Xác Ấm - Phần II - Chương 12
Sân vận động hiện ra ở cuối đường chân trời trong khi những Người Chết lảo
đảo tiến tới trước. Nó vươn cao hơn phần lớn những tòa nhà xung quanh và chiếm
hết vài khối phố, một vật tưởng niệm lòe loẹt dành cho một kỉ nguyên dư thừa,
một thế giới đầy những hoang phí và những giấc mơ lầm lạc đã chấm dứt hoàn
toàn.
Đoàn Xác Sống chúng tôi đã đi bộ hơn một ngày nay, lang thang trên những
con đường rộng mở như dân hippi trong truyện của Kerouac, chỉ khác là không có
tiền mua xăng thôi. Những người khác thấy đói, và họ cùng M bàn bạc chớp
nhoáng, gần như không dùng lời, trước khi dừng lại ở một căn nhà cũ bị bịt kín
để kiếm ăn. Tôi đợi ở ngoài. Bữa ăn gần đây nhất của tôi đã lâu lắm rồi, nhưng
không hiểu sao tôi vẫn thấy thoải mái lạ lùng. Trong các huyết mạch của tôi là
một cảm giác trung tính, cân bằng giữa đói khát và no nê. Tiếng hét vọng ra từ
ngôi nhà xuyên qua tôi sắc bén hơn nhiều so với những khi tôi tự tay giết
người, thế mà lúc này tôi còn không ở gần họ nữa. Tôi đứng thật xa ngoài phố,
hai tay bịt chặt tai và đợi cho mọi chuyện kết thúc.
Khi họ bước ra, M tránh cái nhìn của tôi. Anh đưa mu bàn tay quệt máu trên
miệng và liếc tôi vẻ hối lỗi trước khi vượt lên trước. Những người khác thì chưa
đạt được đến mức có lương tâm như M, nhưng họ cũng có vẻ gì đó khang khác. Họ
không lấy đồ thừa đem về. Họ lau sạch bàn tay vấy máu lên quần. Họ
bước đi trong sự im lặng lúng túng. Cũng là một khởi đầu rồi.
Khi đến gần sân vận động đủ để thoáng ngửi thấy mùi Người Sống, tôi xem xét
lại kế hoạch trong đầu mình. Thực ra kế hoạch cũng chẳng có gì. Nó đơn giản như
trò trẻ con, nhưng nó sẽ thành công vì lí do này: chưa ai từng thử làm thế.
Chưa từng ai có đủ quyết tâm để tìm ra cách.
Còn cách cổng vào chừng vài khối nhà, chúng tôi dừng lại ở một căn nhà bỏ
hoang. Tôi đi vào nhà tắm và ngắm mình trong gương như những chủ nhân trước kia
của ngôi nhà hẳn đã từng làm cả ngàn lần. Tôi điểm qua trong đầu những nghi
thức buổi sáng lặp đi lặp lại đến phát nhàm, để nhập vai. Đồng hồ báo
thức - tắm - thay quần áo - ăn sáng. Trông tôi đã bảnh bao chưa?
Tôi đã cố hết sức chưa? Khi bước ra khỏi cánh cửa kia tôi đã sẵn sàng cho tất
cả những gì thế giới có thể ném vào tôi chưa?
Tôi bôi ít keo lên tóc. Tôi xịt chút nước cạo râu lên mặt. Tôi chỉnh lại cà
vạt.
“Sẵn sàng rồi,” tôi bảo những người khác.
M ngắm nghía tôi. “Cũng được đấy.”
Chúng tôi tiến về phía cổng.
***
Khi chỉ còn cách mấy khối nhà, mùi Người Sống trở nên gần như không chịu
nổi. Sân vận động tựa như một tháp phát điện Tesla khổng lồ liên tục phát ra
những tia chớp sự sống hồng hào thơm phức. Tất cả mọi người trong nhóm tôi đều
ngẩng lên nhìn nó mê mải. Vài người còn để mặc cho nước dãi nhỏ ròng ròng. Nếu
không phải là họ vừa ăn xong thì kế hoạch sơ sài của chúng tôi sẽ đổ bể ngay
lập tức.
Trước khi đến trước cánh cổng, chúng tôi rẽ sang một phố bên và dừng lại ở
một ngã tư, nấp đằng sau một chiếc xe tải chuyển phát nhanh. Tôi ló ra một chút
để ngó quanh góc phố. Cách đó chưa đến hai khối nhà, bốn lính canh đang đứng
trò chuyện trước cổng chính của sân vận động, súng trường đeo lủng lẳng trên
vai. Những câu nói cụt ngủn kiểu nhà binh của họ còn ít âm tiết hơn cả lời nói
của chúng tôi.
Tôi nhìn M. “Cảm ơn. Vì... việc này.”
“Không có gì.” M đáp.
“Đừng chết.”
“Sẽ... cố. Sẵn sàng... chưa?”
Tôi gật đầu.
“Sống động... lên nhé.”
Tôi mỉm cười. Tôi cào tay chải tóc lại một lần nữa, hít một hơi thật sâu,
rồi vùng chạy.
“Cứu!” Tôi hét lên và vẫy tay. “Cứu, chúng ở... ngay sau tôi!”
Với những bước chân đều đặn chắc chắn nhất, tôi chạy về phía cổng. M và
những Người Chết khác lảo đảo đuổi theo tôi, phát ra những tiếng rên rỉ rất
kịch.
Đám lính canh phản ứng lại theo bản năng: họ giơ súng lên và nổ vào những
Xác Sống. Một cánh tay bị bắn bay. Một cẳng chân. Một trong số chín Xác Sống vô
danh kia bị mất đầu và gục xuống. Nhưng không có một vũ khí nào chĩa về phía
tôi. Vừa tập trung vừa mường tượng ra vẻ mặt của Julie trong không khí, tôi vừa
lao đi với sự quyết tâm của một vận động viên Olympic. Sải chân của tôi rất
tốt, tôi có thể cảm thấy thế. Trông tôi rất bình thường, đầy sức sống, và tôi
lập tức được xếp vào một loại khác: “Con người”. Hai lính canh nữa xuất hiện
giơ cao khẩu súng, nhưng họ thậm chí còn chẳng thèm nhìn tôi. Họ nheo mắt, ngắm
bắn, và họ hét, “Mau lên! Chạy vào trong đi!”
Hai Xác Sống khác ngã xuống sau lưng tôi. Khi lách qua cánh cổng, tôi thấy
M và những Người Chết còn lại chuyển hướng và rút lui. Vừa quay đi, bước chân
của họ lập tức thay đổi. họ không lảo đảo nữa mà chạy đi như những sinh vật
sống. Không nhanh như tôi, cũng không uyển chuyển bằng, nhưng họ chạy một cách
có chủ đích. Đám lính canh băn khoăn ngừng bắn. “Cái quái gì thế...?” Một
người lẩm bẩm
Ngay trong cánh cổng là một người cầm tấm bìa kẹp tờ giấy và quyển sổ. Một
nhân viên nhập cảnh đang sẵn sàng để ghi tên tôi và bắt tôi điền vào một đống
đơn từ, rồi sau đó rất có thể sẽ tống tôi ra ngoài. Suốt bao năm nay, nhờ người
này mà Người Chết chúng tôi được cung cấp những người lang thang không được bảo
vệ mà chúng tôi thường ăn ở bên ngoài những khu đổ nát. Ông ta tiến về phía
tôi, lật lật quyển sổ, không hề nhìn vào tôi. “Suýt chết, phải không anh bạn?
Giờ thì anh phải...”
“Ted, ra mà xem cái quái quỷ gì này!”
Ted ngẩng lên, nhìn qua cánh cổng mở, và thấy mấy người lính đang đứng đờ
ra. Ông ta liếc nhìn tôi. “Đợi ở đây nhé.”
Ted chạy ra đứng cạnh đám lính canh, trố mắt nhìn những Xác Sống linh hoạt
đến rợn người đang lao về đằng xa như người thật. Tôi tưởng tượng ra vẻ mặt của
những người đàn ông kia trong khi bụng họ cồn cào cái cảm giác đáng sợ rằng mặt
đất dưới chân đang chuyển động.
Nhất thời bị bỏ quên, tôi quay người chạy thẳng. Tôi chạy qua khoảng hành
lang tối, chạy về phía ánh sáng ở đầu bên kia, tự hỏi đây là đường ra khỏi bụng
mẹ hay đường lên Thiên đàng. Tôi đang đến hay đang đi? Dù thế nào thì cũng đã
quá muộn để quay trở lại rồi. Ẩn náu dưới cái ánh sáng chạng vạng của bầu
trời đỏ quạch, tôi bước vào thế giới của Người Sống.
KHU THỂ THAO mà Julie gọi là nhà rộng đến khó hiểu, có lẽ nó là sân
vận động siêu cấp được xây vào cái thời mà rắc rối lớn nhất của thế giới chỉ là
không biết tổ chức tiệc tùng ở đâu. Từ bên ngoài, nó chẳng có gì ngoài những
bức tường khổng lồ hình ô van không có gì đặc biệt, một chiếc thuyền Noah bằng
bê tông mà đến cả Chúa cũng không làm cho nổi được. Nhưng bên trong sân vận
động là linh hồn của nó: hỗn loạn nhưng làm ra vẻ có trật tự, như những khu ổ
chuột lộn xộn của Brazil nếu chúng được thiết kế bởi một kiến trúc sư theo
trường phái hiện đại vậy.
Tất cả ghế ngồi đã bị dỡ ra để lấy chỗ cho một hệ thống bàn cờ trải rộng gồm
các tòa tháp chọc trời tí hon, những căn nhà lênh khênh được xây cao và hẹp một
cách tự nhiên để tiết kiệm đất. Tường nhà được ghép linh tinh từ bất cứ thứ vật
liệu nào họ góp nhặt được - một trong những tòa tháp cao hơn cả có móng
bằng bê tông, nhưng càng cao lên thì càng mỏng manh hơn, từ thép cho đến nhựa
cho đến tầng chín chênh vênh chỉ làm từ bìa cứng sũng nước. Nhìn bề ngoài hầu
hết tòa nhà đều gợi ấn tượng chỉ gió thổi qua cũng đổ, nhưng toàn thể thành phố
được đỡ bởi một mạng lưới dây thép chạy từ nhà này sang nhà khác để siết chặt
toàn bộ hệ thống. Những bức tường bên trong của sân vận động vươn cao lên hết
thảy, với những ống nước, dây điện va cột thép bị cắt đâm lên khỏi lớp bê tông
nom như bộ râu tua tủa. Những ngọn đèn đường yếu ớt tỏa ánh sáng vàng vọt nhạt
nhòa, khiến cả thành phố trong quả cầu thủy tinh này luôn chìm trong bóng tối.
Ngay khi tôi bước ra khỏi đường hầm, xoang mũi tôi đã bị tấn công bởi một
luồng mùi sự sống cực mạnh. Nó ở khắp quanh tôi, thơm sực đến nỗi làm tôi đau
đớn, tôi cảm thấy như mình đang bị chết chìm trong một lọ nước hoa. Nhưng giữa
làn hương sặc sụa ấy, tôi vẫn nhận ra Julie. Mùi hương đặc trưng của nàng nổi
bật hơn những mùi khác, mời gọi tôi như một giọng nói nghe được dưới nước. Tôi
đi theo nó.
Các con phố ở đây chỉ rộng bằng vỉa hè, làm từ những dải đường nhựa hẹp đổ
lên trên lớp cỏ giả cũ kỹ, giờ còn lộ ra ở những chỗ chưa được rải nhựa như một
thứ rêu xanh chói mắt. Trên biển tên phố không có tên. Thay vì đề tên bang hay
tên tổng thống thì chúng chỉ có những biểu tượng màu trắng đơn giản: Quả Táo,
Quả Bóng, Con Mèo, Con Chó - một bảng hướng dẫn học chữ cái cho trẻ con. Ở
đâu cũng đầy bùn, bùn bám trơn trượt trên nhựa đường và chất đống ở các góc
cùng với rác rưởi của cuộc sống thường nhật: lon nước ngọt, mẩu thuốc lá, bao
cao su đã dùng, và vỏ đạn.
Tôi cố không trố mắt nhìn thành phố như một tên du khách nhà quê, nhưng có
một cái gì đó còn hơn cả sự tò mò làm tôi không thể rời mắt khỏi từng lề đường,
từng mái nhà. Mặc dù tất cả với tôi hết sức xa lạ, tôi vẫn cảm thấy một
thoáng quen thuộc, thậm chí là hoài niệm nữa, và khi tôi đi dọc theo một con
phố chắc có tên là Phố Mắt, một vài kí ức bị đánh cắp của tôi bắt đầu thức
tỉnh.
Đây là nơi chúng ta bắt đầu. Đây là nơi họ dồn chúng ta đến một khi hai đầu
bờ biển biến mất. Khi bom rơi. Khi bạn chúng ta chết đi và sống lại dưới một
hình thù khác, xa lạ và tàn bạo.
Đó không phải giọng của Perry - là giọng của tất cả mọi người, một dàn
đồng ca khe khẽ của tất cả những cuộc sống tôi đã nuốt trôi, giờ đang tụ tập
trong căn phòng tăm tối của tiềm thức tôi để nhớ lại.
Đại lộ Quốc Kì, nơi họ cắm quốc kì chúng ta khi các quốc gia vẫn còn tồn
tại và màu cờ vẫn còn quan trọng. Phố Súng, nơi họ dựng lên các trại chiến
tranh, lên kế hoạch tấn công và phòng vệ để chống lại những kẻ thù không ngớt
kéo tới, cả Người Sống lẫn Người Chết.
Tôi cúi gằm đầu mà đi, cố bám sát các bức tường. Khi gặp người đi theo
chiều ngược lại, tôi nhìn thẳng về phía trước cho tới phút cuối cùng, rồi mới
đưa mắt nhìn họ một cái thật nhanh để không có vẻ không giống con người. Chúng
tôi bước vội qua mặt nhau chỉ với một cái gật đầu ngượng nghịu.
Chẳng mấy chốc ngôi nhà xây bằng nền văn minh nhân loại đã bị sụp đổ. Chỉ
vài cơn gió mạnh là xong, sự cân bằng bị phá vỡ, phép màu bị hóa giải. Những
công dân tốt nhận ra ranh giới đánh dấu cuộc sống của họ chỉ là tưởng tượng và
có thể dễ dàng vượt qua. Họ có ham muốn, nhu cầu và sức mạnh để thỏa mãn chúng,
và họ đã làm vậy. Khi đèn tắt, không còn ai giả vờ nữa.
Tôi bắt đầu thấy lo lo về quần áo của mình. Tất cả những người tôi gặp đều
mặc quần bò dày màu xám, áo khoác không thấm nước, ủng lao động đầy bùn. Tôi
nào có sống trong thế giới người ta vẫn còn ăn mặc vì đẹp nữa? Nếu không ai
nhận ra tôi là Xác Sống thì họ vẫn có thể báo rằng có một tên điên rồ thích
thời trang đang lang thang trên phố với chiếc áo sơ mi ôm và cà vạt. Tôi rảo
bước nhanh hơn, cố bám theo mùi của Julie.
Đại lộ Đảo, nơi họ xây khoảng sân cho các buổi họp cộng đồng, nơi “họ” trở
thành “chúng ta”, hay ít nhất chúng ta cũng tin là vậy. Chúng ta bỏ phiếu chọn
người lãnh đạo, những người đàn ông va phụ nữ dễ mến với hàm răng trắng tinh và
cái lưỡi dẻo quẹo, và chúng ta dồn bao hi vọng cùng sợ hãi vào tay họ, dựa vào
cái bắt tay rất chắc của họ mà tin rằng những bàn tay ấy đủ khỏe. Họ làm chúng
ta thất vọng, luôn là thế. Không thể có chuyện họ không làm chúng ta thất
vọng - họ chỉ là con người, và chúng ta cũng vậy.
Tôi rẽ khỏi phố Mắt và tiến về trung tâm bàn cờ. Mùi của Julie rõ rệt hơn,
nhưng tôi vẫn chưa nhận ra được hướng cụ thể của nó. Tôi cứ mong sẽ nhận được
manh mối nào đó từ những lời nói trong đầu, nhưng những hồn ma già cỗi này
không quan tâm gì đến cuộc tìm kiếm vớ vẩn của tôi.
Phố Ngọc, nơi chúng ta đã xây trường học khi rốt cuộc chúng ta cũng chấp
nhận đây là thực tại, rằng đây là thế giới mà con cái chúng ta sẽ thừa hưởng.
Chúng ta dạy chúng cách săn bắn, cách đổ bê tông, cách giết và cách tồn tại, và
nếu chúng sống được tới lúc đó, nếu chúng nắm vững các kĩ năng đó và có thời
gian rảnh, thì chúng ta sẽ dạy chúng cách đọc và viết, cách lý luận, cách liên
hệ, cách hiểu thế giới của chúng. Mới đầu chúng ta hết sức cố gắng, chúng ta
còn nhiều hi vọng và niềm tin, nhưng cũng giống như trèo lên ngọn đồi dốc trong
mưa, nhiều người đã trượt xuống.
Tôi nhận ra bản đồ trong những kí ức này đã hơi quá đát; con phố họ gọi là
phố Ngọc đã được đổi tên. Biển tên phố mới hơn, sơn màu xanh tươi lá cây, và
thay vì một biểu tượng thì trên đó có ghi chữ. Tò mò, tôi rẽ xuống ngã tư này
và tiến về phía một căn nhà rộng bằng kim loại khác hẳn những nhà khác. Mùi của
Julie vẫn còn ở xa, nên tôi biết tôi không nên dừng lại, nhưng ánh sáng nhàn
nhạt qua các ô cửa sổ dường như đang gây một nỗi đau đớn không lời cho những
giọng nói trong tâm can tôi. Khi tôi áp mũi vào cửa kính, tiếng nói của họ liền
im bặt.
Đó là một căn phòng rộng thênh thang. Những chiếc bàn kim loại trắng xếp
thành dãy dưới những ngọn đèn neon. Mấy chục đứa trẻ, tất cả đều dưới mười
tuổi, được chia theo hàng thành từng nhóm: một hàng sửa máy phát điện, một hàng
xử lý xăng, một hàng lau súng trường, mài dao, khâu vết thương. Và ở tận cuối,
gần sát cửa sổ tôi đang nhòm qua: một hàng đang mổ tử thi. Nhưng tất nhiên
chúng không phải là tử thi. Khi một cô bé tám tuổi với hai bím tóc vàng bóc
thịt khỏi miệng vật thí nghiệm của mình để lộ một nụ cười méo mó bên dưới, mắt
vật này bật mở và nó nhìn quanh, hơi cựa quậy dưới những dây trói, rồi lại thả
lỏng người với vẻ mệt mỏi và chán chường. Nó nhìn về phía cửa sổ của tôi và mắt
chúng tôi giao nhau ra chốc lát, trước khi cô bé cắt mắt nó ra.
Chúng ta đã cố tạo ra một thế giới tươi đẹp ở nơi này, những giọng nói thì thầm. Có
những người coi sự tận thế là cơ hội bắt đầu lại từ đầu, để xóa hết mọi sai lầm
của lịch sử - để sống lại thời niên thiếu vụng dại của nhân loại với sự
thông thái của thời hiện đại. Nhưng tất cả đã xảy ra quá nhanh.
Tôi nghe thấy có tiếng xô xát mạnh từ đầu bên kia tòa nhà, tiếng giày quẹt
lên nền xi măng, khuỷu tay thúc vào tấm kim loại. Có tiếng gầm gừ trầm trầm,
khàn đục. Tôi đi ngang qua tòa nhà, tìm chỗ nhìn tốt hơn.
Bên ngoài những bức tường của chúng ta là hàng đoàn người và quỷ dữ chỉ
hòng cướp đi những gì chúng ta có, và trong này là món hổ lốn điên loạn của
riêng chúng ta, bao nhiêu nền văn hóa và ngôn ngữ và những giá trị không thích
hợp bị nén vào một cái hộp nhỏ xíu. Thế giới của chúng ta quá nhỏ bé để chúng
ta có thể chia sẻ nó một cách bình yên; không ai nhất trí, không thể có được sự
hòa thuận. Vì vậy chúng ta đã thay đổi mục tiêu của mình.
Qua một ô cửa sổ khác, tôi thấy một khoảng trống rộng ngang cái nhà kho, lờ
mờ sáng, khắp nơi đầy xe hỏng và những mẩu vụn gạch đá như muốn dựng lại cảnh
thành phố bên ngoài. Một đám trẻ con lớn hơn vây quanh một bãi quây bằng dây
thép và những tấm chắn đường bằng bê tông. Trông nó giống như “khu tự do ngôn
luận” thường được dùng để ngăn người biểu tình bên ngoài các cuộc hội họp chính
trị, nhưng thay vì tập trung đầy người chống đối đang cầm biển thì trong đó lại
chỉ có bốn người: một thằng bé trang bị từ đầu đến chân bằng áo giáp cảnh sát,
và ba Người Chết đã khô quắt lại.
Những bác sĩ thời Trung cổ có thể bị chê trách vì phương pháp của họ không?
Những trò chích máu, dùng đỉa, hay khoan lỗ trong sọ? Họ chỉ biết mò mẫm tìm
đường một cách mù lòa, cố nắm bắt những điều bí ẩn trong một thế giới không
khoa học, nhưng bệnh dịch đã tấn công họ, họ phải làm điều gì đó. Khi đến lượt
chúng ta thì cũng chẳng có gì khác. Bất kể mọi kĩ thuật và sự khai sáng của
chúng ta, bất kể những dao mổ laser và dịch vụ xã hội, cũng chẳng có gì
khác. Chúng ta cũng mù lòa như vậy và cũng tuyệt vọng như vậy.
Cứ nhìn dáng đi lảo đảo của họ là tôi biết những Người Chết trong đấu
trường này đang chết đói. Chắc hẳn họ phải biết mình đang ở đâu và chuyện
gì sẽ xảy ra với họ, nhưng họ không còn lại chút tự chủ ít ỏi nào nữa. Họ lao
vào thằng bé và nó giơ khẩu súng lên ngắm bắn.
Thế giới bên ngoài đã chìm trong biển máu, và giờ những ngọn sóng đỏ ngầu
ấy đang phả vào thành trì cuối cùng của chúng ta - chúng ta phải chống trụ
lại tường thành. Chúng ta nhận ra rằng sự thật khách quan nhất chúng ta có thể
đạt được là dựa vào niềm tin của số đông, vì vậy chúng ta có thể chọn số đông
và lờ đi những giọng nói khác. Chúng ta bổ nhiệm các vị tướng và các chủ thầu,
cảnh sát và kĩ sư, chúng ta loại bỏ hết những vật trang trí không cần thiết
khác. Chúng ta nấu chảy lí tưởng của mình trong hơi nóng và áp suất khủng khiếp
cho đến khi những phần mềm yếu cháy hết, và những gì còn lại là một khung cứng
đã được tôi luyện đủ để gánh chịu thế giới chúng ta đã tạo ra.
“Sai rồi!” Thầy giáo quát thằng bé trong đấu trường khi nó nhắm súng vào
đám Người Chết đang tiến đên làm ngực họ thủng lỗ chỗ và bắn bay ngón tay ngón
chân họ. “Bắn vào đầu, quên những phần khác đi!” Thằng bé bắn thêm hai phát nữa
nhưng trượt hẳn vào trần nhà bằng gỗ nặng. Xác Sống nhanh nhất túm lấy tay nó
và giật khẩu súng ra, loay hoay với cái chốt an toàn một lát, rồi ném khẩu súng
sang bên và xô thằng bé vào hàng rào, nhe răng cắn mạnh vào tấm chắn mặt trên
mũ bảo hiểm của nó. Thầy giáo lao vào đấu trường, ấn một khâu súng lục vào đầu
Xác Sống ấy, bắn một phát, rồi lại tra súng vào bao. “Phải nhớ,” ông ta nói với
toàn thể phòng học, “súng trường tự động khi bắn sẽ bị giật lại làm nòng súng
bật lên, đặc biệt là ở những khẩu Mossberg cũ này, vì vậy phải nhắm bắn thấp,
nếu không các em sẽ bắn lên trời đấy.” Ông ta nhặt khẩu súng lên và dúi vào bàn
tay run rẩy của thằng bé. “Tiếp tục.”
Thằng bé ngần ngừ, rồi nhấc khẩu súng lên và bắn hai phát. Máu me đen sì
bắn đầy tấm chắn mặt nó. Nó giật chiếc mũ bảo hiểm ra và nhìn hai xác chết dưới
chân mình, thở hổn hển, cố không òa khóc.
“Tốt,” thầy giáo nói. “Tuyệt lắm, ai tiếp theo nào?”
Chúng ta biết việc này là sai trái. Chúng ta biết chúng ta đang hạ thấp
mình theo những cách chúng ta còn không thể đặt tên nổi, và đôi khi chúng ta
khóc than cho kỉ niệm về những ngày tốt đẹp hơn, nhưng chúng ta không còn thấy
được sự lựa chọn nào khác. Chúng ta chỉ biết cố gắng hết sức để sống sót. Phương
trình ở cốt lõi vấn đề của chúng ta quá rắc rối, và chúng ta quá kiệt sức để
tìm lời giải.
Tiếng khụt khịt dưới chân cuối cùng cũng bứt tôi ra khỏi cảnh tượng sau cửa
sổ. Tôi cúi xuống và thấy một chú cún Bec-giê đang phồng mũi đánh hơi chân tôi.
Nó ngẩng lên nhìn tôi. Tôi nhìn xuống nó. Nó thích thú thở hồng hộc rồi bắt đầu
gặm chân tôi.
“Trina, không!”
Một chú bé chạy đến túm lấy vòng cổ con chó, giật nó ra khỏi tôi và kéo nó
về ô cửa mở của một ngôi nhà. “Chó hư.”
Trina quay lại nhìn tôi vẻ thèm thuồng.
“Xin lỗi anh!” Chú bé gọi với lại từ bên kia đường.
Tôi đưa tay vẫy nó một cái như muốn nói, không sao.
Một cô bé xuất hiện ở ngưỡng cửa đứng cạnh chú bé, bụng phưỡn ra, cặp mắt
sẫm màu ngắm tôi chăm chú. Tóc cô bé đen nhánh, còn tóc chú bé lại vàng và xoăn
tít. Cả hai đứa đều khoảng sáu tuổi.
“Anh đừng mách mẹ bọn em nhé?” Cô bé hỏi.
Tôi lắc đầu, cố nuốt trôi một luồng cảm xúc đột nhiên trào lên trong lòng.
Giọng nói của hai đứa trẻ này, cách diễn đạt hoàn hảo đầy trẻ con của chúng...
“Các em có... biết Julie không?” Tôi hỏi chúng.
“Julie Cabernet ấy ạ?” Chú bé hỏi lại.
“Julie Gri...gio.”
“Bọn em quý chị Julie Cabernet lắm. Thứ tư nào chị ấy cũng đọc cho bọn em
nghe.”
“Đọc truyện.” Cô bé thêm vào.
Tôi không nhận ra cái tên này, nhưng nó đã khuấy động một chút kí ức nào
đó. “Em có biết... chị ấy ở... đâu không?”
“Phố Hoa Cúc.” Chú bé trả lời.
“Không, phố Hoa chứ! Đấy là bông hoa.”
“Hoa cúc là bông hoa mà.”
“Ồ.”
“Chị ấy sống ở góc phố. Giao giữa phố Hoa Cúc và đại lộ Quỷ.”
“Đại lộ Bò chứ.”
“Đấy không phải con bò, đấy là Quỷ. Cả bò lẫn quỷ đều có sừng.”
“Ồ.”
“Cảm ơn,” tôi nói với bọn trẻ và quay lưng đi.
“Anh có phải là Xác Sống không?” Cô bé bẽn lẽn khẽ hỏi.
Tôi sững sờ. Cô bé đợi tôi trả lời, gót chân xoay xoay sang phải rồi sang
trái. Tôi thả lỏng người, mỉm cười với cô bé và nhún vai. “Julie... không nghĩ
vậy.”
Một giọng giận dữ từ tầng năm hét vọng xuống nói gì đó nào là về lệnh giới
nghiêm, nào là đóng cửa lại và không được nói chuyện với người lạ, nên tôi vẫy
tay chào hai đứa trẻ rồi đi về phía Hoa Cúc và Quỷ. Mặt trời đã lặn và bầu trời
có màu gỉ sắt. Một chiếc loa ở đâu đó phát ra một loạt con số, và những ô cửa
sổ quanh tôi tối sầm lại. Tôi tháo lỏng cà vạt ra và bắt đầu chạy.