Việt Sử Giai Thoại (Tập 1) - Chương 07 - 08
07 - TÔI KỂ, NGÀY XƯA...CHUYỆN
MỴ CHÂU
Xin
được mượn một câu thơ của Tố Hữu làm tiêu đề cho giai thoại này - giai thoại
gắn liền với tên tuổi của một nhân vật đặc biệt: Mỵ Châu!
Mỵ
Châu là con gái của An Dương Vương. Khi cô lớn lên cũng là khi Triệu Đà (vua
của nước Nam Việt, một vương quốc nằm sát biên giới phía Bắc nước ta) đang ráo
riết thực hiện mưu đồ bành trướng xuống phươngNam. Quân của Triệu Đà đã
bao phen tiến đánh đến tận Tiên Du (nay thuộc Bắc Ninh), uy hiếp mạnh mẽ đối
với cả kinh thành Cổ Loa, nhưng, tất cả những cuộc tấn công ấy đều bị đẩy lùi.
SáchĐại Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ, quyển 1 từ tờ 9a đến
tờ 10-b) chép rằng:
“(Triệu)
Đà biết Nhà vua có nỏ thần, không thể nào địch nổi, bèn cho quân lui giữ Vũ
Ninh (tỉnh Bắc Ninh ngày nay - NKT) rồi sai sứ đến xin giảng hòa. Nhà vua mừng
lắm, bèn chia đất từ Bình Giang, tức là vùng sông Thiên Đức, huyện Đông Ngàn
(nay thuộc tỉnh Bắc Ninh - NKT) trở lên phía Bắc thì giao cho (Triệu) Đà cai
quản, từ đó trở vềNamthì do Nhà vua cai quản.
(Triệu)
Đà sai con trai của mình là Trọng Thủy, vào hầu cận Nhà vua, rồi xin cưới con
gái của Nhà vua là Mỵ Châu. Vua bằng lòng. Trọng Thủy nhân đó dỗ dành Mỵ Châu,
xin xem trộm nỏ thần (của Nhà vua). Hắn ngầm bẻ gẫy lẫy nỏ, làm cái lẫy giả
thay vào, xong, lấy cớ về Bắc thăm nhà (để mật báo mọi sự). Trước khi đi (Trọng
Thủy) nói với Mỵ Châu rằng:
-
Ơn nghĩa vợ chồng chẳng thể nào quên, sau này nếu chẳng may hai nước bất hòa,
Nam Bắc cách biệt, mà ta lại tới đây thì làm sao có thể tìm thấy nàng?
Mỵ
Châu nói:
-
Thiếp có cái áo kết bằng lông ngỗng, đi đâu cũng thường mang theo mình. Vậy,
thiếp sẽ rút lông ngỗng rắc xuống đường để làm dấu.
Trọng
Thủy về mật báo cho Triệu Đà hay".
Ngay
sau đó, Triệu Đà đem quân đánh An Dương Vương. Sách trên chép tiếp:
“(Triệu)
Đà đem quân đến đánh Nhà vua. Vua không biết là lẫy nỏ đã mất, cho nên, cứ vừa
ngồi đánh cờ, vừa cười mà nói rằng:
-
(Triệu) Đà không sợ nỏ thần của ta hay sao?
Khi
quân của Triệu Đà tiến sát đến nơi. Nhà vua mới giương nỏ bắn và bấy giờ mới
hay là lẫy nỏ đã gẫy rồi. Nhà vua thua chạy, cho Mỵ Châu cùng ngồi chung ngựa
mà đi mãi về phíaNam. Trọng Thủy cứ theo dấu lông ngỗng đuổi theo. Nhà
vua chạy đến biển, hết đường mà thuyền chẳng có, liền cất tiếng gọi thần Kim
Quy:
-
Hãy mau đến cứu ta!
Thần
Kim Quy nổi lên mặt nước, mắng rằng:
-
Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy, sao không giết ngay đi!
Nhà
vua rút gươm chém Mỵ Châu. Mỵ Châu liền khấn vái rằng:
-
Ta trọn tiết trung tín, chẳng dè bị người đánh lừa, vậy, sau khi chết, xin được
hóa thành ngọc châu để rửa mối nhục này.
Nhà
vua chém Mỵ Châu, máu chảy loang khắp mặt nước, loài trai dưới biển nuốt vào
bụng, máu ấy hóa thành hạt minh châu. Nhà vua cầm sừng tê văn dài bảy tấc mà đi
xuống biển, đại để cũng như nói cầm sừng tê đi xuống nước. Tục truyền rằng, núi
Dạ Sơn, xã Cao Xá ở Diễn Châu (nay thuộc tỉnh Nghệ An - NKT) chính là nơi Nhà
vua giết My Châu rồi đi xuống biển.
Trọng
Thủy đuổi đến nơi, thấy Mỵ Châu đã chết, thương khóc hồi lâu rồi đem xác về
chôn ở Loa Thành. Trọng Thủy nhớ tiếc Mỵ Châu, trở lại nơi Mỵ Châu trước kia
thường hay trang điểm rồi nhảy xuống giếng mà chết. Người đời sau hễ được hạt
minh châu ở ngoài biển Đông, nếu đem đến lấy nước giếng ấy mà rửa, thì sắc ngọc
sẽ sáng hơn".
Lời bàn:Trong
mọi lỗi lầm, nhẹ dạ cả tin là lỗi lầm cần được tha thứ hơn cả. Bạn có quyền
trách An Dương Vương, trách Mỵ Châu, rằng sao mà nỡ nhẹ dạ cả tin đến thế.
Nhưng bạn hỡi, nếu một nhà mà cha chẳng tin con, vợ chẳng tin chồng, tất cả sẽ
rẻ rúng làm sao!
Sau
lỗi lầm của An Dương Vương, tổ tiên ta phải trả giá bằng cuộc chiến đấu trường
kì, gian khổ và quyết liệt hơn một ngàn năm, nhưng trong mọi trái tim nhân hậu,
An Dương Vương- người có công dựng nên quốc gia Âu Lạc, dựng nên kinh thành Cổ
Loa - vẫn mãi mãi được tôn kính. Ngàn năm còn đó, những đền thờ An Dương Vương.
Ban
nghĩ gì về Mỵ Châu? Phận làm con và làm dân, nàng không trọn đạo, và cái chết
đã nói thay nàng. Nhưng, phận làm vợ giữ đức thủy chung thì tiết hạnh của nàng
quả là sáng như hạt minh châu dưới biển. Bất giác nghĩ về nàng. Có bao giờ bạn
bỗng nhớ tới những vần thơ sau đây của Tố Hữu không:
Tôi
kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái
tim lầm lỡ để trên đầu.
Nỏ
thần vô ý trao tay giặc,
Nên
nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
08 -TRIỆU ĐÀ LÀ NGƯỜI NHƯ
THẾ NÀO?
Nhân
cơ hội sụp đổ của nhà Tần, Triệu Đà đã nhanh chóng tạo lập ra quốc gia Nam
Việt, quyết hùng cứ một phương. Sau, nhân sự mơ hồ và mất cảnh giác của An
Dương Vương, Triệu Đà đã đánh chiếm được Âu Lạc. Thế là chỉ trong vòng chưa đầy
ba mươi năm (từ năm 206 tr.CN đến năm 179 tr.CN), Triệu Đà trở thành kẻ đứng
đầu một quốc gia khá lớn, vui thênh thang với một cõi của mình. Nhưng, chừng đó
chưa đủ để có thể nhận diện chính xác về Triệu Đà.
Suốt
một đời, nỗi bận tâm lớn nhất của Triệu Đà chính là sự hùng mạnh không ngừng
của nhà Tây Hán hay còn gọi là nhà Tiền Hán ở đất trung nguyên Trung Quốc. Với
nhà Tây Hán, Triệu Đà là người như thế nào? SáchĐại Việt sử kí toàn
thư(ngoại kỉ, quyển 2, tờ 2a và 2b) chép rằng:
“Bấy
giờ, nhà Hán đã định được thiên hạ, nghe tin Nhà vua (chỉ Triệu Đà - NKT) cũng
xưng vương ở nước Việt, bèn sai Lục Giả sang phong Vua làm Nam Việt Vương, trao
cho Vua quả ấn và dây thao, lại trao cho cả cái phẫu phù bổ đôi làm tin, khuyên
Vua nên thông sứ với nhau và bảo Vua hãy giữ yên đất Bách Việt, chớ có cướp
phá. Lục Giả đến, Nhà vua cứ ngồi chồm hổm mà tiếp. (Lục) Giả nói:
-
Vương vốn là người Hán, họ hàng thân thuộc và mồ mả hiện đều ở nhà Hán, thế mà
nay lại làm trái với tục của nước mình, muốn chiếm đất này để đối nghịch với
nhà Hán, há chẳng phải là lầm lẫn hay sao? Vả chăng, nhà Tần mất hươu, cả thiên
hạ thi nhau đuổi, chỉ riêng Hán Đế khoan nhân, cho nên, ai cũng vui theo, khởi
binh từ đất Bái, đất Phong mà vào Quan Trung để gấp chiếm Hàm Dương, dẹp trừ
quân hung bạo. Chỉ trong khoảng năm năm mà loạn lạc đều yên, bốn biển được yên
lặng, sức người nhất quyết không thể làm nổi, ấy là nhờ trời đó thôi. Nay Hán
Đế nghe tin Vương làm vua ở đất này, lòng đã từng muốn quyết đánh một phen cho
rõ được thua, nhưng vì dân vừa trải cơn lao khổ nên đành phải tạm thôi. Giờ
đây, Hán Đế sai sứ sang trao ấn và dây thao cho Vương, lẽ ra, Vương phải ra tận
ngoài thành nghênh đón, bái yết để tỏ lòng tôn kính (Hán Đế), thế mà Vương đã
không làm, vậy, chỉ còn cách sửa lễ để tiếp sứ giả, cớ gì cậy dân Bách Việt
đông để coi thường sứ giả của Thiên tử? Nếu Thiên tử mà biết được, khởi binh
sang đánh thì Vương sẽ tính sao?
Vua
làm ra vẻ sợ hãi, đứng dậy nói:
-
Tôi ở đất này lâu ngày, thành ra quên hết cả lễ nghĩa.
Nhân
đó, Vua hỏi Lục Giả rằng:
-
Tôi với Tiêu Hà và Tào Tham, ai hơn?
Lục
Giả đáp:
-
Vương hơn chứ.
Vua
hỏi tiếp:
-
Thế tôi với Hán Đế, ai hơn?
Lục
Giả nói:
-
Hán Đế nối nghiệp của Tam Hoàng và Ngũ Đế, thống trị dân Hán có đến cả ức vạn
người, đất rộng hàng muôn dặm, của nhiều, người đông, thế mà quyền bính chỉ nằm
trong tay một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay, dân của
Vương chẳng qua mươi vạn ở xen giữa núi và biển, bất quá cũng chỉ như một quận
của nhà Hán. Vương ví với Hán thế nào được?
Nhà
vua cười và nói rằng:
-
Tôi lấy làm giận là đã không được dấy lên ở phía ấy, biết đâu tôi lại chẳng như
nhà Hán bây giờ?
Lục
Giả ngồi im lặng, mặt có vẻ rất buồn. Nhà vua bèn giữ Lục Giả lại đến vài
tháng. Vua nói:
-
Ở đất Việt này, không ai ngang tài để tôi có thể nói chuyện được. Nay ông đến
đây, hàng ngày tôi được nghe những điều chưa từng nghe.
Nhà
vua cho Lục Giả các thứ châu báu đáng giá ngàn vàng để làm của riêng, đến khi
Lục Giả về, lại còn cho thêm nghìn vàng nữa".
Lời bàn:Mới
dựng được bờ cõi riêng, lúc đầu, hẳn nhiên là Triệu Đà nghênh ngang tự đắc, tự
cho mình quyền... ngồi chồm hổm mà tiếp sứ, tự ví mình với Tiêu Hà, Tào Tham và
cả Hán Đế nữa. Nhưng, cũng vì mới tạo dựng được bờ cõi riêng. Triệu Đà luôn
phải canh cánh nỗi lo gìn giữ cơ nghiệp của mình. Lời của Triệu Đà và cử chỉ
của Triệu Đà đã tỏ rõ như vậy. Tiếc thay, Lục Giả hình như chỉ thuộc được mấy
câu nằm lòng, không đủ tài để ứng phó trước sự thay đổi thái độ của Triệu Đà.
Mới hay, chọn sứ giả không dễ một chút nào.
Việc
Lục Giả ngồi im lặng, mặt có vẻ rất buồn đã khiến cho Triệu Đà khôn ngoan nhún
nhường, cố giữ và cố tìm cách khai thác mọi nguồn tin từ Lục Giả. Và Triệu Đà
quả đã nghe được những điều chưa từng nghe. Cho nên, Triệu Đà hậu hĩ với Lục
Giả mà có lỗ lã gì đâu. Ôi, khiếp thay, Triệu Đà!