ngồi vắt vẻo trên ngai bằng đá thạch anh xanh, lũ thuộc cấp thì cụng li chúc mừng hắn không ngớt lời về chiến công hôm nay. Cả lũ giặc dã đang mở tiệc linh đình ăn mừng trong đó mà không biết rằng tử thần đang tìm đến chúng.
Giữa lúc chè chén hăng say, cả đám tướng tá bỗng khựng lại khi thấy một đám sát thủ hừng hực sát khí tiến vào trong đại sảnh. Vũ khí trên tay họ phản chiếu màu kim loại bạc và loang đỏ sáng loáng.
Tên tướng giặc ngồi trên ngai nhìn quanh với bộ mặt nửa say, nửa tỉnh. Cả cửa chính và cửa phụ hai bên đều bị hàng chục… mà không phải, hàng trăm tên sát thủ mặc giáp chiến cùng hàng tá thứ vũ khí bao vây.
Đám thuộc hạ nhanh chóng cầm vũ khí lên, đứng túm tụm quanh tên tướng giặc để bảo vệ hắn. Nhưng tên nào tên nấy đều run bần bật, đứng nép sát vào ngai. Trông chúng như đang chờ mong tên tướng đứng ra bảo vệ mình thì đúng hơn.
Vị chỉ huy nỏ binh đi tới trước, quẳng lá cờ xuống đất trước mặt lũ tướng địch. Tên tướng giặc bừng tỉnh khỏi cơn say rượu, đôi mắt hắn hết nhìn những hình vẽ trên tường rồi nhìn vị chỉ huy nỏ binh. Vị thần trên tường mặc một bộ giáp lạ với ba đường xéo trên vai và vũ khí là một con dao ẩn dưới lớp giáp cổ tay. Vị chỉ huy nỏ binh cũng mặc một bộ giáp gần giống hình trên tường, vai giáp cũng khắc ba đường xéo chìm vào trong và tay phải ông đeo giáp bảo vệ với một con dao ngầm thò ra từ bên trong.
Và tên tướng giặc đã nhận ra điều đó quá muộn.
Khoảng nửa tiếng sau, tất cả bọn họ đều rời khỏi thành, quay về khu rừng ở phía đông nam. Bọn họ đồng bộ hóa toàn bộ thiết bị kích nổ trong thành cùng với hệ thống điều khiển trong trại và kết nối chúng qua tháp phát sóng.
Trên đồi, người đàn ông mặc áo khoác đen nắm chặt tấm bản đồ trên tay, tiếc nuối nhìn về phía tòa thành. Ông ta bảo:
- Đưa công tắc đây!
Một người cầm một bộ điều khiển với cọng dây nối dài thòng tới đưa cho người đàn ông. Vị chỉ huy nỏ binh chắp tay lại, nói:
- Ông có chắc là mình muốn đích thân làm chứ?
Chỉ huy nhìn vào tấm bản đồ trên tay người đàn ông mặc áo khoác, nhắc nhở:
- Không tiếc à?
Người đàn ông mặc áo khoác nhìn tấm bản đồ, cười gượng:
- Không tiếc ư? Tôi đã vẽ từng đường nét một, thiết kế từng chiến hào, từng nơi đặt bẫy. Tất cả chỉ để tạo nên một tòa thành không thể bị xâm lược cho họ.
Vị chỉ huy mỉa mai nói:
- Quá nhiều hi vọng cho một cái vỏ ốc rỗng nhỉ?
Người đàn ông mặc áo khoác phì cười:
- Đúng thế!
Ông ta cầm cái công tắc lên, ngón tay cái rung rung trên nút công tắc, chần chừ không dám bấm. Ông liếc nhìn toàn cảnh tòa thành lần cuối và nói dứt khoát:
- Kết thúc thôi!
Ông ta ấn nút công tắc, ngoảnh mặt đi, ném tấm bản đồ vào đống lửa trại. Cả đội quân sát thủ thu dọn mọi thứ, rời khỏi nơi này.
Các ánh đèn trên các thiết bị kích nổ trong xưởng rèn và trên tường thành chớp nhanh dần và cuối cùng sáng hẳn lên. Nhiều ánh lửa lóe lên lần lượt trong thành cùng với tiếng nổ tạo ra sóng xung kích lan rộng ra xung quanh.
Những cột đá khổng lồ chống đỡ xưởng rèn ngầm dưới đất bị các khối thuốc nổ bẻ gãy, tan nát thành nhiều mảnh vụn, kéo sập dần từng phần hang. Trên tường thành, những lọ chất nổ lỏng trên các máy nỏ trộn lẫn vào nhau, sủi bọt, phát nổ và phụt ra cả cỗ máy. Hỗn hợp đó tác động với nhau thành một nguồn nhiệt lớn, nấu chảy dần các máy nỏ, khiến các bộ phận bằng đồng của chúng nhão ra thành chất lỏng đỏ rực, dính vào nhau chặt đến mức không thể nhận ra được hình dạng.
Các vụ nổ khác trong thành kết hợp với nhau mạnh đến mức thổi tung cả tường thành xung quanh khiến cho đất đá, bụi mù, gạch ngói, gỗ vụn văng ra khắp nơi.
Một tấm đồng cũng bị thổi tung theo vụ nổ, bắn lên cao, xoay vèo vèo qua lớp bụi mù và cắm phập xuống đất.
Vào thời cổ đại, khi các quốc gia vẫn chưa phân định đường biên giới rõ ràng như ngày nay, các nước lớn vẫn thường xuyên mở rộng bờ cõi bằng cách xâm chiếm các nước nhỏ hơn. Những nước nhỏ hơn chỉ có hai lựa chọn, hoặc là chấp nhận đầu hàng, sáp nhập vào nước lớn, hoặc đánh trả lại bằng mọi giá.
Thành Cổ Loa cũng không ngoại lệ, bị xâm lược và lựa chọn đánh trả, nhưng đã thất bại. Người ta chỉ còn nhớ về nơi đó qua câu chuyện truyền miệng, những câu chuyện đó có rất nhiều phiên bản khác nhau: Thành Cổ Loa, Truyền Thuyết Nỏ Thần, Trọng Thủy – Mị Châu… Dù là phiên bản nào, câu chuyện cũng đều nhắc đến một thứ vũ khí huyền thoại, thứ vũ khí được các vị thần trao cho người dân để họ giữ thành trước những kẻ xâm lược.
Nỏ thần.
Như mọi câu chuyện khác, câu chuyện về nỏ thần cũng là một truyền thuyết, không ai biết liệu có bao nhiêu phần trăm là sự thật, bao nhiêu phần trăm là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Sự thật về truyền thuyết đó cũng như tòa thành này, bị chôn vùi dần và lãng quên dưới lớp bụi cát theo thời gian. Mọi thứ trên tòa thành thay đổi liên tục không ngừng, nhưng những thứ nằm dưới đó vẫn giữ nguyên như thế. Trong số đó có cả tấm miếng đồng văng ra từ vụ nổ, các lớp gỉ sét, sâu bọ, rễ cỏ dại bám đầy xung quanh nó.
Cho đến một ngày, những âm thanh đào bới vang lên trên mặt đất. Phía trên tấm bia, tiếng xúc đất to dần lên và đập trúng miếng đồng đó.
“KENG!”
Tiếng người vang lên phía trên:
- Hình như có cái gì ở dưới!
Một giọng nói khác ngăn lại:
- Khoan, đừng đào nữa. Lấy cái xẻng con lại đây!
Đất đá nhanh chóng được xúc ra, lần đầu tiên, mảnh đồng được rọi sáng trở lại dưới ánh mặt trời.
- Từ từ kéo lên!
Những bàn tay lùa đất cát ra xung quanh, không gian bên trên miếng đồng dần được nới rộng. Những bàn tay thò xuống dưới, nâng miếng đồng ra khỏi cái hố.
- Từ từ thôi!
Và mảnh đồng được hạ xuống đất, nơi được lót sẵn lớp bạt nhựa. Trong khi người phụ việc dùng cọ phủi sạch bề mặt miếng đồng, tiến sĩ Vĩ nhìn chằm chằm miếng đồng và ông nhận ra có cái gì đó không đúng. Ông bảo:
- Khoan đã, lật nó lại coi!
Miếng đồng không quá nặng, nhưng do nó đã bị chôn dưới đất quá lâu nên họ không dám đánh liều. Vì vậy, cả tiến sĩ Vĩ và người phụ việc cùng đỡ miếng đồng lên, lật qua mặt bên kia. Dưới ánh mặt trời trưa nóng ran, những văn tự cổ cùng với hình vẽ khắc trên tấm đồng dần hiện ra.
Người phụ việc lắp bắp:
- Thứ này… không lẽ…
Tiến sĩ Vĩ cố nén sự vui mừng sắp sửa trào ra trong lòng, long trọng xác nhận:
- Đúng thế! Thứ này sẽ cho ta biết liệu truyền thuyết đó có thật sự tồn tại hay không.
Những đường khắc dính đầy đất cát trên miếng đồng hiện ra thành hình một đầu mũi tên ba cạnh với hai mặt cắt ngang, dọc cùng với các ghi chú chi tiết bằng văn tự cổ.