Nghiên cứu phân tâm học - Phần II - Chương 12
12. Một vài quan điểm phụ
Công việc nghiên cứu của chúng tôi có thể coi như đã tạm kết
thúc; trong khi tìm tòi chúng tôi đã thấy mở ra nhiều viễn tượng. Tuy rằng
chúng tôi có hy vọng khám phá mới lạ và tiến vào những hướng tốt đẹp, nhưng
chúng tôi chưa tiện bước vào những con đường mới ấy; trong chương cuối này
chúng tôi chỉ có thể bàn lại những điểm chưa kịp nói hết trong các chương trên.
A. Chúng tôi phân
biệt ra sự đồng nhất hóa cái tôi và sự thay thế lý tưởng tôi bằng
một đối tượng. Hai đám đông quy ước nói ở trên, quân đội và giáo hội Công giáo,
đem lại cho chúng tôi những thí dụ ý nghĩa vì sự phân biệt ấy.
Hẳn là vị bề trên trong một tổ chức giáo hội cũng không khác
ông tướng trong quân đội, ông tướng tượng trưng cho lý tưởng của quân lính, còn
mối dây liên lạc giữa quân lính với nhau đặt trên nền tảng đồng nhất hóa, do đó
mà mọi người có bổn phận với anh em đồng đội và được anh em đồng đội săn sóc
giúp đỡ. Trái lại một người lính muốn tự đồng nhất hóa với người cầm đầu mình
sẽ dơ dáng dại hình đến thế nào? Không phải là không có lý do mà trong trại
Wallenstein một binh nhì chế diễu viên đội trưởng với lời lẽ như sau:
“Ông bắt chước đại tướng từ cách nhổ nước miếng đến bước đi.”
Trong giáo hội Công giáo thì khác. Mỗi người con chiên yêu
đức Chúa như yêu lý tưởng của mình và mỗi người bị ràng buộc với người khác bởi
sự đồng nhất hóa. Nhưng giáo hội đòi hỏi ở họ nhiều hơn thế. Họ phải tự đồng
nhất hóa với Chúa và phải yêu người khác cũng như Chúa yêu họ. Như vậy giáo hội
đòi hỏi tình trạng ràng buộc libido đã tạo ra trong cộng đồng phải có hai chiều
bổ túc. Một đằng, đồng nhất hóa bổ túc tình yêu, đằng khác tình yêu bổ túc đồng
nhất hóa. Hai sự bổ túc ấy vượt hẳn tình trạng của đám đông. Người ta có thể là
người tin đạo nhưng không bao giờ có ý đặt mình vào địa vị Chúa Christ và mở
rộng cõi lòng yêu tất cả mọi người như Chúa đã làm. Người hèn kém không thể có
ngưỡng vọng đặt tới tâm hồn cao thượng và sức mạnh của chúa Christ. Nhưng Kitô giáo
duy trì và khuyến khích ngưỡng vọng ấy cho nên đã tạo được một nền luân lý cao
hơn.
B. Chúng tôi đã nói
rằng nghiên cứu sự phát triển tâm thần của nhân loại, người ta có thể xác định
được thời kỳ mà tâm lý cá nhân thoát ra từ tâm lý tập thể, thời kỳ cá nhân đạt
được chút độc lập đối với đám đông[19].
[19] Những quan điểm sau đây là kết quả của cuộc trao đổi ý kiến
với ông Ranki.
Bây giờ xin trở lại huyền thoại khoa học về người cha của bầy
người ô hợp nguyên thủy. Người cha ấy sau này trở nên đấng sáng tạo thế gian,
điều đó hữu lý vì y đã sinh ra các con trong đám đông thứ nhất. Đối với đứa con
nào y cũng là người lý tưởng đáng sợ đáng tôn thờ, đó là nguồn gốc của khái
niệm cấm kỵ sau này. Đám con một ngày kia xúm lại giết cha và làm phân tán
quyền tối thượng ấy. Tuy đắc thắng nhưng không người con nào nắm được địa vị
của người cha, nếu có người nào muốn làm thế thì cả bọn trở nên thù nghịch tiếp
theo là tranh giành và giết chóc. Sau cùng họ đành phải từ bỏ ý muốn cái quyền
của người cha. Họ bèn thành lập cộng đồng huynh đệ vật tổ, mọi người đều có
quyền ngang nhau, đều liên lạc với nhau bởi cùng những sự cấm đoán, phải nhờ
đến những cuộc chém giết ghê sợ và cùng phải ăn năn tội lỗi. Nhưng vẫn còn sự
bất mãn với nếp trật tự ấy và đó là nguồn gốc của sự tiến triển khác. Dần dần
các phần tử trong cộng đồng huynh đệ lập lại trật tự cũ theo một kế hoạch mới;
người đàn ông lại là người cầm đầu nhưng chỉ còn là trưởng gia đình, y dẹp bỏ
mọi uy quyền của chế độ mẫu hệ đã thành hình từ khi giết người cha nguyên thủy.
Để bù lại, trưởng gia đình thừa nhận những thần linh mẫu hệ mà kẻ thờ phượng là
các thầy phép đã bị hoạn, họ theo gương người cha của bầy ô hợp nguyên thủy,
tuy nhiên gia đình mới này chỉ là cái bóng của gia đình cũ, nhiều cha quá,
quyền hành của người này bị hạn chế bởi quyền hành của những người khác.
Sự cấm đoán kéo dài làm người ta sốt ruột cho nên có người
định vượt lên trên đám đông để giữ địa vị người cha. Người có ý ấy là nhà thi
sĩ anh hùng ca đầu tiên, sự tiến bộ chỉ có trong trí tưởng tượng của y mà thôi.
Nhà thi sĩ này đã biến đổi thực tại theo ý muốn của y. Y phát minh ra huyền
tượng anh hùng. Kẻ nào một mình giết được người cha thì kẻ ấy là anh hùng,
người anh hùng ấy còn xuất hiện trong huyền thoại như một con quỷ vật tổ. Người
cha là người lý tưởng đầu tiên của đứa trẻ, còn người anh hùng đúng như trí
tưởng tượng của nhà thi sĩ tạo ra, sẽ là lý tưởng tôi đầu tiên, có
ngưỡng vọng chiếm địa vị của người cha. Có lẽ nhà thơ cho là đứa con út có thể
làm được công việc ấy, con út là con yêu của mẹ, đứa con út được mẹ che chở khi
cha ghen ghét, vào thời kỳ sống thành bầy ô hợp nguyên thủy nó là người kế vị
cha. Khiếu thi vị hóa sự thật của thời kỳ ấy: người đàn bà gây ra sự chém giết
nhau và là đầu mối của sự thèm muốn đã được biến đổi thành mụ xúc xiểm và đồng
lõa trong các cuộc xung đột.
Huyền thoại cho rằng chỉ có người anh hùng là lập được công
trạng, nhưng hẳn là phải có cả bầy mới lập được công trạng ấy. Theo Rank thì
người ta tìm ra những di tích rõ ràng của tình trạng trong các truyện hoang
đường, truyện hoang đường chỉ làm biến dạng mà thôi. Trong các truyện hoang
đường thường nói đến người con út nhờ tính khờ khạo mà thoát khỏi bàn tay độc
ác của cha, cha cho rằng nó không nguy hiểm. Người anh hùng ấy có trách nhiệm
cao trọng nhưng muốn thành công phải có sự góp sức của một bầy vật nhỏ như ong,
kiến. Những con vật ấy chỉ là cách biểu tượng bầy anh em trong bầy ô hợp nguyên
thủy, cũng như trong biểu tượng giấc mơ sâu bọ côn trùng tượng trưng cho anh em
và chị em (coi là trẻ con với ý khinh bỉ). Ngoài ra người ta còn nhận thấy dễ
dàng rằng những hành vi nói trong huyền thoại và truyện cổ tích tượng trưng cho
chiến công của người anh hùng.
Vậy thì con người vượt qua được tình trạng tâm lý tập thể nhờ
có huyền thoại. Huyền thoại đầu tiên hẳn là có ý nghĩa tâm lý, đó là huyền
thoại người anh hùng. Huyền thoại giải thích thiên nhiên nhắc lại mãi sau này
mới xuất hiện. Người thi sĩ bước được bước ấy để lợi dụng trí tưởng tượng của
quần chúng cũng biết cách trở lại với cuộc sống thực sự, như Rank đã nói. Y đi
chỗ này chỗ khác kể cho mọi người nghe những công nghiệp mà trí tưởng tượng của
y gán cho người anh hùng, còn người anh hùng ấy thực ra là chính y. Như vậy là
y trở lại với thực tại trong khi đưa người nghe lên ngang với tầm tưởng tượng
của y. Những người nghe biết rõ nhà thi sĩ của họ lắm, họ tự đồng nhất hóa với
người anh hùng và cùng có một thái độ đối với người cha nguyên thủy, một thái
độ đầy ham muốn chưa thực hiện được.
Sự thần thánh hóa người anh hùng đã tâng bốc huyền tượng anh
hùng. Có thể rằng người anh hùng thần thánh hóa có trước người cha thần thánh
hóa vào báo trước ngày trở về của người cha nguyên thủy mà bề ngoài một ông
thần. Như vậy theo thứ tự thời gian chúng ta có: nữ thần-mẹ, rồi sau mới có anh
hùng-ông trời-cha. Chỉ khi nào người cha nguyên thủy mà loài người không bao
giờ quên được nâng lên hàng một ông trời, là bấy giờ ông trời mới có những đặc
điểm như chúng ta thấy ngày nay. (Trong sự trình bày vắn tắt này, chúng tôi đã
phải loại bỏ nhiều tài liệu thâu lượm được trong các truyện hoang đường, huyền
thoại, cổ tích, phong tục,…)
C. Trong cuốn sách
này chúng tôi thường hay nói đến khuynh hướng dục tính trực tiếp và khuynh
hướng dục tính lái sang chiều khác, chúng tôi hy vọng rằng sự phân biệt ấy
không làm cho người đọc quá thắc mắc. Tuy nhiên, đem một vài chi tiết ra bàn
lại cũng không đến nỗi vô ích, mặc dù chúng tôi phải nhắc lại những điều đã nói
ở trên.
Thí dụ đầu tiên ý nghĩa hơn cả về khuynh hướng dục tính bị
lái sáng đường khác có thể tìm trong sự tiến triển của cái libido trong đứa trẻ
con. Tâm tình của đứa trẻ đối với những người chăm nom nó vẫn còn giữ được
nguyên vẹn trong những ý muốn của nó, ý muốn ấy bộc lộ khuynh hướng dục tính
của nó. Đứa trẻ đòi người thân của nó phải bày tỏ với nó những cách âu yếm mà
nó biết, nó muốn hôn hít, ôm ấp, nhìn họ, nó nhìn bộ phận sinh dục của nó với
con mắt hiếu kỳ, nó cũng có thái độ hiếu kỳ đối với sự bài tiết phân và nước
tiểu của nó, nó hứa sẽ lấy mẹ nó hay lấy người vú nuôi nó tuy chỉ có những sở
kiến lông bông về lấy vợ lấy chồng, nó muốn làm cho cha nó đẻ một đứa con,… Sự
quan sát trực tiếp và sự phân tích về sau những vết tích tuổi thơ cho chúng tôi
biết chắc rằng có những mối dây mật thiết giữa âu yếm và ghen tị một bên, bên
kia là những ý hướng dục tính; sự quan sát và phân tích ấy chứng tỏ rằng đứa
trẻ lấy người thân yêu nó làm đối tượng cho những khuynh hướng dục tính đặt
chưa đúng hướng.
Hình thức tình yêu thứ nhất của đứa trẻ liên hệ mật thiết với
mặc cảm Oepide, lúc khởi sự thời kỳ lắng chìm thì hình thức tình yêu ấy bị đàn
áp. Chỉ còn lại một sự ràng buộc thương mến thuần túy, nhưng sự thương mến ấy
không thể gọi bằng tính từ “tình dục” được. Phân tâm học cố gắng rọi ánh sáng
vào chỗ thâm sâu đời sống tâm thần, chúng tôi đã minh thị rằng những ràng buộc
dục tính của mấy năm đầu tuổi thơ vẫn còn nhưng còn ở tình trạng dồn nén trong
tiềm thức. Chúng tôi có thể cả quyết rằng sự thương mến người nào chỉ là một
tâm tình kế tiếp sự ràng buộc có khuynh hướng dục tính đặt chưa đúng hướng nói
ở trên, hay đúng hơn, là một biểu thị biểu tượng (imago) của sự ràng buộc ấy.
Hẳn là phải có một cuộc kháo sát riêng mới có thể biết được
rằng trong một trường hợp nhất định luồng khuynh hướng dục tính cũ còn đó hay
đã khô cạn hẳn. Hay nói rõ ràng hơn: nó vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là một hình
thể, một khả năng, nhân một sự thoái lui nó lại có thể ngoi lên: điều cần biết
là bây giờ nó còn hiệu lực đến mức nào, điều đó không phải là dễ. Chúng ta cần
phải tránh hai sự lỗi lầm: đánh giá quá thấp cái tiềm thức bị đàn áp và phán
đoán những hiện tượng bình thường bằng những tiêu chuẩn chỉ áp dụng cho những
hiện tượng bệnh hoạn.
Đối với một quan niệm tâm lý học không chịu đi sâu xuống
những tâm tình bị đàn áp thì những ràng buộc tâm tình thương mến không làm gì
có tính cách dục tính, mặc dù chúng xuất phát từ những khuynh hướng có đối
tượng dục tính[20].
[20] Những tâm tình thù nghịch tuy có cơ cấu phức tạp hơn nhưng
cũng không ở ngoài thông lệ này.
Chúng ta có quyền để cả quyết rằng những khuynh hướng mà
chúng ta nói đến là những khuynh hướng đã bị lái sang con đường khác mục tiêu
dục tính, tuy rằng chúng ta khó mà mô tả sự thiên lệch ấy cho hợp với phân phối
tâm lý siêu hình. Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng những khuynh hướng bị
ngăn cản ấy vẫn có mầu sắc dục tính ít nhiều: người cảm mến ai, tôn thờ ai vẫn
có gần gụi và thấy mặt người mình cảm mến, tình yêu đây không còn sắc thái ái
tình. Chúng ta có thể coi sự cải đổi mục tiêu ấy là sự bắt đầu thăng hoa khuynh
hướng dục tính. Đứng về phương diện chức vụ thì những khuynh hướng dục tính không
bị cản trở. Vì không thể thỏa mãn hoàn toàn được cho nên những khuynh hướng ấy
tỏ ra có thể tạo ra những mối ràng buộc lâu bền, còn như những khuynh hướng dục
tính trực tiếp có thể thoái giảm sau mỗi lần thỏa mãn, đối tượng của nó cũng có
thể thay đổi được, nó có thể bỏ người cũ, tìm người khác. Những khuynh hướng bị
cản trở có thể hòa lẫn với những khuynh hướng không bị cản trở theo những tỉ lệ
nhiều ít khác nhau, biến đổi một lần nữa thành khuynh hướng không bị cản trở.
Người ta biết rằng những liên lạc thân mến có tính cách bạn
hữu của người đàn bà biết ơn và thán phục ai, rất dễ trở thành ham muốn tình
ái, thí dụ như tình thầy trò, người con gái cảm phục một nghệ sĩ.
Những ràng buộc tình cảm như thế tuy mới đầu không hề có ý
tìm tình, nhưng sẽ dẫn tới ngay cửa vào ước vọng dục tính. Trong cuốn Lòng
mộ đạo của hầu tước Zinzendorf, Pfister đã đưa ra một thí dụ ý nghĩa để
minh thị rằng sự ràng buộc tôn giáo mạnh mẽ dễ trở thành sự thèm muốn dục tính
bồng bột đến thế nào. Vả chăng, sự biến đổi khuynh hướng dục tính trực tiếp
thành sự cảm mến thuần túy bền bỉ cũng là sự chi thường, và sự biến đổi ấy là
phần lớn nền tảng để củng cố một cuộc hôn nhân lấy nhau vì say mê nhau.
Dĩ nhiên, chúng ta không lấy làm lạ mà nhận thấy rằng những
khuynh hướng dục tính bị cản trở cũng do những khuynh hướng dục tính trực tiếp
mà ra, chúng phát sinh khi nào có sự trắc trở bên ngoài hay trong nội tâm chống
lại mục tiêu dục tính. Sự dồn nén xảy ra trong thời kỳ lắng chìm dục tính chính
là một trong những trở ngại bên ngoài nhập vào nội tâm thành trở ngại bên
trong. Trở lại người cha nguyên thủy của bầy ô hợp nguyên thủy, chúng ta đã
chấp nhận rằng ông ta nghiệt khắc, ông ta bắt các con không được thỏa mãn tình
dục, thành thử những khuynh hướng dục tính của các con bị cản trở mục tiêu, còn
chính ông ta thì ông ta tự do thỏa mãn dục tính và không có sự ràng buộc nào
cả. Tất cả sự ràng buộc của các phần tử trong đám đông đều bắt nguồn từ những
khuynh hướng bị cản trở. Nhưng nói đến đây chúng ta đã bước sang một đề tài
khác liên hệ đến những liên lạc giữa khuynh hướng dục tính trực tiếp và sự
thành lập một đám đông, một đoàn thể.
D. Những điểm sau
cùng đã cho phép chúng ta hé thấy những khuynh hướng dục tính trực tiếp không
thuận lợi cho sự cấu tạo tập thể chút nào. Hẳn là trong sự tiến triển của gia
đình có một giai đoạn hôn nhân “tập thể”, nhưng tình yêu dục tính càng có tầm
quan trọng đối với cá nhân, cá nhân càng trở nên si tình, thì tình yêu càng
hướng về sự giới hạn trong hai người mà thôi – una cum uno – bản chất
của mục tiêu dục tính hình như cũng bắt buộc như thế. Những khuynh hướng hôn
phối đành phải bằng lòng với sự thay thế đối tượng tình yêu này bằng đối tượng
tình yêu khác.
Hai người tụ họp với nhau nhằm mục đích thỏa mãn dục tính vẫn
tìm đến nơi biệt tịch, sự kiện ấy là một minh chứng sống động để chống lại bản
năng quần cư và ý thức tập thể. Hai người càng yêu nhau, họ càng tự túc tự mãn.
Sự cố gắng thoát khoải ảnh hưởng đám đông bộc lộ dưới hình thức cảm tưởng xấu
hổ. Những xúc động rất mãnh liệt gây ra bởi lòng ghen dùng để bảo vệ người mình
lựa chọn khỏi sự xúc phạm có thể xảy đến vì sự ràng buộc tập thể, chỉ khi nào
yếu tố cá nhân trong tình yêu tức sự thương mến đã biến mất hẳn và chỉ nổi bật
có yếu tố nhục dục, bấy giờ mới có thể có những sự loạn dâm công khai như những
buổi hội phóng dục gọi là “Orgie” của người La Mã thời cổ. Nhưng đây cũng là sự
thoái lui của liên lạc dục tính về tình trạng trước, trong đó ái tình đúng
nghĩa không đóng một vai trò nào cả, đối tượng dục tính nào cũng có giá trị
ngang nhau, cũng gần như Bernard Shaw đã nói một cách độc địa: “Yêu nghĩa là
phóng đại vô chừng sự khác biệt giữa người đàn bà này và người đàn bà khác.”
Rất nhiều sự việc khác như biện minh cho quan điểm rằng ái
tình xuất hiện rất muộn trong sự liên lạc dục tính giữa trai gái, do đó sự đối
lập giữa tình yêu dục tính và sự ràng buộc tập thể cũng xuất hiện muộn. Mới
nhìn thì sự giả thiết ấy hầu như không thể dung hòa được với huyền thoại gia
đình nguyên thủy của chúng tôi. Có phải rằng vì tình yêu mẹ và chị em mà bày
anh em xúm lại giết cha không? Khó lòng mà hình dung được tình yêu ấy là cái gì
khác với một thứ tình yêu nguyên thủy, toàn diện, nghĩa là nguyên một khối vừa
là thương mến vừa là ham muốn tình dục? Nhưng nghĩ cho cùng thì sự thắc mắc đó
càng xác định quan điểm của chúng tôi. Trong số những phản ứng gây ra vì sự
giết cha, có sự thành hình thói phép lấy vợ ở ngoài bộ lạc vật tổ, nghĩa là
nghiêm cấm tình dục với đàn bà trong gia đình mà đứa trẻ đã yêu từ thuở còn
thơ. Như vậy là có sự phân biệt ra hai cạnh khía, cạnh khía thương mến và cạnh
khía tình dục của tình yêu nam nhi, hậu quả của sự phân đôi ấy còn tồn tại cho
đến ngày nay[21]. Bởi có tục lấy vợ ở ngoài bộ lạc mà người
đàn ông bắt buộc phải thỏa mãn tình dục với đàn bà ở ngoài bộ bộc xa lạ không
gợi cho họ chút tình yêu và thương mến nào.
[21] “Über die allgemeine Erniedrigung des Liebeslebens”, 1912,
Sammlung kleiner Schriften zur Neuroselehre, IV.
Trong những đám đông quy ước lớn, như giáo hội và quân đội,
không có chỗ cho đàn bà với tư cách là đối tượng dục tính. Những liên lạc tình
ái giữa đàn ông và đàn bà đều ở ngoài tổ chức. Cả trong những đám đông có cả
nam lẫn nữ, sự khác biệt về nam nữ tính không có vai trò nào cả. Không có vấn
đề tìm hiểu xem cái libido duy trì sự đoàn kết đám đông có bản chất đồng tính
ái hay lưỡng tính ái, bởi vì đám đông được tổ chức theo tiêu chuẩn khác chứ
không theo tiêu chuẩn nam nữ tính, sự tổ chức ấy lại không kể đến những mục
tiêu chỉ đạo sự tổ chức sinh dục tính.
Những khuynh hướng dục tính trực tiếp giữ được tính cách cá nhân
nào đó, cả đến những người bị chìm vào trong đám đông. Khi nào cá tính vượt qua
môt mức độ nào thì tập thể bị đe dọa tan rã. Giáo hội có lý do đích đáng để
khuyến cáo đạo hữu sống độc thân và bắt buộc thầy tu phải chay tịnh, nhưng ái
tình nhiều khi làm cho thầy tu phá giới. Tình yêu đàn bà làm sụp đổ những dây
liên lạc tạo ra vì chủng tộc, vượt lên trên biên giới quốc gia và giai cấp xã
hội, và như thế tình yêu đã góp phần lớn vào nền văn hóa. Có lẽ tình yêu đồng
tính ái dễ thỏa hiệp hơn với những dây liên lạc tập thể, cả trong những trường
hợp mà nó xuất hiện như khuynh hướng dục tính không bị cản trở: đây là một sự
kiện quan trọng nhưng không tiện giải thích vì phải đi xa quá.
Xét nghiệm phân tâm những bệnh suy nhược thần kinh chúng tôi
đã nhận thấy rằng những triệu chứng của bệnh ấy bắt nguồn từ những khuynh hướng
dục tính trực tiếp bị dồn nén, nhưng vẫn có sức hoạt động. Chúng ta có thể bổ
túc công thức ấy mà nói thêm rằng: những triệu chứng ấy còn có thể bắt nguồn từ
những khuynh hướng bị cản trở, nhưng bị cản trở qua loa chưa dứt hẳn làm cho
chúng có thể trở lại với mục đích dục tính đã đàn áp. Điều đó cắt nghĩa được
tại sao chứng suy nhược thần kinh làm cho người ta ác cảm với xã hội, đào một
hố sâu giữa cá nhân và những tập thể mà họ tham dự. Người ta có thể nói rằng
chứng suy nhược thần kinh là một yếu tố làm tan rã đám đông, cũng ngang mức độ
với ái tình. Bởi vậy mỗi khi có khuynh hướng mạnh mẽ thành lập tập thể thì bớt
chứng suy nhược thần kinh, nó có thể tạm thời biến mất. Vả chăng người ta đã thử
lợi dụng sự đối lập giữa suy nhược thần kinh và tinh thần tập thể để chữa bệnh.
Cả những người không lấy làm tiếc rằng người văn minh đã bỏ mất ảo tưởng tôn
giáo cũng công nhận rằng khi mà những ảo tưởng ấy đủ sức mạnh thì đó là sức
chống lại suy nhược thần kinh hữu hiệu nhất cho những người còn có ảo tưởng tôn
giáo. Chúng ta cũng thấy dễ dàng rằng sự gia nhập những giáo phái hay cộng đồng
thần-bí-tôn-giáo hay triết-lý-thần-bí là một cách tìm phương thuốc gián tiếp
chống lại thứ suy nhược thần kinh. Tất cả những sự kiện ấy đều liên hệ tới sự
đối lập giữa những khuynh hướng dục tính trực tiếp và những khuynh hướng dục
tính bị cản trở.
Nếu không tham gia vào một tập thể nào, người suy nhược thần
kinh sẽ phải dùng những triệu chứng suy nhược để thay thế tâm thần tập thể mà
họ thiếu thốn. Họ tự tạo cho mình một thế giới tưởng tượng, tôn giáo của họ, hệ
thống huyền hoặc của họ, và họ cũng tái tạo những định chế của nhân loại dưới
một sắc thái lệch lạc, họ phản lại sự đóng góp tích cực của những khuynh hướng
dục tính trực tiếp vào công cuộc xây dựng tập thể[22].
[22] Vật tổ và cấm kỵ, chương II (cuối).
E. Trước khi chấm
dứt, chúng ta hãy đứng về phương diện libido, để lập một bảng so sánh những
trạng thái đã bàn qua: trạng thái ái tình, trạng thái thôi miên, sự thành lập
tập thể và chứng suy nhược thần kinh.
Trạng thái ái tình đặt nền tảng trên sự đồng hiện diện của
những khuynh hướng dục tính rẽ hướng, không nhắm vào mục tiêu, đối tượng thu
hút lấy một phần libido ngã ái của cái tôi. Trạng thái ấy giới hạn vào
cái tôi và đối tượng.
Trạng thái thôi miên giống trạng thái ái tình ở điểm nó cũng
giới hạn vào cái tôi và đối tượng, nhưng phần nhiều nó dựa vào những
khuynh hướng dục tính bị cản trở và đem đối tượng đặt vào chỗ lý tưởng tôi.
Trong đám đông tiến trình ấy được khuếch đại; tâm trạng đám
đông cũng giống trạng thái thôi miên ở chỗ bản chất của những bản năng giữ
nhiệm vụ đoàn kết, nó còn giống ở chỗ thay thế đối tượng bằng lý tưởng tôi;
nhưng trong đám đông còn thêm sự đồng nhất hóa cá nhân với những người khác, sự
đồng nhất hóa ấy có thể xảy ra vì mọi người đều có cùng một thái độ với đối
tượng.
Thôi miên và tâm trạng đám đông đều là vết tích di truyền của
sự phát sinh cái libido nhân loại từ uyên nguyên của nó, thôi miên là sự tồn
tại dưới hình thức một xu hướng tự nhiên, đám đông là sự tồn tại dưới hình thức
một hiện tượng sống sót trực tiếp. Trong cả hai trường hợp những khuynh hướng
dục tính bị cản trở hay trực tiếp đều thuận lợi cho sự phân chia thành cái tôi
và lý tưởng tôi, sự phân chia ấy đã bắt đầu từ trạng thái ái tình.
Bệnh suy nhược thần kinh tách ra khỏi loại hiện tượng ấy. Suy
nhược thần kinh dựa vào một đặc điểm của sự tiến triển cái libido nhân loại,
dựa vào cái gọi là hai cách ăn khớp của cơ năng dục tính trực tiếp (như nói sau
đây), đến thời kỳ lắng chìm thì không còn hai cách ăn khớp ấy nữa[23].
Cũng như thôi miên và tâm trạng đám đông, suy nhược thần kinh cũng có tích cách
thoái lui (tình trạng ái tình không có tính cách thoái lui). Sự suy nhược xảy
ra mỗi khi sự biến cải từ mục tiêu dục tính trực tiếp sang mục tiêu dục tính bị
cản trở không được hoàn hảo, sự suy nhược ấy là hậu quả của cuộc xung đột giữa
người có khuynh hướng có thể tiến triển được vì nhập vào với cái tôi và
những phần tử của khuynh hướng bị rớt lại trong tiềm thức; phần tử bị rớt nhập
vào với những yếu tố bị dồn nén, chúng cùng đòi hỏi thỏa mãn trực tiếp. Bệnh
suy nhược thần kinh có một nội dung hết sức phong phú vì: 1) Nó gồm tất cả
những liên lạc có thể có giữa cái tôi và đối tượng, những liên lạc trong
đó đối tượng còn giữ nguyên những liên lạc trong đó đối tượng đã bị sa thải hay
nhập vào cái tôi. 2) Những liên lạc phát sinh vì cuộc xung đột giữa cái
tôi và lý tưởng tôi.
[23] Sexualtheorie in lần thứ 4a, 1920, trang 96.

