Nghiên cứu phân tâm học - Phần II - Chương 05 - 06
5. Giáo hội và quân đội, hai đám đông qui ước
Đám đông, xét về phương diện hình thái học, có thể phân biệt
ra rất nhiều thứ loại, đám đông nọ có thể theo một chiều hướng đối lập với đám
đông kia để nhóm họp và tập hợp thành phần. Có những đám đông chỉ hiện hữu tâm
trạng chốc lát, nhưng cũng có những đám đông tồn tại thường xuyên; có những đám
đông mà thành phần tương đồng, lại có những đám đông mà thành phần tương dị; có
những đám đông tự nhiên người ta tới tề tựu với nhau, lại có những đám đông chỉ
tập hợp vì bị thách thức, có những đám đông thô lỗ cổ sơ, lại có những đám đông
đã phân hóa và có hình thức tổ chức rất cao. Vì những lý do sau này sẽ nói đến,
chúng tôi nhấn mạnh đặc biệt đến một điểm chưa được ai chú trọng: đám đông
không người cầm đầu và đám đông có người cầm đầu. Trái với phương sách quen
dùng, chúng tôi không bắt đầu từ một đám người tụ hội giản dị đơn sơ nhất, mà
chúng tôi khởi sự nghiên cứu những nhóm người tề tựu thường xuyên, có quy ước
với nhau và có trình độ tổ chức rất cao. Hai nhóm đáng chú ý hơn cả là giáo hội
và quân đội.
Giáo hội và quân đội là những nhóm mà sự kết hợp được bảo đảm
bởi sức cưỡng bách ở ngoài, sức cưỡng bách ấy đồng thời cũng chống lại sự đổi
mới cơ cấu. Nói một cách đại loại thì người tham dự vào những nhóm đấy không
được thỉnh ý để biết có thỏa thuận hay không; người ta không được tự ý gia nhập
hay rút lui, người muốn trốn thoát sẽ bị phạt rất nặng, hay ít ra đoàn thể đã
dự định những điều kiện thật khó khăn để cho rút lui. Lúc này chúng ta chưa cần
biết tại sao những đoàn thể ấy lại cần những sự bảo đảm như thế. Điểm đáng chú
ý là những đoàn thể có tổ chức chặt chẽ để tránh sự tan rã như thế, đã cho
chúng ta biết nhiều đặc điểm mà các đoàn thể khác không cho thấy.
Trong quân đội và giáo hội (nên chọn giáo hội Công giáo làm
mẫu), mặc dù có ít nhiều khác biệt, nhưng vẫn có một ảo tưởng chung, đó là sự
hiện hữu (có mặt hay tưởng tượng) một người cầm đầu (đấng Christ trong giáo hội
và vị tổng tư lệnh trong quân đội), người cầm đầu thương yêu mọi người trong
đoàn thể ai cũng như ai. Đó là một ảo tưởng làm nền móng để xây dựng tất cả
những sự kiện khác, nếu ảo tưởng ấy không còn thì giáo hội và quân đội phải tan
rã khi nào không có sự ép buộc bên ngoài. Đấng Christ yêu tất cả mọi người như
nhau, không trừ một ai, ý ấy diễn đạt rõ ràng trong câu nói sau đây: “Nhà ngươi
làm cái gì liên hệ đến người anh em hèn mọn nhất của ta là nhà ngươi xúc phạm
đến ta.” Đối với những phần tử trong nhóm tín đồ thì đấng Christ có thái độ một
người anh cả, một người cha. Người ta đã nhân danh tình yêu của đấng Christ đó
mà bắt buộc con chiên phải nghe theo ý kiến của người ta. Có một luồng gió dân
chủ thổi qua giáo hội và phấn khích mọi người bởi vì người người thấy mình
ngang hàng với nhau khi đến trước mặt Thượng đế, người người đều được Chúa yêu
mến như nhau. Không phải là không có lý do sâu xa khi người ta nhấn mạnh đến sự
tương đồng giữa cộng đồng Công giáo và một gia đình, khi các tín đồ coi nhau
như anh em ruột được Chúa thương yêu như nhau. Ta không thể chối cãi được rằng
mối dây ràng buộc mỗi người với đấng Christ là nguyên nhân của mối dây ràng
buộc người này vào với người kia. Trong quân đội cũng thế; vị tướng cũng là
người cha yêu mến đồng đều quân nhân trong hàng ngũ, vì tình yêu của vị tướng
đó mà mọi người trong quân đội thân hữu với nhau. Về phương diện cơ cấu, quân
đội khác giáo hội ở điểm đẳng cấp của quân đội thiết lập theo thứ tự từ trên
xuống dưới; vị đoàn trưởng là cha của một đoàn, vị đội trưởng là cha của một
đội. Dĩ nhiên, trong giáo hội cũng có cấp bậc tương tự, nhưng cấp bậc đó không
đóng vai trò người cha, vì vai trò ấy dành riêng cho đấng Christ, đấng Christ
biết rõ nhu cầu của con chiên và lo cho con chiên chu đáo hơn bất cứ người phàm
trần ở cấp bậc nào.
Quan niệm một cơ cấu của quân đội đặt nền tảng trên dục tính
(libido) như thế không tránh khỏi được sự chỉ trích, người ta sẽ chỉ trích rằng
chúng tôi không kể đến những khái niệm tổ quốc, danh dự tổ quốc,… đã giữ vững
tinh thần đoàn kết quân đội. Xin trả lời rằng những yếu tố đoàn kết ấy thuộc về
một lãnh vực khác và không giản dị như người ta tưởng; vả chăng nếu chúng ta
xét đến những đạo binh của César, Wallenstein, Napoléon, thì chúng ta sẽ thấy
những yếu tố ấy không cần thiết cho sự thiết lập và duy trì quân đội. Sau này
chúng tôi sẽ bàn đến vấn đề có thể thay thế người cầm đầu bằng một ý niệm chỉ
đạo và vấn đề liên lạc giữa người cầm đầu và ý niệm chỉ đạo.
Những người không chú trọng đến khái niệm libido trong quân
đội – tuy rằng đó không phải là yếu tố duy nhất – không những lầm lẫn về lý
thuyết mà còn gây ra nguy hiểm thực tiễn. Chế độ quân phiệt của nước Phổ không
biết đến vấn đề tâm lý cũng như khoa học của nước Đức, đã gánh lấy hậu quả của
sự lỗi lầm ấy trong thời kỳ thế chiến. Bệnh suy nhược thần kinh chiến tranh làm
tan rã quân đội nước Đức là tiếng nói của con người phản đối sự bắt buộc họ đi
lính; theo sự nghiên cứu của Simmel[27] thì người ta có thể
cả quyết rằng nguyên nhân chính của bệnh thần kinh ấy là các cấp chỉ huy đối xử
tàn nhẫn vô nhân đạo với quân lính. Nếu người ta chú trọng nhiều hơn đến nhu
cầu tâm tình của quân lính thì hẳn là Tổng thống Wilson không đòi hỏi được đúng
mười bốn điều yêu sách một cách dễ dàng, và nhà quân sự Đức không đến nỗi làm
tan rã một công cụ tốt đẹp mà họ nắm trong tay như thế.
[27] Kriegsneurosen und psychiches Trauma, München 1918.
Chúng ta nên nhớ kỹ rằng trong hai đám đông quy ước ấy (giáo
hội và quân đội) mỗi phần tử đều ràng buộc bởi liên lạc libido với người cầm
đầu (đấng Christ, vị tổng tư lệnh) và với những người đồng hội đồng thuyền. Sau
này chúng tôi sẽ nghiên cứu xem hai loại liên lạc ấy có tương đồng về bản chất
và giá trị hay không, xem có thể miêu tả chúng theo nhỡn quan tâm lý học đến
mức nào. Nhưng chúng tôi đã có thể chỉ trích những người cầm đầu đối với khoa
tâm lý đám đông, vì lần đầu lựa chọn những điểm để nghiên cứu chúng tôi đã gặp
được điều kiện may mắn hơn. Chúng tôi đã tìm được đường lối tốt để cắt nghĩa
hiện tượng nền tảng của tâm lý đám đông, đó là tình trạng mất tự do của những
người tham dự vào đấy. Vì con người của đám đông bị ràng buộc bởi những dây
tình cảm kiên cố với hai vị trí khác nhau (người cầm đầu và bạn đồng đội) cho
nên chúng ta dễ nhận thấy cá tính họ biến đổi và giảm thiểu như người ta đã
nhận thấy.
Để chứng minh một lần nữa rằng yếu tính của một đám đông là
những liên lạc libido bao vây con người như màng lưới dầy, chúng ta chỉ cần
nghiên cứu hiện tượng hoảng sợ hay xảy ra trong hàng ngũ quân lính. Sự hoảng sợ
phát sinh khi nào bắt đầu có sự tan rã. Bấy giờ lệnh trên không được tuân theo,
ai nấy chỉ biết lo cho mình không biết đến người khác. Sự ràng buộc đã cắt bứt,
một thứ sợ hãi mênh mang không thể cắt nghĩa được xâm chiếm lòng người. Dĩ
nhiên người ta có thể cãi lại rằng chúng tôi đã đảo ngược thứ tự các hiện tượng
mà nói như vậy chứ thực ra vì sự sợ hãi mạnh quá mức thường cho nên nó bóp
nghẹt tất cả những tâm tính khác. Ông Mc Dougall (trong cuốn sách trích dẫn nói
trên, trang 24) còn cho rằng sự hoảng sợ (ngoài phạm vi quân đội) là một thí dụ
điển hình về sự phóng đại tình cảm bằng cách truyền nhiễm, ông gọi là cảm
ứng nguyên thủy (primary induction). Sự giải thích thuần lý đó không thể
thỏa mãn chúng ta được, vì đây chúng ta phải giải thích tại sao sự sợ hãi lại
mãnh liệt quá chừng quá mức như vậy. Không thể nói rằng tại sự nguy hiểm lớn
lao, vì đội quân thất đảm ấy trước đây đã đương đầu với những sự nguy hiểm cũng
lớn lao như thế, nếu không lớn lao hơn; điểm đặc biệt của sự kinh hoảng chính
là nó quá mãnh liệt so với sự nguy hiểm rất nhỏ nhặt nhiều khi không có gì đáng
ngại cả. Một khi cá nhân đã hoảng sợ đến thất đảm thì họ chỉ nghĩ đến mình họ,
như thế là họ đã đứt đoạn mối tương hệ tình cảm trước kia đã che lấp sự nguy
hiểm trước mắt. Họ có cảm tưởng là họ chỉ có một mình phải đối phó với nguy
hiểm cho nên họ phóng đại thêm sự nguy hiểm. Như vậy chúng ta có thể nói rằng
sự kinh hoảng xảy ra vì có sự tan rã cơ cấu dục tính của đoàn thể, khiến cho cá
nhân phản ứng trong điều kiện tan rã ấy; còn như quan niệm cho rằng sự nguy
hiểm là nguyên nhân của sự tiêu hủy cơ cấu tình cảm của đoàn thể thì xét ra
không phù hợp với sự thật ngoài đời.
Cách nhận định trên đây không hề phủ nhận quan điểm của Mc
Dougall, theo đó sự sợ hãi tập thể có thể vì ảnh hưởng “cảm ứng nguyên thủy” mà
tăng gia đến mức kinh khủng. Quan điểm ấy thích hợp lạ lùng để giải thích những
trường hợp một đám đông thiếu hẳn sự ràng buộc bởi mối dây đoàn kết tình cảm
chắc chắn mỗi khi bị đe dọa bởi mối nguy hiểm lớn lao. Trường hợp điển hình là
trường hợp một đám cháy xảy ra trong một rạp hát hay một phòng tụ hội. Những
trường hợp đáng chú ý và phù hợp với sự chứng minh của chúng tôi là trường hợp
một đạo binh bị khiếp đảm vì một sự nguy hiểm không có gì là quá mức bình
thường trước kia vẫn bình tĩnh vượt qua một cách cam đảm. Vả chăng danh từ
“kinh hoảng” không có một nghĩa chuẩn xác và nhất định. Khi thì dùng để chỉ sự
sợ hãi tập thể, khi thì chỉ sự sợ hãi của riêng từng người sợ hãi quá mức bình
thường, nhiều khi còn dùng để chỉ những trường hợp bùng nổ sự sợ hãi vô cớ. Khi
gán cho danh từ “kinh hoảng” nghĩa “sợ hãi tập thể”, chúng ta có thể tìm ra
những nét tương đồng có tầm quan trọng lớn giữa trường hợp cá nhân và trường
hợp đoàn thể. Cá nhân sợ hãi vì thấy nguy hiểm trầm trọng hay vì động đến những
dây liên lạc tình cảm (những địa điểm tụ tập libido); trường hợp sau này là
trường hợp lo sợ vì suy nhược thần kinh. (Xin coi Phân tâm học nhập môn,
chương 25, Freud). Sự kinh hoảng xảy ra khi cái nguy hiểm đe dọa cả mọi người
thêm trầm trọng, hay khi có sự tiêu hủy những mối liên lạc tình cảm đoàn kết
đám đông; trong trường hợp sau sự lo sợ tập thể cũng tương tự sự lo sợ vì suy
nhược thần kinh.
Khi người ta đồng ý với ông Dougall cho rằng sự kinh hoảng là
một trong những phát hiện đặc biệt nhất của tâm lý đám đông, người ta sẽ
đi đến kết luận mâu thuẫn rằng linh hồn tập thể tan rã giữa lúc đám đông để lộ
đặc tính riêng biệt nhất, và cũng nhân sự bộc lộ ấy mà tan rã. Đã rõ rệt rằng
kinh hoảng có nghĩa là tan rã đám đông mà hậu quả là mọi ràng buộc giữa các
phần tử đều tiêu tan.
Trong môt đoạn văn của Nestroy viết để nhái vở kịch của Hebel
(Judith và Holopherne), một chiến sĩ hô to: “Chủ súy của ta đã bị chém đầu”,
thế là quân lính Assyrie bỏ chạy tán loạn. Đây là một thí dụ điển hình về sự
phát sinh kinh hoảng, chỉ cần một cớ vô nghĩa là cũng đủ làm cho quân lính thất
đảm. Sự nguy hiểm vẫn thế thôi nhưng quân lính chỉ mất tin tức về chủ súy,
tưởng chủ súy đã chết hay mất tích cũng đủ sinh ra kinh hoảng. Khi đã mất những
mối liên lạc tình cảm với chủ súy thì thường thường sự ràng buộc với anh em
đồng đội cũng tan rã. Đám đông tan rã như tuyết gặp mặt trời.
Sự tan rã đám đông tôn giáo khó nhận định hơn. Mới đây tôi có
dịp đọc một cuốn tiểu thuyết Anh viết trong tinh thần Công giáo và do một vị
giám mục Luân Đôn giới thiệu. Cuốn tiểu thuyết nhan đề là When it was dark,
theo tôi, đã mô tả rất khéo léo hậu quả của một tình trạng tan rã có thể xảy ra.
Tác giả tưởng tượng một âm mưu kình chống cá nhân đấng Christ và tín ngưỡng
Công giáo, kẻ âm mưu phao ngôn rằng đã tìm thấy ở Giêrusalem một cái hầm trong
có tấm bia khắc câu thú nhận của Arimathie, ông này vì tin thờ đã đào mả Chúa
Christ sau khi chôn được ba ngày, ăn cắp xác và đem đi giấu ở cái hầm ấy. Sự
phát minh khảo cổ học ấy có nghĩa làm sụp đổ những tín điều về sự phục sinh của
Chúa Christ, về bản chất thần linh của Chúa Christ, hậu quả là làm khuynh đảo
cả một nền văn hóa Âu châu và làm gia tăng tội ác và bạo ngược lên mức độ khinh
khủng, tình trạng kéo dài mãi cho đến khi người ta khám phá ra âm mưu của kẻ
giả mạo.
Trong cái gọi là sự tan rã của đám đông tôn giáo nói trên
đây, sự kiện bộc lộ ra không phải là sự sợ hãi vì không có cớ gì để sợ hãi cả;
đó chỉ nà những xung động ác cảm với người khác, những xung động trước kia
không thể xuất lộ được vì tình yêu của Chúa Christ đùm bọc cả mọi người[28].
Khi còn chúa Christ cũng có những người không bị ràng buộc vào những dây liên
lạc tình cảm ấy, đó là những người ở ngoài cộng đồng Công giáo, họ không yêu
chúa Christ và chúa Christ cũng không yêu họ. Chính vì thế cho nên một tôn giáo
dù có mệnh danh là một tôn giáo của tình yêu cũng phải nghiêm khắc và không
“yêu” được những người ngoại đạo. Xét cho cùng thì tôn giáo nào cũng là tôn
giáo của tình yêu đối với những người bổn đạo, tôn giáo nào cũng sẵn sàng tỏ ra
độc ác và không khoan dung những người không biết đến tôn giáo ấy.
[28] Trong cuốn Die Vaterlose Gesellschaft của Federn Vienne 1919,
có giải thích những hiện tượng tương tự xảy ra khi sụp đổ quyền tộc trưởng.
Mặc dù có phương hại đến mình thế nào người ta cũng không nên
quá chê trách kẻ tin đạo độc ác và hẹp hòi cố chấp; kẻ không tín ngưỡng và kẻ
thờ ơ thật đã được may mắn hơn người khi tỏ ra lạnh lùng với những tâm tình ấy,
đứng về phương diện tâm lý chúng ta có thể nói như vậy. Sự hẹp hòi cố chấp ngày
nay không bùng ra mạnh bạo như thuở trước, nhưng người ta sẽ lầm lớn nếu người
ta cho là ảnh hưởng của thuần phong mỹ tục đã làm dịu lòng người. Ta không thể
chối cãi được rằng lý do làm cho con người hung bạo là tại lòng tin đạo đã sút
giảm do đó mà những liên lạc tình cảm cũng tan rã theo.
Chỉ cần có một tập thể nào thay thế đoàn thể tôn giáo (thí dụ
như trường hợp một đảng chính trị “cực đoan”) là người ta đủ thấy bùng nổ sự
hẹp hòi cố chấp đối với người khác chánh kiến, chẳng khác gì sự cố chấp của các
đoàn thể tôn giáo; sự khác biệt giữa hai quan niệm khoa học cũng có thể bị công
chúng gán cho một tầm quan trọng không kém sự khác biệt tôn giáo, cũng có thể
xảy ra những hậu quả tương tự vì những lý do tương tự.
6. Những vấn đề mới và những hướng tìm tòi mới
Ở chương trên chúng tôi đã nhận định hai đám đông qui ước,
quân đội và giáo hội, chúng tôi đã nhận thấy người ta bị chi phối bởi hai loại
liên lạc tình cảm, loại ràng buộc cá nhân với người cầm đầu có tính cách quyết
định hơn loại ràng buộc người nọ với người kia.
Có rất nhiều điều để nói và để mô tả về cơ cấu đám đông.
Trước hết phải nói rằng một số người tụ họp chỉ là đám đông theo nghĩa thường
dùng chứ không thể là chữ đám đông dùng ở đây với nghĩa là một đoàn thể hay một
nhóm, vì không có những mối dây liên lạc nói trên kia; tuy nhiên chúng ta có
thể nói rằng bất cứ đám người nào tụ hội cùng có khuynh hướng rất mạnh trở
thành một nhóm có tâm lý tập thể. Như vậy chúng ta phải xem xét cặn kẽ các loại
nhóm tự nhiên được tạo lập; có ít nhiều tính cách liên tục; chúng ta sẽ nghiên
cứu điều kiện thành lập và điều kiện tan rã. Sự khác biệt giữa đám đông có
người cầm đầu và không người cầm đầu đáng được chú ý đặc biệt. Chúng ta cũng
phải xét xem những đám đông có người cầm đầu có phải là những đám đông cổ xưa
nhất và bất toàn nhất hay không, cũng phải xét xem một vài đám đông có thể thay
thế người cầm đầu bằng một ý tưởng trừu tượng hay không (những đám đông vâng
theo một người cầm đầu vô hình rất gần với hình thức đám đông sau này); cũng
phải xét xem một khuynh hướng, một ý muốn khả dĩ được một số lớn người nghe
theo có thể thay thế người cầm đầu được hay không? Đến lượt ý tưởng trừu tượng
có thể nhập vào một người chỉ huy phụ hay không, và nếu nhập được thì sẽ tạo ra
những mối liên lạc đủ loại hay không? Có thể có những trường hợp mà người chỉ
huy hay ý tưởng chỉ huy tạo ra những liên lạc tiêu cực, nghĩa là sự thù ghét
một người nào đó có thể làm cho những người thù ghét người ấy đoàn kết với
nhau, thân thiết với nhau, cũng như nhóm người tích cực tận tâm với người ấy
chăng? Và sau cùng, chúng ta có thể tự hỏi rằng sự có mặt của người cầm đầu có
phải là điều kiện cần thiết để một số người tụ tập với nhau biến thành đám đông
với tâm lý của đám đông không?
Tất cả những câu hỏi ấy tuy đã có một vài câu được giải đáp
trong các sách viết về tâm lý tập thể, nhưng không thể làm cho chúng ta sao
lãng những vấn đề tâm lý nền tảng mà cơ cấu đám đông gợi lên cho chúng ta.
Trước hết xin đưa ra một ý kiến để minh thị đâu là con đường ngắn nhất nên theo
để nắm được bằng chứng về bản chất libido của những liên lạc đoàn kết các phần
tử đám đông.
Chúng ta thử hình dung ra người đời có thái độ nào đối với
nhau về phương diện tình cảm. Schopenhauer đã đưa ra một ví dụ tài tình sau đây
để gợi cho chúng ta một ý niện rằng không ai có thể chịu đựng được một sự gần
gũi thân mật quá mức với đồng bào:
“Vào một ngày trời đông giá lạnh, một đàn nhím quây quần lại
với nhau cho ấm. Nhưng ép vào với nhau quá lông nhọn con nọ chọc vào con kia,
nhím đau quá chịu không nổi lại phải dãn ra một chút, xích ra, ép vào năm bảy
lần rồi chúng mới tìm được một vị trí lý tưởng không gần quá để lông chọc vào
nhau, không xa quá để còn sưởi ấm lẫn nhau.”[29]
[29] Parerga und Patalipomena, phần thứ hai XXXI: Gleichnisse und
Parabeln.
Sự nghiên cứu phân tâm học cho biết rằng sự thân thiết giữa
hai người trong ít lâu – như liên lạc vợ chồng, bè bạn, cha con[30]
– để lại những tâm tình ác cảm hay ít ra bất thân thiện mà người ta phải dồn
nén đi. Tình trạng rõ rệt hơn trong trường hợp hai người cộng tác với nhau luôn
luôn cãi cọ nhau, hay trường hợp một thuộc viên luôn luôn lầu bầu với chủ. Tình
trạng ấy cũng xảy ra trong trường hợp người ta tụ hợp thành những nhóm, những
đoàn thể rộng lớn. Khi hai gia đình làm sui gia với nhau, nhà này cho mình hơn
nhà kia, cao quý hơn nhà kia; hai tỉnh kế cận nhau cạnh tranh nhau, ghen tỵ
nhau; một tổng nhỏ tỏ vẻ khinh bỉ tổng khác kém mình. Hai giống người cùng
nguồn gốc chủng tộc ganh ghét nhau: người Đức miền nam không chịu được người
Đức miền Bắc, người Anh nói xấu người Tô Cách Lan, người Tây Ban Nha khinh bỉ
người Bồ Đào Nha. Sự ghét bỏ càng sâu xa khi sự tương dị càng rõ rệt, vì thế mà
người Gô Loa ghét người Nhật Nhĩ Nam, người A Riêng ghét người Do Thái, người
da trắng ghét người da màu.
[30] Ngoại trừ liên lạc mẹ và con trai, đặt nền tảng trên sự ngã
ái (narcissisme) cho nên không có tương tranh, trái lại với liên lạc được tăng
cường nhờ một lối ngách tiến về đối tượng dục tính.
Khi nào sự ác cảm là ác cảm những người mình thương yêu thì
chúng ta gọi là trường hợp lưỡng ứng tâm tình, chúng ta tìm cách giải thích
hiện tượng ấy một cách quá thiên về duy lý, chúng ta vin vào những xung đột
quyền lợi vì sống chung đụng mật thiết với nhau mà phát sinh. Trong sự ghê tởm
và ghét bỏ ai, chúng ta thấy bộc lộ sắc thái chỉ yêu có mình, sắc thái ngã ái,
cái ngã ái tìm cách tự xác định, hầu như cái gì hơi khác những đặc điểm và đặc
tính của cá nhân là kèm theo sự chỉ trích những đặc điểm ấy và đặc tính ấy, ngã
ái yêu cầu người ta biến cải và thay đổi. Tại sao con người rất nhạy cảm đối
với những chi tiết của sự phân hóa như thế? Chúng ta không biết gì cả, nhưng có
điều chúng ta biết chắc là cách xử sự như thế bộc lộ sự phát sinh căm thù rất
dễ dàng, bộc lộ sự gây gổ mà chúng ta không biết nguồn gốc ở đâu, chúng ta chỉ
biết cho là một nét tính tình sơ thủy[31].
[31] Trong phần trên cuốn sách này: vượt xa hơn nguyên tắc khoan
khoái, chúng tôi đã tìm cách quy hai sự kiện yêu và ghét về sự đối lập giữa bản
năng sống và bản năng chết và chứng tỏ rằng trong bản năng dục tính có những
đại diện tinh thuần nhất của bản năng sống.
Nhưng mọi sự bất khả tương nhượng đều biến mất tạm thời hay
vĩnh viễn nếu là trường hợp một đám đông. Còn ở trong tâm trạng đám đông thì
mọi người đều xử sự như thể họ cùng được đúc bằng một cái khuôn, họ chịu đựng
được mọi điểm đặc dị của người bên cạnh, họ tự coi là bình đẳng với nhau và
không hề ghét bỏ người bên cạnh: theo những quan điểm lý thuyết của chúng ta
thì ngã ái của con người chịu tự chế như vậy là vì ảnh hưởng của một yếu tố duy
nhất: họ có những ràng buộc libido với những người khác. Sự ích kỷ chỉ bị giới
hạn bởi tình yêu người khác, tức là tình yêu có đối tượng[32].
Người ta có thể chất vấn chúng tôi rằng nếu chỉ có cấu kết với nhau vì quyền
lợi mà không có một yếu tố libido nào nâng đỡ thì người ta có nhường nhịn và
kính trọng lẫn nhau không? Một câu hỏi như thế có thể trả lời rất dễ dàng, đây
chỉ là một trường hợp hạn chế thường xuyên cái ngã ái, bởi vì trong những cuộc
hợp tác như vậy sự tương nhượng rất mong manh, khi nào cuộc hợp tác không mang
lại quyền lợi trước mắt nữa thì sự tương nhượng cũng không còn. Giá trị thực
tiễn của vấn đề này không quan trọng như người ta tưởng, kinh nghiệm đã cho
biết rằng cả trong những trường hợp cộng tác sơ sài, mối liên lạc libido cũng
phát sinh giữa những người hợp tác với nhau, mối liên lạc ấy còn mãi khi đã hết
lợi lộc thực tiễn mà cuộc hợp tác mang lại.
[32] Coi Zur Einführung des Narzissmus, 1914.
Trong những liên lạc xã hội của con người, khoa học phân tâm
tìm ra những sự kiện đã quan sát thấy trong sự khai triển libido của cá nhân.
Cái libido mình vào những đối tượng đầu tiên là những người mang lại thỏa mãn
nhu cầu sinh sống đầu tiên. Trong sự tiến hóa của nhân loại cũng như của cá
nhân, tình yêu xuất hiện như yếu tố chính yếu, nếu không phải là yếu tố văn
minh duy nhất quyết định sự biến chuyển tính ích kỷ sang tính vị tha. Quan điểm
này cũng đúng với cả hai đối tượng của tình yêu, tình yêu nam nữ với sự cần
thiết bảo vệ người mình yêu, và tình yêu khử dục tính, tình yêu đồng tính ái và
thăng hoa đối với những người khác cùng làm việc với mình.
Vấn đề cần phải đặt ra là những dây liên lạc mới đó là những
loại nào. Trong lý thuyết phân tâm học về bệnh suy nhược thần kinh, cho đến
ngày nay chúng tôi gần như chỉ chuyên chú về những khuynh hướng tình ái, những
khuynh hướng ấy nhập vào đối tượng (không phải người đàn bà) nhưng vẫn theo
đuổi mục đích dục tính trực tiếp. Nhưng trường hợp đám đông thì hiển nhiên là
không làm gì có một cách dục tính nữa. Ở đây chúng ta đứng trước những khuynh
hướng tình ái đã từ bỏ mục đích nguyên thủy rẽ sang đường khác nhưng vẫn giữ
nguyên tinh lực. Trong phạm vi khuynh hướng dục tính nhập vào một đối tượng như
trường hợp bình thường, chúng tôi cũng nhận thấy những hiện tượng có thể suy
diễn là bản năng đã từ bỏ mục đích dục tính mà rẽ sang đường khác. Chúng tôi đã
mô tả những hiện tượng ấy như những mức độ của trạng thái yêu thương và chúng
tôi nhận thấy trong những hiện tượng ấy có sự giới hạn cái Tôi. Bây giờ chúng
tôi xem xét cẩn thận những hiện tượng đặc biệt của trạng thái yêu đương với hy
vọng rằng chúng tôi có căn bản chắc chắn để rút ra những kết luận có thể đem áp
dụng vào trường hợp liên lạc tình cảm giữa những người họp thành đầu tư. Ngoài
ra chúng tôi còn muốn biết rõ điều chúng tôi quan sát được sau đây: thể thức
libido nhập vào một đối tượng có phải là sự ràng buộc tình cảm duy nhất có thể
có được, hay là chúng ta còn phải nghĩ đến những thể thức khác tương tự như
thế. Phân tâm học cho chúng tôi biết rằng còn có những động cơ khác: đó là hiện
tượng đồng nhất hóa, tiến trình này chưa được biết rõ lắm, rất khó mô tả, chúng
ta hãy tạm ngưng vấn đề tâm lý tập thể để xem xét vấn đề đồng nhất hóa.

