Việt Sử Giai Thoại (Tập 1) - Chương 11 - 12

11 - LUỢC TRUYỆN TRƯNG NỮ
VƯƠNG

Tất
cả sử sách của nước nhà, bất kể là cũ hay mới, bất luận là viết ở đâu, hễ có
giới thiệu về thời Bắc thuộc là thế nào cũng dành những lời trang trọng để nói
về Hai Bà Trưng - hai vị nữ anh hùng đã quả cảm phát động và lãnh đạo nhân dân
cả nước ta, vùng lên đập tan chính quyền đô hộ của nhà Đông Hán và lập nên nền
độc lập, tự chủ trong vòng gần ba năm. Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí
hiên ngang và khí phách quật cường của cả dân tộc. Nay, xin theo những đoạn ghi
chép tản mạn của sáchĐại Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ, quyển
3, từ tờ 1-b đến tờ 4a) mà dựng lại lược truyện về Hai Bà Trưng như sau:

“Thái
thú quận Giao Chỉ là Tô Định dùng chính sự tham lam tàn bạo. Trưng Nữ Vương dấy
binh để đánh” (tờ 1-b).

“Mùa
xuân, tháng hai (năm Canh Tí 40), vua khổ vì thái thú Tô Định dùng pháp luật hà
khắc để trói buộc, lại thêm thù Tô Định đã giết chết chồng của mình là Thi
Sách, bèn cùng với em là Trưng Nhị nổi binh, đánh vào trị sở của châu. Tô Định
chạy về nước. Các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều hưởng ứng,
(Trưng Nữ Vương) lấy được sáu mươi lăm thành ở Lĩnh Nam rồi tự lập làm vua” (tờ
2a và tờ 2b).

“Nhà
Hán thấy họ Trưng xưng vương lại dấy quân đánh vào các vùng biên thùy, bèn hạ
lệnh cho các nơi như Trường Sa, Hợp Phố và cả Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa
sang cầu cống, khai thông khe núi và tích chứa lương thực, đồng thời, phong cho
Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, phong cho Phù Lạc Hầu là Lưu Long làm phó
tướng, đem quân sang xâm lược” (tờ 2b).

“Mùa
xuân, tháng giêng (năm Nhâm Dần 42), Mã Viện đi men theo ven biển mà tiến vào
nước ta, san núi làm đường đến hơn một ngàn dặm, đánh nhau với vua (chỉ Trưng
Nữ Vương) ở Lãng Bạc (phía Tây của La Thành gọi là Lãng Bạc). Vua thấy thế giặc
mạnh, tự thấy quân mình ô hợp, khó có thể chống nổi, bèn lui về giữ Cấm Khê
(cũng có sách chép là Kim Khê). Quân sĩ cho vua là đàn bà, chẳng thể cầm cự
được, bèn bỏ chạy. Quốc thống từ đó lại đứt” (tờ 2b).

Lời bàn:Về
Hai Bà Trưng, xin được mượn hai lời bàn của hai sử gia tiền bối lỗi lạc là Lê
Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên thay cho lời bàn của tác giả. Cả hai lời bàn này đều có
trong sáchĐại Việt sử kí toàn thư(ngoại kỷ, quyển 3).

-Lời của Lê
Văn Hưu như sau:“Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà, vậy mà hô một tiếng,
các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng sáu mươi lăm thành ở Lĩnh Ngoại đều
nhất tề hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, xem thế cũng
đủ biết hình thế nước Việt ta có thể dựng nghiệp bá vương được. Tiếc thay,
trong khoảng hơn ngàn năm, từ sau họ Triệu (chỉ Triệu Thị Trinh) đến trước họ
Ngô (chỉ Ngô Quyền), bọn đàn ông chỉ biết cúi đầu khoanh tay làm tôi tớ cho người
phương Bắc, há chẳng là xấu hổ với hai chị em đàn bà người họ Trưng hay sao?
Ôi, như thế cũng có thể nói là tự vất bỏ mình rồi vậy” (tờ 3a).

-Lời của Ngô
Sĩ Liên như sau:“Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, liền vung tay
hô một tiếng mà khiến cho quốc thống của nước nhà có cơ hồ được khôi phục, khí
khái anh hùng đâu phải chỉ khi sống thì dựng nước xưng vương, mà còn cả ở khi
chết còn có thể ngăn chặn tai họa. Phàm gặp những tai ương hạn lụt, cầu đảo
không việc gì là không linh ứng. Cả đến Trưng Nhị cũng vậy. Ấy là vì đàn bà mà
có đức hạnh của kẻ sĩ, cho nên, khí hùng dũng ở trong khoảng trời đất chẳng vì
thân đã chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy khí phách
cương trực và chính đại đó hay sao?” (tờ 4a).

Bạn
nghĩ gì về hai lời bàn này?

12 – LỜI TÂU CỦA LÝ TIẾN,
LÝ CẦM VÀ TRƯƠNG TRỌNG

Năm
Canh Thìn (200), một sự kiện khác đặc biệt đã xảy ra ở ngay giữa triều đình nhà
Hán. Sự kiện này gắn liền với tên tuổi của hai người. Một là Lý Tiến và hai là
Lý Cầm. Lý Tiến là quan văn, được cử giữ chức Thứ sử là chức trông coi toàn bộ
các địa phương của nước ta lúc bấy giờ. Lý Cầm là quan võ bậc thấp, lúc ấy đang
làm Túc vệ là chức bảo vệ thường trực ở triều đình nhà Hán. Hai người hoàn toàn
khác nhau nhưng lại cùng họ Lý, và quan trọng hơn, cùng gắn với một sự kiện
được sáchĐại Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ, quyển 3, từ tờ 8b
đến tờ 9b) chép lại như sau:

“Thứ
sử là Lý Tiến, dâng lời tâu lên hoàng đế nhà Hán, đại lược nói rằng: Quan lại
trong khắp thiên hạ, ai chẳng là bề tôi của nhà vua. Vậy mà ngày nay, kẻ làm
quan ở triều đình đều là sĩ phu trung châu, triều đình chưa từng khuyến khích
người nào ở xa cả.

Lời
tâu của Lý Tiến viết rất cảm động, đã thế lại còn viện dẫn rất nhiều bằng chứng
xác đáng. Hoàng đế nhà Hán bèn xuống chiếu, cho phép mọi người trong châu ta,
hễ ai đỗ Hiếu liêm (tức đỗ Hương cống, Cống sĩ hay Cử nhân) hoặc đỗ Mậu tài
(tức đỗ Sinh đồ hay Tú tài) thì được bổ làm trưởng lại trong châu (tức là làm
quan ở một địa phương nào đó thuộc phạm vi của nước ta cũ) chứ không được bổ nhiệm
ở vùng trung châu. Lý Tiến lại dâng sớ nói rằng:

-
Người đỗ Hiếu liêm xin đề nghị được đối xử tương tự như Bác sĩ (tức tiến sĩ)
của mười hai châu khác, tùy tài mà dùng.

Các
quan ở Hữu ti sợ rằng người phương xa không thật thà, hay bắt bẻ, chê bai triều
đình nên không chấp thuận. Bấy giờ, có Lý Cầm là người Việt ta, làm túc vệ ở
đấy, biết chuyện, bèn rủ bọn đồng hương là Bốc Long, cả thảy năm sáu người,
nhân ngày đầu năm có lễ triều hội tiến đến quỳ lạy ở giữa sân điện mà tâu rằng:

-
Ơn huệ của hoàng đế ban ra không đều.

Các
quan ở Hữu ti hỏi:

-
Tại sao dám nói vậy?

Đáp:

-
Đất Việt ở xa, chẳng được trời che đất chở, mưa ngọt không thấm đến, gió mát
không thổi vào.

Lời
của họ có vẻ khẩn thiết, đau đớn lắm. Hoàng đế nhà Hán xuống chiếu an ủi, cho
lấy một người đỗ Mậu tài của nước ta làm huyện lệnh ở Hạ Dương, một người đỗ
Hiếu liêm của nước ta làm huyện lệnh ở Lục Hợp. Sau, Lý Cầm cũng được làm quan
tới chức Tư lệ hiệu úy. Sau nữa, có Trương Trọng được làm chức thái thú ở Kim
Thành. Thế là nhân tài nước Việt ta được tuyển dụng tương tự như người Hán, bắt
đầu từ Lý Tiến, Lý Cầm vậy.

Trương
Trọng người quận Nhật Nam, có lần đến Lạc Dương đúng hội Tết Nguyên Đán là hội
lớn của dân ở đây, gặp hoàng đế nhà Tấn là Tấn Minh Đế. Tấn Minh Đế hỏi:

-
Nhật Nam là quận hướng về phương Bắc để trông mặt trời có phải không?

Trương
Trọng đáp rằng:

-
Nay trong số các quận, có quận Vân Trung nhưng đâu có phải là ở trong mây, có
quận Kim Thành mà nào có phải là thành vàng. Tên gọi ấy có phải là đúng với sự
thật ấy đâu. Còn như có phong khí ấm áp, có mặt trời soi bóng trên đầu thì tất
có sinh dân, NhậtNamxưa nay vẫn vậy.

Lời bàn:Một
sự việc, hai lời tâu, tương đồng là đó mà dị biệt cũng là đó. Lý Tiến là quan
văn, chức hàm khá cao, bởi thế, ông tâu theo kiểu tâu của quan văn, cũng chứa
chan tâm huyết, cũng thẳng thắn rạch ròi, nhưng quả là rất chừng mực, cả trong
nội dung lẫn cung cách trình bày. Lý Cầm là con nhà võ, lại là võ bậc thấp,
nghĩ sao nói vậy, không câu nệ chữ nghĩa, cũng bất chấp lễ nghi, cốt sao nói
được tiếng nói của mình. Nhà Hán hẳn nhiên chẳng vì lời tâu của Lý Tiến và Lý
Cầm mà thay đổi cách tuyển dụng người, nhưng dẫu sao thì cũng đã phải buộc lòng
ghi nhận. Nếu thiếu dũng khí, chẳng thể nói được những lời như Lý Tiến và Lý
Cầm đã nói đâu.

Sử
cũ chép chuyện Trương Trọng ngay sau chuyện Lý Tiến và Lý Cầm, dẫu biết rõ
Trương Trọng sống sau hai nhân vật họ Lý này đến hơn một trăm năm, ấy là muốn
chép cho liền mạch dũng khí mà trước đó Lý Tiến và Lý Cầm đã tạo ra đó thôi.
Phàm là người ở giữa cõi cao xanh, thiếu gì thì thiếu chớ thiếu dũng khí thì kể
như thiếu hẳn một cái gì lớn lao vô cùng. Câu hỏi của Tấn Minh Đế chứa chất sự
cao ngạo một cách vô lối. Nhưng, đáng đời thay, trả lời cho câu hỏi của Tấn
Minh Đế lại là một người Việt vừa rất giàu dũng khí lại cũng vừa rất thông
minh.

Hóa
ra, không biết mà chân thành đi hỏi người biết thì ta bao giờ cũng an lòng về
ta. Ngược lại, không phải không biết mà vẫn cứ cố đặt câu hỏi để hỏi người
biết, thì tai họa của câu trả lời chưa dễ lường trước được đâu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3