Nghiên cứu phân tâm học - Phần III - Chương 01
Phần thứ ba - Cái tôi và vô thức
Lời nói đầu
Trong phần này chúng tôi đi vào những quan điểm đã phác họa
trong phần Vượt xa hơn nguyên tắc khoan khoái, chúng tôi vẫn giữ thái độ
hiếu kỳ từ tốn đã dẫn dắt chúng tôi khi viết cuốn tiểu luận này. Chúng tôi vẫn
trở lại những ý kiến ấy qua tâm phân nghiệm; khi đã phối hợp tri và hành chúng
tôi rút ra những kết luận mới, tuy nhiên chúng tôi không vay mượn thêm cái gì
của sinh vật học. Bởi vậy trong phần này chúng tôi gần với phân tâm học hơn
phần đầu. Bởi vậy phần này có tính cách tổng hợp hơn là khai thác một vài
nguyên tắc và hầu như hướng về một mục đích khá cao trọng. Tuy nhiên chúng tôi
cũng nhận thấy không vượt qua được một vài sự nhận xét thô sơ và chúng tôi xin
nhận trước những lời chỉ trích.
Nhưng chúng tôi đề cập đến những vấn đề chưa hề được minh
giải phân tâm học, và chúng tôi phải bàn đến một vài thuyết đề xướng bởi những
học giả không phải phân tâm học gia, hay bởi những phân tâm học gia đã già kinh
nghiệm. Chúng tôi công nhận rằng đã dùng những kết quả khảo cứu của người khác
nếu là trường hợp nào đó, nhưng nếu là kết quả khảo cứu của riêng tôi thì tôi
không cho là mình đã vay mượn của ai. Nếu có những vấn đề mà phân tâm học không
bàn đến thì chúng tôi phải tìm nguyên nhân, chúng tôi không có thành kiến hay
có thái độ tiêu cực đối với những vấn đề ấy, chúng tôi không bàn đến vì trên
địa hạt phân tâm học chúng tôi chưa gặp những vấn đề ấy. Ngày nay chúng tôi
nhận thấy phải đem ra bàn thì những vấn đề ấy hiện ra dưới mắt chúng tôi khác
hẳn dưới mắt những người khác.
1. Ý thức và tiềm thức
Trong chương nhập đề này tôi không đề cập đến vấn đề nào mới
mẻ và tôi không tránh được việc nhắc lại những điều đã nói ở trên.
Sự phân chia ra tâm thần ý thức và tâm thần tiềm thức là quan
điểm nền tảng của phân tâm học, không có nó thì không thể hiểu được những tiến
trình bệnh lý thường có và sự trầm trọng của sinh hoạt tâm thần, và cũng không
thể đem ra nghiên cứu một cách khoa học. Xin nhắc lại một lần nữa dưới hình
thức khác: phân tâm học không cho rằng tâm thức (ý thức) là thể tính (tinh lý,
essence) của sinh hoạt tâm thần, phân tâm học cho rằng tâm thức chỉ là một đức
tính của sinh hoạt tâm thần, có thể đồng hiện hữu với những đức tính khác hay
không có mặt.
Nếu tôi có ảo tưởng rằng những người để tâm đến tâm lý học
đọc thiên tiểu luận này thì tôi chắc chắn rằng hơn một độc giả bất bình vì tôi
dành cho tâm thức một chỗ đứng khiêm tốn quá, họ sẽ bỏ dở ngay từ trang đầu
không cất công đọc tiếp. Phần nhiều người có kiến thức triết học không thể hiểu
được rằng một sự kiện tâm thần lại có thể không ý thức được, họ loại bỏ ý tưởng
đó, họ cho là vô lý và mâu thuẫn với luận lý lành mạnh. Theo tôi thì chỉ tại
những người ấy chưa từng nghiên cứu hiện tượng thôi miên và hiện tượng giấc mơ,
những hiện tượng ấy, nếu không kể đến cạnh khía bệnh lý có thể có, sẽ bắt buộc
chúng ta phải chấp nhận cách nhìn như chúng tôi vừa nói ở trên. Trái lại, tâm
lý học của họ căn cứ vào sự hiện diện của tâm thức được những vấn đề liên hệ
với thôi miên và giấc mơ.
Có ý thức trước hết là những chữ dùng để mô tả và chỉ liên hệ
đến sự tri giác trực tiếp nhất và chắc chắn nhất. Nhưng kinh nghiệm cho ta biết
rằng một yếu tố tâm thần, thí dụ một biểu thị, không bao giờ ý thức được một
cách thường xuyên. Đặc điểm của những yếu tố tâm thần là trạng thái ý thức biến
mất rất nhanh chóng. Một biểu thị ý thức được vào lúc nào đó, lát sau sẽ không
còn như thế nữa, nhưng rất dễ trở lại ý thức với điều kiện nào đó. Trong khoảng
cách giữa hai lần ý thức chúng ta không biết biểu thị ấy sẽ như thế nào, chúng
ta có thể nói rằng nó lắng chìm, nói như vậy chúng ta hiểu là lúc nào nó cũng
có thể trở lại ý thức. Khi nói rằng trong khoảng cách ấy, một biểu thị
trở thành tiềm thức, chúng ta đưa ra một định nghĩa đúng, trạng thái tiềm thức
ấy đúng khít với trạng thái lắng chìm và khả năng trở lại ý thức. Triết gia sẽ
có thể chỉ trích như sau: danh từ tiềm thức không thể áp dụng được trong
trường hợp riêng vì trong lúc một biểu thị ở vào trạng thái lắng chìm thì nó
không biểu thị cho cái gì là tâm thần cả. Chúng tôi xin miễn trả lời vì chúng
tôi sợ bị lôi cuốn vào một cuộc tranh luận hình thức không có lợi gì cả.
Nhưng chúng tôi đã đi tới khái niệm tiềm thức bằng một lối
khác, nhất là chúng tôi sử dụng những kinh nghiệm trong đó có liên hệ đến năng
động tâm thần (dynamisme psychique). Chúng tôi phải chấp nhận rằng có những
tiến trình tâm thần mạnh mẽ, hay những biểu thị (đây chỉ kể đến yếu tố lượng,
nghĩa là tổ chức và điều hành) có thể bộc lộ bằng những hậu quả tương tự những
hậu quả gây ra bởi những biểu thị khác, hoặc là những hậu quả trở thành hình thức
biểu thị và có thể hiện lên ý thức mặc dù những tiến trình làm phát sinh những
hậu quả ấy không hiện lên ý thức được. Ở đây không cần nhắc lại từng chi tiết
những điều đã nói đi nói lại nhiều lần. Chúng ta chỉ cần nhắc lại rằng lý
thuyết phân tâm học chú trọng vào điểm ấy, nếu có những biểu thị không thể trở
thành ý được thì hẳn là phải có nguyên nhân nào chống lại; nếu không có sức
chống lại thì tất nhiên chúng trở thành ý thức được; xem như thế thì chúng cũng
không khác nhiều những yếu tố khác của tâm thần được thừa nhận cho trở thành ý
thức. Thuyết này đứng vững vì kỹ thuật phân tâm học đã tìm ra một phương tiện
để diệt trừ sức chống cự và cho phép những biểu thị tiềm thức ấy hiện lên ý
thức. Chúng tôi dùng chữ dồn nén để chỉ những biểu thị chưa có thể xuất hiện ra
ý thức như thế; còn như sức mạnh gây ra sự dồn nén, chúng tôi nhận ra nó dưới
hình thức một sự kháng cự.
Như vậy những khiếu nại về tiềm thức của chúng tôi đã được
diễn dịch từ thuyết dồn nén. Cái bị dồn nén đối với chúng tôi là kiểu mẫu tiềm
thức đầu tiên. Tuy nhiên chúng tôi biết rằng có hai loại tiềm thức, những sự
kiện tâm thần lắng chìm nhưng có thể trở lại ý thức, và những sự kiện tâm thần
dồn nén bị bỏ rơi không bao giờ hiện lên ý thức được. Quan niệm năng động tâm
thần của chúng tôi không thể nào không ảnh hưởng đến cách dùng danh từ và sự mô
tả hiện tượng. Khi chúng tôi nói đến sự kiện tâm thần lắng chìm thì chúng tôi
cho rằng đó là những sự kiện tiềm thức hiểu theo nghĩa mô tả chứ không phải
hiểu theo nghĩa năng động; chúng tôi gọi sự kiện tâm thần lắng chìm là sự kiện tiền
ý thức (préconscient), còn danh từ tiềm thức thì dành cho những sự kiện dồn
nén nghĩa là đứng về phương diện năng động thì gọi là tiềm thức. Như vậy là
chúng ta có ba danh từ: ý thức, tiền ý thức và tiềm thức
mà không phải chỉ có ý nghĩa mô tả thuần túy mà thôi. Chúng tôi chấp nhận rằng
tiền ý thức gần với ý thức hơn tiềm thức. Chúng tôi đã chấp nhận cho tiềm thức
có tính cách tâm thần thì chúng tôi không ngại ngùng gì mà cho rằng tiền ý
thức, nghĩa là cái gì lắng chìm cũng có tính cách tâm thần. Nhưng tại sao chúng
tôi không theo gương các triết gia vạch một đường ranh giới ở giữa, tiền ý thức
và tiềm thức ở một bên, bên kia là ý thức, như vậy có vẻ hữu lý hơn không? Nếu
làm như vậy thì chúng tôi phải coi tiền ý thức và tiềm thức là hai thứ loại của
tinh lực tâm thần. Tuy làm như vậy nhất quán hơn, nhưng trong sự trình bày
chúng tôi sẽ vấp phải những khó khăn nan giải. Điều quan trọng là tinh lực tâm
thần phù hợp gần hết mọi phương diện với cái thường được coi là thuộc về tâm
thần, điều quan trọng đó bị đẩy lui xuống hàng thứ yếu, làm lợi cho một thành
kiến đã có từ ngày người ta chưa biết tới tinh lực tâm thần, hay ít ra điểm
chính yếu của nó.
Ba danh từ của chúng tôi: ý thức, tiền ý thức và
tiềm thức dễ sử dụng hơn, người ta được tự do hơn trong việc suy tưởng, với
điều kiện là nếu đứng về phương diện mô tả, chúng tôi chỉ có hai loại tiềm
thức, nhưng về phương diện năng động chỉ có một mà thôi. Trong một vài trường
hợp chúng ta có thể trình bày sự việc mà không cần phân biệt như thế, trong
những trường hợp khác chúng ta lại cần phân biệt. Dầu sao thì chúng ta cũng đã
đủ làm quen với ý nghĩa kép của cái tiềm thức, chưa bao giờ chúng ta thấy rắc
rối. Sau hết, sự phân biệt ra ý thức và tiềm thức rút cục chỉ có một vấn đề tri
giác, một vấn đề có hai cách trả lời: có và không, chính việc tri
giác cũng không cho ta biết lý lẽ tại sao chúng ta biết rằng vật này tri giác
được vật kia không tri giác được. Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta phàn nàn
rằng năng động tâm thần bao giờ cũng xuất hiện ra hai mặt (ý thức và tiềm thức)[1].
[1] Xin coi “Bemerkungen über den Begriff des Unbewussten”, trong
Sammlung kleiner Schriften zur Neurosenlehre, loại bốn. Chúng tôi nhận thấy cần
phải nói đến một hướng mới trong sự phê bình cái tiềm thức. Nhiều tác giả tuy
chấp nhận những sự kiện phân tâm học nhưng từ chối không chấp nhận cái tiềm
thức, họ trưng ra bằng chứng không thể chối cãi được là ý thức, với tư cách là
một hiện tượng cũng có nhiều mức cường độ và sáng sủa. Có những tiến trình mà chúng
ta ý thức được minh bạch, có thể nói là cụ thể, nhưng cũng có những tiến trình
mà chúng ta chỉ ý thức được lờ mờ. Các tác giả ấy còn nói thêm rằng những tiến
trình mà các nhà phân tâm học gia gọi là tiềm thức, gọi như thế không được xác
đáng, vì thực ra những tiến trình ấy cũng ý thức được, cũng “ở trong ý thức”,
nếu chú ý đến hẳn hoi chúng vẫn có thể trở thành ý thức hoàn toàn và mạnh mẽ.
Nếu cho rằng những lý lẽ ấy có thể có giá trị nào trong việc
minh giải một vấn đề tùy thuộc chặt chẽ vào những ước lệ hay những yếu tố tình
cảm như vấn đề này, thì chúng tôi xin trả lời như sau: vì ý thức có những mức
độ sáng sủa rõ ràng khác nhau mà kết luận rằng không tiềm thức thì chẳng khác
nào khẳng định rằng không có tối vì sáng cũng có nhiều mức độ từ tờ mờ đến sáng
chói, chẳng khác nào căn cứ vào mức độ yếu hay khỏe của sự sống mà nói rằng
không có sự chết. Những cách lý luận như thế có thể tài tình đến một mức nào,
nhưng không có giá trị thực tiễn, người ta sẽ thấy ngay khi người ta định rút
ra cách áp dụng, thí dụ: đã không có tối, thì chẳng cần gì phải thắp đèn; đã
không có sự chết thì tất cả các sinh vật đều bất tử. Ngoài ra, nếu cho rằng cái
không tri giác được cũng ở trong ý thức thì người ta không còn tin tưởng được
rằng hoạt động tâm thần cho ta biết chắc chắn một cách trực tiếp nữa. Một thứ ý
thức mà người ta không biết nó thế nào đối với tôi chỉ là một giả thuyết còn vô
lý hơn giả thuyết rằng có riêng một đời sống tâm thần tiềm thức. Sau hết, những
người đồng hóa tiềm thức với cái không tri giác được, không kể đến tiềm thức
với cái không tri giác được, không kể đến những điều kiện năng động mà phân tâm
học cho rằng có tầm quan trọng chính yếu, những tác giả ấy đã không kể đến hai
sự kiện sau: thứ nhất, họ quên rằng rất khó chú ý đúng mức đến cái gì không tri
giác được và phải cố gắng đến như thế nào; thứ hai, họ không biết rằng dù cố
gắng có kết quả thì ý thức cũng không nhận thực được cái mà trước đây không tri
giác được, nó sẽ từ khước mà cho đó là cái gì lạ hoắc, trái ngược. Ý muốn cho
rằng tiềm thức chỉ là cái không tri giác được hay chỉ tri giác được rất ít,
thực ra chỉ là hậu quả của một thành kiến chủ trương sự đồng nhất của tâm thần
và ý thức.
Nhưng những cuộc tìm tòi phân tâm học say này đã minh thị
rằng những sự phân biệt ấy cũng còn thiếu thốn, chưa được thỏa mãn. Trong số
những trường hợp mà chúng ta nhận thấy sự phân biệt còn thiếu thốn, chúng tôi
xin nêu ra trường hợp sau đây rõ ràng hơn cả. Chúng ta hình dung ra những tiến
trình tâm thần của một người nào là một tổ chức nhất trí tạo thành cái tôi
của người đó. Cái tôi thuộc về ý thức, nó kiểm soát và trông coi cửa ngõ
bước vào cơ năng vận động, nghĩa là việc ngoại xuất (extériorisation) một khích
động. Cái tôi có thẩm quyền tự kiểm soát những tiến trình của mình, ban
đêm nó ngủ, nhưng vẫn còn quyền kiểm duyệt giấc mơ. Cũng từ cái tôi mà
xuất phát sự dồn nén, do sự dồn nén mà một vài khuynh hướng tâm thần không
những bị trục xuất khỏi ý thức mà còn bị kiềm tỏa chặt chẽ không thể phát hộ
dưới bất cứ hình thức nào. Trong thời kỳ tâm phân nghiệm những khuynh hướng bị
dồn nén nổi dậy chống lại cái tôi, công việc của ông thầy là loại trừ
những sức chống cự mà cái tôi đưa ra ngăn cản ông thầy không cho lại gần
những khuynh hướng bị dồn nén. Trong thời kỳ ấy người bệnh tỏ ra bối rồi khi bị
bắt buộc phải làm một loại công việc nào đó, họ không còn liên tưởng được nữa
khi họ sắp tới gần những khuynh hướng bị dồn nén. Chúng tôi bảo cho họ biết
rằng họ bị ảnh hưởng của một sức chống cự, nhưng họ không biết gì cả; mặc dù
những cảm tưởng buồn bực làm cho họ phải công nhận rằng họ bị chi phối bởi một
sức chống cự, họ cũng không biế sức chống cự đó là cái gì, nó ở đâu ra. Nhưng
chắc chắn là sức chống cự ấy xuất phát tự cái tôi và cũng là một thành
phần của cái tôi, chúng tôi bị đặt trước một tình thế mà chúng tôi chưa
hề nghĩ đến. Chúng tôi tìm thấy trong cái tôi một cái gì không ý thức
được như những khuynh hướng bị dồn nén, nghĩa là gây ra hậu quả rõ rệt mà vẫn
giấu mặt. Bởi có những sự kiện ấy cho nên trong công việc tâm phân nghiệm của
chúng tôi, chúng tôi thường gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều điểm tối tăm khi
chúng tôi muốn y theo những cách định nghĩa quen thuộc, thí dụ cho rằng bệnh
suy nhược thần kinh là sự xung đột giữa ý thức và tiềm thức. Sự đối lập ý thức
tiềm thức không dùng được với quan niệm của chúng tôi về cơ cấu tâm thần, chúng
tôi phải đưa ra công thức khác: sự đối lập giữa cái tôi nhất trí và
những yếu tố tách rời khỏi cái tôi rồi bị dồn nén.
Công thức ấy có hậu quả trọng đại đến quan niệm của chúng tôi
về tiềm thức. Phương diện năng động của vấn đề cho phép chúng tôi đưa ra một
hiệu chính đầu tiên, phương diện cơ cấu cho phép chúng tôi hiệu chính một lần
nữa. Chúng tôi nhận thấy rằng tiềm thức không đúng khít với những đơn tố bị dồn
nén. Hẳn là tất cả cái gì bị dồn nén đều ở trong tiềm thức, nhưng cũng có những
đơn tố tiềm thức mà không phải là cái gì bị dồn nén. Một phần của cái tôi,
không biết quan trọng hay không đáng kể, cũng không thể ý thức được. Và phần đó
lại không có tính cách lắng chìm như tiền ý thức, vì nếu nó có thể ý thức được
thì mỗi khi đánh thức nó dậy nó phải trở thành cái ý thức được, ông thầy đã
chẳng gặp khó khăn mỗi khi muốn làm cho nó trở thành ý thức. Như vậy chúng tôi
thấy cần phải chấp nhận rằng có một cái tiềm thức thứ ba, không phải là cái gì
bị dồn nén; nhưng chúng tôi phải thú nhận rằng tính chất của tiềm thức mất hết
ý nghĩa chuẩn xác. Tiềm thức trở thành một phẩm chất có rất nhiều nghĩa không
còn tính cách phổ quát, không thể đem ra diễn dịch một cách chắc chắn như chúng
tôi vẫn làm. Nhưng chúng tôi cũng không bỏ được những khái niệm ý thức và tiềm
thức vì hai khái niệm ấy đem lại chút ánh sáng duy nhất dẫn dắt chúng tôi trong
thâm sâu tối thẳm của tâm thần.

