Việt Sử Giai Thoại (Tập 1) - Chương 09 - 10
09 - NHÀ HÁN VÀ NGÓN ĐÒN
CUỐI ĐỐI VỚI TRIỆU ĐÀ
Năm
206 tr.CN, ở vùng trung nguyên của Trung Quốc, Lưu Bang lập ra nhà Tiền Hán và
xưng đế, đó là Hán Cao Tố. Hán Cao Tổ ở ngôi được mười hai năm thì qua đời, con
là Thái tử Lưu Dinh được lên nối ngôi, đó là Hán Huệ Đế. Hán Huệ Đế là vua nhu
nhược, bởi vậy, mọi quyền bính của triều đình đều nằm trong tay bà Lữ Hậu. Bảy
năm sau, Hán Huệ Đế mất, bà Lữ Hậu đưa Thiếu Đế lên ngôi. Nhưng, Hán Thiếu Đế
cũng chỉ ngồi trên ngai vàng được bốn năm thì bị bà Lữ Hậu phế truất để đưa Lưu
Hoằng lên ngôi. Tóm lại, nội bộ triều đình nhà Hán liên tục khủng hoảng và xung
đột. Năm 180 tr.CN, Lữ Hậu mất, cuộc khủng hoảng và xung đột trong nội bộ triều
đình nhà Hán mới tạm dứt. Bấy giờ, Lưu Hoằng được đưa lên ngôi Hoàng đế, đó là
Hán Văn Đế.
Hán
Văn Đế vừa lên ngôi đã lo sửa sang chính sự, trong thì lo cố kết nhân tâm,
ngoài thì lo trấn áp lân bang. Một trong những mối bận tâm của Hán Văn Đế chính
là Triệu Đà. Tuy nhiên, vì lúc này Triệu Đà đã già, khí lực và ý chí chẳng còn
mạnh mẽ như xưa nữa, bởi vậy, Hán Văn Đế quyết định dùng ngón đòn tinh thần
hiểm hóc của mình. SáchĐại Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ,
quyển 2, từ tờ 4a đến tờ 6a) chép như sau:
"Hoàng
đế của nhà Hán nhân thấy mồ mả tổ tiên của Nhà vua (chỉ Triệu Đà - NKT) đều ở
Chân Định, bèn đặt ra chức Thủ ấp và sai trông coi, hàng năm lo cúng tế, lại
cho gọi các anh em của Nhà vua ra cho làm quan to, ban cho các thứ rất hậu.
Xong, Hoàng đế nhà Hán hỏi Tể tướng Trần Bình rằng có thể cử ai đi sứ sang Nam
Việt được. Trần Bình nói:
-
Thời Tiên Đế (chỉ thời Hán Cao Tổ - NKT), Lục Giả từng đi sứ sang Nam Việt.
Hoàng
đế nhà Hán gọi (Lục) Giả đến, cho làm Thái trung Đại phu, lại chọn một người
nữa cho làm Phó sứ, gọi là Yết Giả, đem thư sang cho Vua. Thư ấy nói rằng: Kính
thăm người lao tâm khổ tứ là Nam Việt Vương. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế (tức
Hán Cao Tổ - NKT), từng bị đuổi ra ngoài làm phiên vương ở đất Đại vì đường sá
xa xôi, lại cũng vì kiến thức hẹp hòi, quê kệch, cho nên chưa từng viết thư.
Khi Cao Đế phải lìa bỏ bầy tôi, rồi Huệ Đế cũng qua đời, Cao Hậu (tức Lữ Hậu -
NKT) tự mình trông coi việc nước nhưng cũng không may mà mang bệnh nên người họ
Lữ đã làm việc chuyên quyền sai trái. Bởi một mình không thể chống đỡ, Lữ Hậu
đã lấy người khác họ lên nối nghiệp Huệ Đế. May nhờ anh linh tông miếu tổ tiên
và sức lực của quần thần, tất cả bọn ấy đều đã bị giết hết. Trẫm vì các bậc
vương hầu và quan lại không cho chối từ nên không thể không nhận (lên ngôi
Hoàng đế). Nay, mọi việc đã xong xuôi. Mới rồi, nghe tin Vương có gửi thư cho
tướng Lâm Lư Hầu, tỏ ý muốn tìm anh em thân thích và xin bãi chức hai tướng ở
Trường Sa. Theo đó, trẫm đã bãi chức của tướng Dương Bác Hầu, còn như người
thân của Vương ở Chân Định thì trẫm đã sai người đến thăm hỏi, đồng thời, sai
sửa sang phần mộ của tổ tiên Vương. Trước đây, trẫm nghe tin Vương đem quân đi
đánh ở biên giới, cướp phá mãi. Việc ấy khiến cho dân Trường Sa mà đặc biệt là
dân Nam Quận rất cực khổ, như thế, liệu dân nước của Vương có thể yên hưởng lợi
riêng được chăng? Vương làm như thế, tất nhiên sẽ khiến cho nhiều quân lính bị
chết, nhiều tướng giỏi bị hại, bao kẻ vợ góa con côi, bao nhà mất con, lợi một
mà hại mười, trẫm thấy thật không nỡ. Nay, trẫm muốn chia đất phong cấp xen kẽ
để các chư hầu chế ngự lẫn nhau, bèn đem việc ra hỏi thì các quan đều nói: Cao
Đế sở dĩ lấy Trường Sa làm địa giới, vì sau Trường Sa là đất của Vương, không
nên tự ý thay đổi. Nếu trẫm có lấy thêm được đất của Vương thì nước cũng không
vì thế mà lớn, lấy được của cải của Vương thì nước cũng chẳng nhờ đó mà giàu,
cho nên, cõi đất từ Ngũ Lĩnh trở về Nam, Vương cứ việc cai trị. Nhưng, Vương
xưng Đế thì nếu có hai Đế mà không thông hiếu, tất sẽ tranh nhau. Tranh mà không
biết nhường thì bậc nhân đức quyết không làm. Trẫm nguyện cùng Vương xóa bỏ
hiềm thù để cùng nhau thông hiếu, bởi vậy, sai Lục Giả đưa tờ dụ sang để nói rõ
ý riêng của trẫm. Vương nên nghe theo, chớ làm việc cướp phá nữa. Nhân đây,
trẫm gởi biếu Vương năm mươi chiếc áo bông thượng hạng, ba mươi chiếc áo bông
trung hạng, hai mươi chiếc áo bông hạ hạng. Mong Vương hãy nghe nhạc giải buồn
mà thăm hỏi nước láng giềng.
Khi
Lục Giả đến, Nhà vua tạ lỗi, nói rằng:
-
Xin kính vâng theo chiếu chỉ, làm phiên vương, giữ mãi lệ đi nạp cống phẩm.
Sau
đó, Vua hạ chiếu nói rằng: Trẫm nghe, hai người hùng không đứng cạnh nhau, hai
người hiền không sống cùng đời. Hoàng đế nhà Hán là đấng Thiên tử hiền tài, cho
nên, từ nay ta tự hủy bỏ hết các thứ xe mui vàng và cờ tả đạo vốn là những nghi
lễ chỉ dành riêng cho Hoàng đế mà thôi.
Rồi
nhân đó, Nhà vua gửi thư (cho Hoàng đế nhà Hán) nói rằng: Man di Đại trưởng lão
phu, bề tôi là (Triệu) Đà, tội đáng phải chết, lạy hai lạy, mạo muội dâng thư
lên Hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là quan lại cũ ở đất Việt. Cao Đế từng ban cho
Lão phu quả ấn và dây thao, lại phong cho làm Nam Việt Vương. Huệ Đế lên ngôi,
vì nghĩa mà không nỡ tuyệt giao nên cũng ban cho Lão phu các thứ rất hậu. Cao
Hậu coi việc nước, có ý phân biệt Hoa - Di, ra lệnh không bán cho Nam Việt
những công cụ làm ruộng bằng sắt và bằng đồng, các loài ngựa, trâu và dê cũng
chỉ bán cho con đực, không bán con cái. Lão phu ở nơi hẻo lánh, các loài ngựa,
trâu và dê đều đã già. Thiết nghĩ, nếu không sắm sửa lễ vật cúng tế thì tội thật
đáng chết, cho nên, (Lão phu) đã sai quan Nội sử là Phan, quan Trung úy là Cao,
quan Ngự sử là Bình, cả ba cùng dâng thư tạ lỗi, nhưng không được hồi đáp. Đã
thế lại nghe đồn rằng, phần mộ cha mẹ của Lão phu thì bị đập phá, thân nhân của
Lão phu thì đều bị giết, cho nên, bọn lại thuộc của thần mới bàn nhau rằng: bên
trong chẳng có gì để xử với nhà Hán, bên ngoài chẳng có gì để cao ngạo với nhà
Ngô, bèn đổi hiệu xưng đế, đó chẳng qua cũng chỉ là để làm Hoàng đế của chính
nước mình, không hề có ý làm hại thiên hạ. Lúc ấy, Cao Hậu nghe tin thì cả
giận, tước bỏ hết sổ sách của Nam Việt, khiến cho không được thông sứ với nhau.
Lão phu trộm ngờ rằng, vì Trường Sa Vương gièm pha, cho nên mới đem quân đến
biên giới để đánh. Lão phu ở đất Việt đã bốn mươi chín năm, nay đã đến tuổi
được ẵm cháu, nhưng vẫn phải thức khuya dậy sớm, ăn không ngon, ngủ không yên,
mắt không nhìn sắc đẹp, tai không màng trống chiêng, tất cả chỉ vì không được
làm tôi nhà Hán đó thôi. Nay bệ hạ có lòng thương đến, cho Lão phu được dùng hiệu
cũ, hai bên thông sứ như xưa, thì Lão phu dẫu chết, xương cũng không nát được.
Vậy, (Lão phu) xin đổi tước hiệu, không dám xưng đế nữa, đồng thời, kính cẩn
sai sứ giả dâng lên Hoàng đế: một đôi ngọc bích màu trắng, một ngàn bộ lông
chim trả, mười sừng tê, năm trăm vỏ ốc màu tía, một giỏ cà cuống, bốn chục đôi
chim trả sống, hai đôi chim công. Lão phu mạo muội liều chết, lạy hai lạy, xin
dâng lên Hoàng đế bệ hạ".
Lời bàn:Con
ngựa già đến đây đã chồn chân. Một dũng tướng Triệu Đà dày dạn kinh nghiệm trận
mạc và mưu lược hơn người, đến đây không còn nữa. Một Hoàng đế Triệu Đà đầy
tham vọng hùng cứ một phương, đến đây cũng không còn nữa. Hán Văn Đế thừa thông
minh để hiểu rằng, lúc ấy, mọi biện pháp khác dẫu thành công thì hiệu quả cũng
chẳng cao bằng mấy lời nửa răn đe, nửa dịu ngọt như đã kể ở trên.
Cũng
là Triệu Đà, cũng là Lục Giả, hai con người cũ trong cuộc tương kiến này lại
khác hẳn. Lục Giả lão luyện hơn hẳn trước hay sao? Thật khó có thể nói như vây,
nhưng, chuyện vua Nam Việt là Triệu Đà đã tỏ ra quá mệt mỏi thì khỏi bàn cũng
rõ.
Một
khi Triệu Đà không còn đáng sợ nữa, thì việc nhà Hán thôn tính Nam Việt nào có
khó gì? Vấn đề còn lại chỉ là thời gian nữa mà thôi. Kẻ quỷ quyệt không bao giờ
chỉ quỷ quyệt có một lần. Và sau những lần quỷ quyệt ấy là muôn lần khốn khổ
của dân.
10 - CÙ THỊ LÀ CÙ THỊ ƠI!
Cù
Thị (nghĩa là người con gái họ Cù) vốn quê ở Hàm Đan (Trung Quốc). Khi chưa lấy
chồng, Cù Thị đã từng thông dâm với một viên quan nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý.
Thời
Triệu Văn Vương (vua thứ hai của Nam Việt, húy là Hồ, cháu của Triệu Đà), để
tiếp nối việc gìn giữ hòa khí với nhà Hán, Triệu Văn Vương đã cho con là thái
tử Anh Tề sang làm con tin, nhân đó, Triệu Anh Tề đã kết hôn với Cù Thị.
Triệu
Văn Vương mất, Anh Tề được về nối ngôi, đó là Triệu Minh Vương. Cù Thị hiển
nhiên trở thành Hoàng hậu của Nam Việt. Triệu Minh Vương ở ngôi được mười hai
năm thì mất, con là Triệu Hưng được đưa lên ngôi, đó là Triệu Ai Vương. Cù Thị
là Thái hậu của vua Nam Việt.
Nhận
thấy cơ hội thôn tính Nam Việt xuất hiện ngày một rõ ràng, nhà Hán lập tức cử
sứ giả sang. Và, sứ giả lần này lại chính là An Quốc Thiếu Quý, tình nhân cũ
của Cù thái hậu, người mà xuân sắc xem ra vẫn còn khá mặn mòi. Phái bộ sứ giả
do An Quốc Thiếu Quý cầm đầu khá đông, ngoài ra lại còn có cả một đạo quân lớn
do quan Vệ úy là Lộ Bác Đức đóng ở Quế Dương để yểm trợ từ xa. Hành vi của An
Quốc Thiếu Quý và Cù Thị đã được sáchĐại Việt sửkí toàn
thư(ngoại kỉ, quyển 2, từ tờ 13-a đến tờ 15-b) chép lại như sau:
“Xưa
kia, khi chưa lấy Minh Vương, thái hậu (chỉ Cù Thị) đã từng thông dâm với một
người quê ở Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý. An Quốc là họ, Thiếu Quý là tên. Đến
đây nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ Thái hậu vào chầu, tương tự như các
chư hầu trong nội hạt của nhà Hán. Nhà Hán lại sai bọn biện sĩ, Gián nghị đại
phu là Chung Quân đi tuyên dụ, bọn dũng sĩ là Ngụy Thần theo giúp việc. Ngoài
ra, còn cho quan Vệ úy là Lộ Bác Đức đem quân đóng ở Quế Dương để đợi sứ giả.
Bấy
giờ, vua còn nhỏ tuổi mà Cù Thái hậu là người Hán, cho nên, An Quốc Thiếu Quý
lại thông dâm. Người trong nước biết được, phần lớn không ai chịu theo Thái
hậu. Thái hậu sợ có biến loạn, bèn dựa uy của nhà Hán, nhiều lần xin vua và các
quan xin nội thuộc vào nhà Hán. (Thế rồi, Thái hậu) nhờ sứ giả dâng thư, xin
được theo lệ như các chư hầu nội hạt, cứ ba năm một lần vào chầu, triệt bỏ canh
phòng ở các cửa ải (với nhà Hán). Nhà Hán bằng lòng, ban cho Vua và Thừa tướng
Lữ Gia cái ấn bằng bạc và các ấn khác dùng trong triều, lại cho được quyền tự
đặt các chức quan như Trung úy, Thái phó. Các hình phạt như cắt mũi, thích chữ
vào mặt... đều bãi bỏ. Nước dùng luật nhà Hán như các chư hầu nội hạt. Nhà Hán
cũng sai các sứ giả ở lại để lo việc vỗ về”.
…
“Vua và Thái hậu đã sửa sang lễ vật quý giá cùng các thứ hành trang để vào
chầu. Bấy giờ, Thừa tướng Lữ Gia tuổi đã cao, giữ chức này trải đã ba triều, họ
hàng thân thuộc làm trưởng lại có đến hơn bảy chục người, con trai thì lấy con
gái của vua, con gái thì gả cho con em của vua và người tôn thất, đã thế lại
còn thông gia với Tần Vương ở Thương Ngô, được lòng dân trong nước còn hơn cả
Vua. (Lữ) Gia nhiều lần dâng thư can vua nhưng vua không nghe, vì đó, có ý
chống lại, thường cáo bệnh không tiếp sứ giả nhà Hán. Các sứ giả nhà Hán đều
chú ý đến (Lữ) Gia nhưng thế chưa thể giết được. Nhà vua và Thái Hậu cũng có ý
lo sợ phe Lữ Gia khởi sự trước nên muôn nhờ sứ giả nhà Hán lập mưu giết Lữ Gia.
Nhà vua bèn mở tiệc rượu mời sứ giả cùng các đại thần đến dự. Lúc ấy, em của Lữ
Gia làm tướng, đem quân đến đóng ở phía ngoài cung. Khi tiệc rượu mới bắt đầu,
thái hậu nói với Lữ Gia rằng:
-
Nam Việt xin nội thuộc là việc có ích cho nước nhà, tại sao tướng quân lại cho
là bất tiện.
Lời
ấy cốt để chọc tức cả (Lữ Gia lẫn sứ giả). Sứ giả còn đang hồ nghi, do dự chưa
dám làm gì thì Lữ Gia nhân thấy sắc mặt mọi người có vẻ hơi khác thường, liền
đứng dậy bỏ ra ngoài. Thái hậu giận, muốn lấy giáo đâm (Lữ) Gia nhưng nhà vua
ngăn lại. (Lữ) Gia ra chia lấy quân lính của em, về nhà cáo bệnh, không chịu
gặp vua và sứ giả nữa. Từ đó, (Lữ Gia) cùng các đại thần ngầm tính chuyện làm
loạn. Nhà vua vốn không có ý giết (Lữ) Gia và (Lữ) Gia cũng biết thế, cho nên,
đến cả mấy tháng mà hai bên vẫn không động tĩnh gì. Thái hậu muốn tự mình giết
(Lữ) Gia nhưng sức lại không đương nổi. Hoàng đế nhà Hán được tin (Lữ) Gia
không tuân mệnh còn nhà vua và Thái hậu thì bị cô lập, yếu ớt đến độ không chế
ngự nổi, sứ giả thì nhút nhát, không quyết đoán được việc gì, nhưng dẫu sao thì
ý xin nội phụ của vua và thái hậu đã rõ, phe (Lữ) Gia chưa đáng phải dùng binh
mã đến để hỏi tội, bèn định dùng Trang Sâm đem hai ngàn quân sang sứ tiếp.
Trang Sâm nói rằng:
-
Lấy sự hòa hiếu mà sang thì vài người cũng đủ, còn như lấy vũ lược mà sang thì
hai ngàn người cũng chẳng làm được gì.
Nói
rồi, (Trang) Sâm từ chối không chịu nhận mệnh. Hoàng đế nhà Hán bèn bãi chức
của (Trang) Sâm. Có viên tướng coi giữ vùng phía Bắc trước đây là Hàn Thiên Thu
hăng hái nói:
-
Một nước Việt cỏn con, trong thì đã có Vương và Thái hậu làm nội ứng, nay nếu
cần trừng trị thừa tướng Lữ Gia thì tôi đây chỉ xin cấp cho ba trăm dũng sĩ,
thế nào cũng sẽ chém được đầu (Lữ) Gia đem về.
Nhà
Hán bèn sai (Hàn) Thiên Thu cùng với em của Cù thái hậu là Cù Lạc, đem hai ngàn
quân tiến vào đất Việt. Lữ Gia bèn hạ lệnh cho cả nước rằng:
-
Vua còn nhỏ tuổi, thái hậu vốn là người Hán nay lại cùng với sứ giả nhà Hán làm
chuyện dâm loạn, quyết đưa nước nhà nội phụ vào nhà Hán, đem hết mọi thứ châu
báu của tiên vương dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, bắt nhiều người đến Trường An
(kinh đô của nhà Hán) để bán cho người ta làm đầy tớ, tóm lại, chỉ nghĩ đến mối
lợi riêng, không chút xót thương gì đến xã tắc của họ Triệu, chẳng hề lo đến kế
lâu dài.
Xong,
(Lữ Gia) cùng với em đem quân đến đánh, giết vua và thái hậu cùng tất cả bọn sứ
giả nhà Hán, rồi sai người báo cho Tần Vương ở Thương Ngô cùng hết thảy các
quận, các ấp. (Lữ) Gia lập con trưởng của Minh Vương là Thuật Dương Hầu Kiến
Đức lên làm vua”.
Lời bàn:Tư
thông với An Quốc Thiếu Quý khi chưa lập gia thất, lỗi ấy của Cù Thị quả thật
khó tha, nhưng dẫu sao thì đó cũng chỉ là chuyện tư đức, hậu thế đọc sử nhiều
lắm cũng đến lắc đầu là cùng. Người ba đấng, của ba loài, trách chi mà làm gì.
Tư
thông với An Quốc Thiếu Quý lần thứ hai, việc làm của Cù Thị không đơn giản chỉ
làm đồi bại tư đức của mình nữa. Nghĩa lớn đối với nước, tình sâu đối với quần
thần, trách nhiệm đối với nhân dân... tất cả đều bị coi thường đến độ rẻ rúng.
Lữ Gia há không biết giết vua và thái hậu là điều vạn bất đắc dĩ, nhưng chẳng
qua là thế chẳng đặng đừng đó thôi.
Không
có Cù Thị thì nhà Hán cũng tìm cách khác để thực hiện cho bằng được ý đồ của
mình đối với Nam Việt, nhưng có Cù Thị, ý đồ đó được phủ đầy những hành vi
chẳng tốt đẹp một chút nào. Cù Thị là Cù Thị ơi, ở nơi chín suối, bà có biết
rằng hậu sinh oán giận những người làm hoen ố sử sách như bà. Đành rằng bà là
người Hán, cũng đành rằng những chuyện bà làm xét ra đều ở phía Bắc biên giới
hiện nay, nhưng chừng đó cũng đủ hậu sinh quay mặt với bà. Thương thay, nắm đất
cố hương của bà!