Ngang trái phủ Tây Hồ - Chương 13

13

Nguyễn Trãi rất chu đáo. Ông xây cho
bố vợ một ngôi nhà khá đẹp bên cạnh phủ Tây Hồ. Một buồng giữa rất
đẹp, ông đồ có thể dạy học trò. Ông Trãi mướn một người hầu gái
dịu dàng, nết na có học để ông đồ sai phái. Mười hai tên gia nô tin
cẩn của ông, được ông giao cho đến trông coi vườn tược, hầu hạ… Ông đồ
rất hài lòng. Ông dạy học rất hào hứng, và những buổi học trò
nghỉ, ông không đem theo người hầu, chỉ gọi một mình người học trò
yêu, đến nhà mấy ông Cử, ông Nghè, bạn cũ hiền đạt, để ngâm vịnh.
Ông đã chép được nhiều bài văn, bài thơ hay để đến đó cùng phẩm
bình.

Nguyễn Thị Lộ hàng ngày vẫn vào
hoàng thành dạy cung nữ!

Thái Tôn, dù đã bắt tay thực sự
vào triều chính, song, như một ma lực nào rất mơ hồ, ràng buộc ông
vua trẻ này với người đẹp, mà có lúc, buột miệng nói với lũ người
hầu:

- Thế gian này có một người đẹp
thì thằng già Nguyễn Trãi cướp của ta mất rồi.

Một bữa, đang vui, Đinh Thắng hỏi
vua:

- Bệ hạ cho con gái thế nào là
đẹp?

Thái Tôn trả lời ngay:

-
Mặt đẹp, ngực đẹp, chân tay đẹp và mông đẹp!

Thắng nói:

- Đó mới là cái đẹp trời ban.

Vua đang say, bá cổ Đinh Thắng nói:

- Mày giỏi, mày biết ta cần ai,
thích ai… Nhưng mày nói ra, tao sẽ beng đầu mày!

Đinh Thắng lạnh hết sống lưng, vội
tâu:

-
Thần biết cái điều phải chôn chặt đáy lòng chứ!

Vua đang say, cười ha hả:

- Hôm nay ta mới hiểu mi! Mi đừng
nịnh ta như bọn Lương Đăng, Nguyễn Cung, Tạ Thanh này nhé! Chao ơi, bọn
thái giám chúng bay quá lắm! Chúng bay không có đàn bà, rỗi thì giờ
hay nghĩ lắm trò quỉ quyệt, xảo trá. Liệu hồn đấy, không ta chém
tất, chém tất!

Lương Đăng tủm tỉm, Nguyễn Cung sầm
mặt, vục đầu vào bát yến sào. Tạ Thanh đưa mắt cho Đinh Thắng biết
rằng y đã đi quá xa, qua mặt những kẻ đang ngồi trên đầu y. Tuy nhiên,
chúng đều hô câu vạn tuế, và nói những điều xu nịnh rất lộ liễu. Tạ
Thanh nhờn vua hơn ai hết, nói:

- Vua có cái bọn thái giám không
có, cho nên Đức vua phải nói cho bọn thần nghe thứ khoái cảm mà Ngài
được hưởng.

Lương Đăng biết Tạ Thanh quá lời,
vội đứng lên cầm chén rượu thưa:

- Thần Lương Đăng, thơ phú làng nhàng,
xin dâng lên Đức Vua một bài thơ nói về cuộc vua tôi chan hòa bữa nay…

- Đọc đi, đọc đi… Thái Tôn gào lên.

Lương Đăng đọc:

Hoa
tận núi cao. Người muốn hái,
Cheo
leo vách đá dựng như thành,
Rừng
sâu, hoa thắm càng thêm thắm
Tầng
tầng đá dựng vẫn chênh vênh

Vua nói:

- Lương Đăng đọc lại đi.

Đăng đọc thêm một lần nữa. Vua như
tỉnh rượu, gạn hỏi, bỗ bã:

- Này Đăng, ngươi cũng biết điều ta
đang khao khát hả?!

- Tâu bệ hạ, thần phải biết, những
điều chủ cần.

- Ngươi có thể giúp ta hái hoa được
chăng?

- Xin để còn lựa xem thế nào đã…

*

Một bữa. Nguyễn Thị Lộ vừa bước
vào hoàng thành có hai thị nữ ra chắn ngang đường nói:

- Thưa Lễ nghi học sĩ, Đức vua có
lệnh mời Bà!

- Sao, ta đang có việc kia mà?

- Thưa, đây là lệnh chỉ!

Nguyễn Thị Lộ cau mày, nghĩ một
chút:

- Vậy hả, thì đi…

Thị Lộ bước vào nội điện. Thái
Tôn ân cần ra đón tận bên cổng.

Vua nói:

- Lễ nghi học sĩ mê đám cung nữ hơn
mọi thứ trong hoàng thành, đến ta, muốn mời nàng, mà cũng chẳng
được lưu ý.

- Bệ hạ dạy quá lời. Thần thiếp
đâu dám thế!

- Nói vui thôi, mời học sĩ vào đây!

Vua ân cần hơn mọi lần. Thị Lộ vẫn
giữ lễ. Vua đuổi hết thị nữ. Thị Lộ ngạc nhiên hỏi:

- Sao thần thiếp đến, Đức Vua cứ
gây hoài nghi cho mọi người.

Thái Tôn đáp không chần chừ:

- Ta làm vua từ bé, thích gì được
nấy, nàng không biết hay sao?

Thị Lộ nhíu lông mày, ngồi lặng
im, không nói nữa!

Vua hồn nhiên tự rót trà mời người
đẹp. Thị Lộ đặt tay lên đùi, dáng thật nghiêm trang.

Thái Tôn bật cười:

- Đức Vua cười gì vậy!

- Ta cười đàn bà hay có thói giữ
gìn quá đáng. Nàng thấy đấy, ta đã nói, nếu ta thích nàng, ta có
thể cướp được nàng từ tay quan Hàn lâm thừa chỉ kia mà, thậm chí ta
có thể bày đặt ra tội lỗi mà loại trừ kẻ làm vướng đường ta đi…

Thị Lộ chỉ cười không nói gì cả.

Thái Tôn nói:

- Nhưng ta trọng nàng. Ta trọng quan
Hàn lâm viện thừa chỉ! Ta không muốn như thế.

Một chút gì đó, Thị Lộ tỏ vẻ
cảm mến ông vua trẻ, kém mình đến mấy tuổi này!

Vua nói:

- Bữa nọ nghe nàng khuyên, ta về mới
đọc kỹ thêm thơ Đường, quả có hay thật.

- Bệ hạ thích những nhà thơ nào?
Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Trần Tử Ngang, Thôi Hiệu…?

- Những ông ấy đều hay cả. Nhưng ta
chỉ thích một nhà thơ.

- Ai vậy.

- Lý Thương Ẩn.

Nguyễn Thị Lộ hơi ngạc nhiên. Nhà
vua quả là người thông tuệ, minh mẫn, tính khí khác đời. Lý Thương
Ẩn là nhà thơ lớn thời Văn Đường. Thơ ông khác hẳn những nhà thơ nổi
tiếng trước ông. Nàng hỏi:

(có vẻ như thiếu câu hỏi trong bản in)

- Ta chỉ thích hai bài thôi.

Vua đọc:

Vô đề

Nối nghiệp tiên nhân, thuộc một
kinh.

Chẳng ngờ bước tới áng công danh

Cảm ơn, nỡ phụ muôn đời chúa,
Phải lụy vì chưng một chữ tình.

Láng giềng, khao khát áng mây bạc,

Khách khứa, nương nhờ dải núi xanh

Còn đâu phút vui vầy suối cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh…

Giọng vua trong và trẻ. Lại vì
lòng đang xúc động trước vẻ đẹp của người ngồi trước mặt, lòng chân
thành như một nho sĩ nghèo, nghe thật hay. Nguyễn Thị Lộ có một chút
mềm lòng, không khó chịu như thường vẫn ngồi trước mặt vua. Nàng khen
rất thực lòng:

- Bài thơ bệ hạ khen hay thật đích
đáng. Lý Thương Ẩn không nói thế sự, không nói về rượu, mà chỉ nói
thứ khao khát về tình yêu tự đáy lòng mình. Thần thiếp cũng thích
ông này lắm.

Vua nói:

- Nàng hiểu thơ sành lắm. Dịch thử
cho ta nghe đi!

Thị Lộ cầm bài thơ lên suy nghĩ.
Vua trọng sự yên lặng tập trung của người đẹp, đứng dậy, đi ra phía
ngoài đứng chờ. Rất lâu sau, vua mới trở vào:

Vua thân mật hỏi:

- Thế nào, học sĩ dịch xong chưa?

- Dạ xong.

- Đọc cho ta nghe nào.

Nguyễn Thị Lộ cầm tờ giấy hoa tiên
lên ngang mày, cất giọng đọc:

Không đề

Khó gặp nhau rồi, lại khó xa
Gió không còn sức, để tàn hoa
Tằm xuân đến thác, tơ còn cuốn

Nến lụi trơ rồi, lệ vẫn sa
Gương sớm buồn soi thương tóc bạc

Thơ khuya thấm nỗi ánh trăng tà

Bồng lai đường đến đâu xa mấy
Nhỡ cánh chim xanh hãy giúp ta!

Vua khen:

- Nàng dịch nhanh mà hay thật. Ta
còn thích bài này nữa.

- Tâu cũng của Lý Thương Ẩn?

- Đúng vậy. Ta đọc, nàng lại dịch
nhé:

Mã ngôi

Hải ngoại đồ văn cánh cửu châu
Tha sinh vị bốc, thử sinh lưu
Không văn hổ lữ minh tiêu tức

Vô phục kê nhân báo hiểu trù.
Thử nhật, lục quân đồng trú mã,
Đương thời, thất tịch tiếu khiên ngưu.
Như hà tứ kỷ vi thiên tử

Bất cập Lư Gia hữu mạc sầu.

Nguyễn Thị Lộ cười:

- Tâu, dịch thơ đâu phải đọc xong là
dịch ngay được. Vả lại, có thích, có say bài thơ ấy thì dịch mới
hay được.

- Thôi, đừng nên thế, nàng là học
sĩ kia mà, hãy dịch ta nghe.

Thị Lộ vâng lời, cầm bút. Lần
này, vua không ra phía cửa đứng nữa, mà đứng lui ở phía sau nàng im
lặng như một thằng hầu. Rất miễn tiệp, Thị Lộ đọc vài lần, cầm
bút dịch ngay. Nàng viết chữ nôm khá đẹp:

Gò Mã ngôi

Chín châu ngoài bể có nghe đồn
Lỡ phận kiếp nao cũng chuốc buồn

Trướng hổ chẳng nghe, quân giục mõ.

Điện chầu, quạnh vắng, thẻ mời không.

Bữa nao, tướng sĩ, dừng chân ngựa,

Thất tịch, sao Ngưu, ngắm lạnh lùng.

Dư bốn mươi năm ngôi thánh chúa,

Đọc chuyện chàng Lư, luống sượng sùng!

Vua rót rượu ngon, đưa tận tay:

- Nàng dịch hay lắm, hay lắm. Ta
giữ những bản này để ngâm nga. Nàng hãy uống cùng ta vài chén rượu.

Thị Lộ vâng lời uống cạn. Vua cũng
uống, vua bỗng bối rối, tay vua vẫy vẫy, rồi cầm chặt lấy chén
rượu, mặt cúi xuống bàn:

- Nàng tài hoa quá! Tài hoa quá! Ta
thèm có một người luôn luôn ở bên cạnh được như nàng.

Và vua, không dừng được nữa ôm chầm
lấy Thị Lộ, lùa tay vào ngực tròn đầy của nàng.

Thị Lộ sợ hãi, cúi mình xuống
cưỡng lại. Vua càng khao khát ôm chặt lấy nàng. Mùi thơm của da thịt
một thanh niên hào hoa, cái cuồng nhiệt chân tình, vẻ đẹp thanh tú
của một chàng trai vừa lớn dậy, khiến Thị Lộ muốn cưỡng cũng không
cưỡng nổi. Vua thì thào bên tai Thị Lộ:

- Ta muốn, ta muốn nàng là Dương
Quý Phi của ta. Và vua dìu Thị Lộ về giường ngủ. Thị Lộ miệng luôn
nói:

- Đừng đừng, tâu Thánh thượng!

Nhưng chân nàng thì vẫn cứ chiều
theo ý của Thái Tôn. Cuộc tình đầy hào hứng, thơm tho. Lần đầu tiên
Thị Lộ biết chiếc giường vua êm ái, quyến rũ đến nhường nào. Nàng ôm
chặt lấy vua, dâng hiến…

Từ buổi gặp vua, Thị Lộ như người
nửa mê nửa tỉnh. Vua cho Lộ nhiều thứ quý giá. Châu, ngọc chẳng tiếc
gì. Vua mê da thịt nàng. Vua nhớ tiếng nói của nàng. Từ khi chung
đụng với nàng, vua quên hết cung tần, mỹ nữ… Vua thích ở trong hoàng
cung hơn là coi buổi chầu. Vua thích nghe giọng nàng ngâm thơ, thích
nhìn nàng cầm hoa quả, ngắm lâu hơn một lúc rồi mới ăn…

Vua gặp nàng trong mơ. Vua lởn vởn
có ý nghĩ tuyển nàng về cung và trọng nàng như Dương Quý Phi mà
Đường Minh Hoàng, yêu đắm đuối.

Nguyễn Thị Lộ thì dùng dằng, nửa
yêu vua, nửa yêu Nguyễn Trãi. Vua nồng say, đắm đuối nàng hơn. Còn,
Nguyễn Trãi thì lúc nào cũng chừng mực, yêu cũng giữ gìn kín đáo,
đến nỗi vợ con, hầu thiếp, gia thần, vệ sĩ, đầy tớ cũng không hề
biết.

Khi chỉ có hai người, ông già ngót
nghét sáu mươi này cũng nồng nhiệt, mê đắm như tuổi hai mươi. Có lúc
ông hưởng cái đặc ân trời cho hơi quá, khiến cho người ban thưởng khó
chịu và bực mình. Khốn một nỗi, da thịt của ông nhẽo nhợt mất rồi,
những nốt ruồi đã hiện trên da mặt ông. Đôi mắt tinh anh chẳng còn
sáng long lanh như thuở ngồi viết cáo Bình Ngô nữa… Ông hay thở dài.
Thị Lộ đẹp quá! Nàng thu hút hồn ông, nhưng nhiều lúc ông cảm thấy
người đẹp không phải của mình.

Song ông vẫn yêu nàng hơn tất cả thê
thiếp. Nàng biết điều ấy. Danh vọng của ông lại quá lớn, thậm chí
còn hơn cả vua. Ông tuy chẳng cầm quyền binh nhưng trong nhà tấp nập
vào ra, mà toàn những danh nhân, đại thần cả.

Học trò đã làm quan to ở trong
triều còn quấn quít với ông cả ngày. Công trình Dư Địa Chí do Viện
Hàn lâm soạn thảo đang đến lúc dâng trình lên vua, nên các bậc túc
nho, thường đến làm việc với ông từ buổi sáng… Tòa Đô Ngự Sử, bên
Hình sự, bên Nội Mật viện chỗ nào chẳng có bạn bè của ông… Đám văn
thần coi ông như thầy, ông không làm vua mà chân rết ở khắp mọi nơi.
Chỉ có đám quốc thích, hoàng thân, võ quan, quan hoạn là ít lui tới
nhà ông mà thôi.

Chỉ khi đêm phủ xuống Nguyễn Trãi
mới có thời giờ tìm đến với Thị lộ. Có đêm, ông cũng còn mải phân
phát ân huệ cho những tì thiếp trẻ khác. Ông như một cây trĩu quả,
mà ai muốn níu vào hái cũng được. Nhiều khi, Thị Lộ cũng buồn. Ngay
khi còn chưa là vợ Nguyễn Trãi, nàng cảm thấy ông là của nàng tất
cả. Nhưng khi đã là vợ ông rồi, thì nàng chỉ còn cái phần bé nhỏ
của hàng chục hàng trăm bổng lộc mà Nguyễn Trãi ban phát hàng ngày.
Khi giữ vẹn sự trinh tiết cho Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị lộ vẫn yêu ông,
quý ông, trọng ông.

Nhưng khi thân thể mơn mởn, nửa trẻ
con, nửa trai tráng, ngây thơ, ham hố, khùng dại của Thái Tôn đụng
chạm được đến da thịt nàng thì mọi ý nghĩ đảo lộn tất thảy.

Những ngày hôm sau, Thị Lộ thường
về muộn. Chiều nào, trước khi dậy lễ nghi cho cung nữ xong. Đức vua
đều vời nàng vào hầu. Nàng chẳng bao giờ cưỡng lệnh.

Nguyễn Trãi buồn lắm. Một nỗi buồn
dai dẳng, sâu xa, thầm kín. Một đời ông, sự nghiệp lớn đã xong. Mà
những thần toán ngày xưa ông để đâu mất cả… Ông vẫn sống theo những
tình cảm nhân hậu và cảm tính. Nguyễn Trãi, bây giờ mới thấm, hoá
ra, ông vẫn luôn luôn là một con người tình cảm. Và, những lúc ông
sống theo tình cảm, thường là hỏng việc…

Ông đang có một cuộc sống bình
lặng ở quê xa lắc, nơi ấy hầu thiếp đủ đầy, cần gì có nấy… Đầy tớ
đi lại rộn rịp, nhà cỏ, nhà lầu muốn ngồi đâu thì ngồi. Ngắm trăng
bên suối, uống rượu ở đỉnh Bàn Cờ, đàm đạo về kinh kệ với sư, uống
trà sớm với người yêu núi… vậy mà, chỉ một lời thỉnh cầu của Lê
Lợi, ông đã vội về triều, tưởng như nhà vua tới lúc lâm chung đã
nghĩ lại, hối hận về những việc làm thủa mình còn sống.

Thì ra, nếu đánh bạn với nhau, chỉ
là ngang tầm, ngang cảnh, bạn với vua, với người hơn mình, thường là
muốn làm bạn mà không nổi, muốn biết ở hết tình mà thường vẫn cứ
xảy ra những thứ dở hơi.

Đến bây giờ, ông mới hiểu, Thái Tổ
mời ông về chẳng qua là để kìm hãm việc chuyên quyền của cánh quan
võ đang nắm quyền bính!

Nhưng, ông nào có kiềm chế gì nổi
họ… Lê Sát, Lê Ngân quá ỷ vào lòng vua yêu, đã chui cổ vào những
thòng lọng treo sẵn của bọn Lương Đăng, Tạ Thanh, Nguyễn Cung, Đinh
Thắng… Trịnh Khả còn ngu đần hơn Lê Sát mà giờ nắm cả vận mệnh
quốc gia. Vua đã trưởng thành, nhưng chúng gần vua, chúng thơn thớt,
chúng biết lựa lúc nói ngon nói ngọt hoặc sàm báng, và vua thì đâu
đủ trí minh mẫn để nhìn thấu suốt cả triều đình.

Đám văn thần có học, đã lăn lóc ở
triều đình để cố hạn chế cái dở thành phổ biến, ngăn chặn những
phán quyết chưa được sáng suốt, hoặc bâu vào để che chở cho một
chính kiến đáng lý được thi hành ngay… Song vua là hết thảy, vua nói
là trời nói, biết làm thế nào?

Vả lại, văn cũng năm bảy đường văn,
võ cũng năm bảy đường võ, nho giả, nho thực có lúc túc trực sẵn ở
một con người. Nguy hại nhất là những ham muốn giầu sang thì chẳng
có giới hạn nào cả… Vì thế có đại thần học rộng đã cam tâm thành
viên thư ký quèn của Lê Sát; quan coi việc hình sự vì vài chục lạng
vàng mà làm một vụ án giết người thật sự hóa một vụ án oan… Một
sứ giả Trung Hoa sang, các nhà giầu ở phủ này phủ nọ đều cố sức
chèo kéo để mua lụa là gấm vóc, trao đổi, những thứ hai bên cùng có
lợi…

Nếm mật nằm gai, lòng người tụ về
một hướng. Khi đầu ngõ là chín cái đầu lâu Trương Phụng bêu, khi
ruộng đất mình, quân Minh cho ngựa chà lên lúa sắp gặt, mà không giữ
nổi, thì, lời thề tụ nghĩa thiêng liêng hơn cả mọi lời thề. Còn bây
giờ, cảnh thanh bình nhung lụa, mắt người nhìn nhau đâu còn thấy những
bọn lính từng băng vết thương cho nhau, cõng nhau lẩn trốn khi quân Minh
đuổi dồn đến phút cùng đường. Bây giờ LÀ NGỌC, LÀ VÀNG, LẦU CAO,
GÁC TÍA, LÀ NGƯỜI ĐẸP, LÀ THÓC NÚI, RUỘNG THẲNG CÁNH CÒ BAY…

Nguyễn Trãi bất giác tự cười
mình… Hoá ra mình cũng không phải là bậc thánh, bậc thần như xung
quanh hằng xưng tụng… Mình vẫn ý tài, vẫn muốn nắm quyền bính như xưa,
muốn sau vua là mình quyết định chứ không phải ai khác, muốn nàng
Thị Lộ đẹp ngời ngợi là riêng của mình, và mình phải được nàng
cúc cung hầu hạ như bất cứ một thê thiếp nào trong nhà…

Việc đưa Thị Lộ lên hàng phu nhân
đối với ông, như một ân sủng… Những người đẹp, họ lại có một thứ
quyền uy khác, mà họ nắm chắc hơn cả quyền lực ở trong tay nhà vua.

Bây giờ Nguyễn Trãi đã thấm đòn
của sắc đẹp…

Ông đau đớn lắm khi những tin đồn
tai ác về sự buông thả rất nhanh của Thị Lộ với nhà vua. Đức vua
cũng yêu nàng lắm lắm! Nguyễn cảm thấy điều hạnh phúc vừa đến, đã
ngay lập tức trở thành bất hạnh!

Ông buồn, ngồi thừ bên song cửa. Một
bài thơ viết dở dang chờ phần hoàn chỉnh. Lòng ông the thắt. Ông bặm
môi, cầm bút viết nốt những câu thơ cuối. Những vuông chữ chứa chất
đầy tâm trạng hiện lên:

Nối nghiệp tiên nhân, thuộc một
kinh.

Chẳng ngờ bước tới áng công danh

Cảm ơn, nỡ phụ muôn đời chúa,
Phải lụy vì chưng một chữ tình.

Láng giềng, khao khát áng mây bạc,

Khách khứa, nương nhờ dải núi xanh

Còn đâu phút vui vầy suối cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh…

Nguyễn Trãi nghĩ ngợi lung tung
lắm, vừa hay lúc đó, Đinh Thắng bước vào!

Nguyễn Trãi cần có người đối
thoại, lại gặp viên hoạn quan sủng ái của Đức Vua, vừa biết, vừa
tham, vừa người, vừa ngợm. Nguyễn rất cần dò hỏi Đinh Thắng trong
lúc này.

Nguyễn mời Thắng vào nhà. Thắng
vẫn tôn sùng Nguyễn Trãi như thầy, hết sức khiêm tốn. Nguyễn Trãi
gọi người hầu trà, ân cần hỏi Đinh Thắng:

- Ông vẫn mạnh giỏi đấy chứ?

Thắng cười:

- Cám ơn tướng công, đám hoạn quan
chúng tôi như trời đầy, đứa nào cũng béo, mặt mũi trơn bóng, hồng
hào, giọng nói thì ẽo ẹt như đám đàn bà, con gái, do đó, càng khỏe
thì giọng lại chua lòm, cứ cái mẽ bề ngoài ấy, ai nhìn qua đã thấy
ghét.

Nguyễn Trãi cười:

- Tôi chỉ thấy ông rất vui tính, lại
biết điều. Nhân ông đến chơi, tôi xin hỏi. Công việc của bà Lễ nghi học
sĩ nhà tôi ở trong đó thế nào?

Đinh Thắng cười rất hồn nhiên:

- Lễ nghi học sĩ từ ngoài hoàng
thành bước vào làm cho tất cả người đẹp trong cung cấm một sớm, một
chiều tan tác như ong vỡ tổ.

Câu nói làm cho Nguyễn Trãi đau
nhói tận trong lòng. Đinh Thắng không hề có ý xúc phạm Nguyễn, mà vô
tâm, Thắng nói thêm:

- Bà học sĩ vừa đẹp, vừa có học.
Tướng công có thấy hối hận là đã để phu nhân lọt vào mắt của Hoàng
đế không!

- Quả là ta quá ngu, không biết giữ
nàng. Tất cả mọi sự xảy ra hôm ta đưa nàng đến viện Tập hiền tiếp
sứ. Lúc ấy, nàng thích biết chỗ này, chỗ nọ ở hoàng cung. Ta thì
đang đắm đuối về nàng… Gần đây, ta nghe những tin đồn chẳng hay ho gì,
giờ nghe ông mới thấy phần hư thực…

Đinh Thắng ngồi lặng không nói.
Không khí trong phòng trầm mặc, nặng trĩu. Một lúc sau, Nguyễn Trãi
nói:

- Những lời tâm huyết bữa trước ông
đến khuyên ta, ta rất cảm kích, song ta càng ngẫm, càng thấy khó thực
hiện. Lòng ta ưa yên ổn, chuộng nhân nghĩa, không thể ở ác được… Nếu
bây giờ ta lại ham hố quyền hành, tất phải sát phạt, yêu người này,
ghét người khác, công tâm bỏ mất, thủ đoạn thi hành. Được lòng người
này mất lòng người khác… Rồi đụng độ, vu khống, thêu dệt viện kẻ vô tội
thành kẻ có tội, đưa kẻ bất tài ngồi lên đầu kẻ có tài, điều ấy,
Nguyễn Trãi không làm được.

Nguyễn Trãi gọi rượu mời Đinh
Thắng. Lòng ông đã quyết rồi. Ông ngồi trầm ngâm, tay xoa nhẹ chiếc
chén ngọc và nói:

- Có lẽ ta sẽ lui về Côn Sơn thôi,
ông Thắng ạ! Ta muốn nhờ ông giúp ta ở bên trong. Bây giờ, nếu ta dâng
sớ, chờ lệnh vua thì lâu lắm. Mà, Trịnh Khả, Lương Đăng lại cho ta có
ý kia khác… Vua thì lại đang cần đến Lễ nghi học sĩ. Chỉ còn một
cách nói về việc dời mộ tổ tiên về Chi Ngại, Chí Linh, rồi do ngày
giờ ấn định quá gấp mà về, thì họa chăng mới ra khỏi kinh đô được.
Tờ tấu ta xin về lo việc nhà đây, ông xem thử, liệu lời lẽ đã được
chưa.

Đinh Thắng cảm động lắm. Thắng
không ngờ Nguyễn Trãi lại tin cậy mình đến thế! Thắng giơ tờ tấu ra
đọc:

Hàn
lâm viện thừa chỉ, nhập nội hành khiển, á thượng hầu, thần, Nguyễn
Trãi lạy trước Hoàng đế Bệ hạ, xin được soi xét:

Thần
đức mọn tài hèn, được Tiên hoàng đế triệu về, hàng năm nay, đã dốc
lòng thờ chúa, việc to, việc nhỏ, chẳng việc gì dám từ nan. Cửa
khuyết vẫn ban ơn, lòng già hằng kính mộ.

Song
phần mộ ở Chi Ngại chưa yên ổn. Gò hoang mối đục, thú phá… Ơn đức
tiên tổ, Trãi này chưa đền trả được, thật vô cùng áy náy!

Kính
mong, Hoàng đế Bệ hạ, cho Trãi lui về Côn Sơn ít tháng, lo xây mộ, lập
am cho tiên tổ, gọi là chút lòng thành báo đáp sinh thành…

Dẫu
phải xa chốn cung đình, lòng trung vẫn hướng về cửa khuyết.

Trăm
lần sợ hãi, kính cẩn dâng lời…

Đinh Thắng xem rồi nói:

- Tướng công đã nhờ đến Thắng này,
tôi xin hết lòng, chẳng dám từ nan. Nếu Hoàng thượng chuẩn tấu, xin
báo về ngay.

Thắng về, lên ngay chỗ Trịnh Khả,
Lương Đăng, nói như vẻ Nguyễn Trãi biết phận, chỉ muốn lui về quê chăm
nom phần mộ tổ tiên và an dưỡng tuổi già… Trịnh Khả tin là thật.
Nhưng Lương Đăng thì cười nham hiểm:

- Ông già này muốn tách con bé Thị
Lộ ra khỏi Đức vua đây mà. Nhưng thôi, lão này không phải là loại
đáng gờm, chẳng qua là một kẻ hủ lậu, suốt ngày lên tiếng nhân
nghĩa giữa một bọn quỉ ma. Bọn chúng có nghe đâu kia chứ. Tôi nghĩ
quan đại tư mã nên tâu với Hoàng thượng cho Nguyễn Trãi được như ý.

Trịnh Khả băn khoăn:

- Nhưng Nguyễn Trãi đi thì Thị Lộ
cũng phải đi theo, lúc đó Đức vua biết quở phạt tôi và ông thì biết
làm thế nào?

Lương Đăng cười:

- Thôi ngài tể tướng để tôi lo việc
này cho.

Vào buổi chiều vua chơi bời đã
mệt, Lương Đăng đem một loạt sớ tấu xin phê chuẩn. Thái Tôn nghe kỹ
lưỡng những tờ tấu có việc quan trọng, còn những việc thông lệ
khác, thường nghe qua loa… Việc nào thấy rắc rối là bác, việc nào
thấy lời lẽ êm ái, biết cách xin, thì không bài bác gì cả, cho thái
giám đóng nhật ấn vào và đưa cho Đăng…

Nguyễn Trãi được vua bằng lòng cho
về quê cũng là nhờ cách khéo léo của Đăng biết xếp tờ tấu xuống
hàng gần cuối.

*

Nguyễn Thị Lộ rất ngạc nhiên khi
thấy con hầu vào báo: “Tướng công nói: Phu nhân gấp thu xếp hàng trang
để trở về Côn Sơn”.

Thị Lộ cau mày vặn hỏi:

-
Sao ta chưa thấy tướng công nói gì?

- Việc gấp, không thể nói trước
được.

- Thế còn công việc của ta ở triều
đình.

- Tướng công đã lo liệu chu đáo cả
rồi!

- Hoàng thượng cũng bằng lòng cho
ta đi theo Nguyễn Trãi.

Đứa con hầu rắn rỏi trả lời:

- Phận gái phải theo chồng, thưa
bà, chắc là vua biết vậy nên không giữ bà!

- Việc gì mà như lửa đốt trôn ấy?

Thị Lộ lúc cáu vẫn thường hay
thốt ra những lời khiếm nhã.

Con hầu đủng đỉnh, cười nhạo, lễ
phép thưa:

- Dạ, bà hỏi tướng công xem.

Nói đoạn, lui ra. Thị Lộ ức lắm.
Lão già này sinh chuyện đây. Chắc là lão biết mình ân ái với Hoàng
thượng rồi. Lão ở đây, thi thố tài năng không có chỗ, bọn Trịnh Khả,
Lương Đăng thù ra mặt, có cô vợ đẹp vui thú, thì bây giờ bị phỗng tay
trên… Lão ấy về Côn Sơn là phải. Thị Lộ đã nhận ra ý đồ chuyến đi
hớt hải vội vã này của Nguyễn Trãi.

Nàng buồn lắm. Ngồi phịch xuống
ghế, muốn hét to lên, muốn quát mắng đập phá. Muốn trườn lại, không
đi theo Nguyễn nữa. Nhưng thế thì cũng không ổn. Nàng ở đây với ai.
Con gái phải theo chồng. Chồng đi, ở lại một mình điều tiếng lắm,
huống chi, lấy ai cung phụng chu cấp cho mình. Về nhà bố ở ư? Càng
không ổn! Con gái về ở với bố, chỉ có cách là chồng đuổi thôi! Ôi
cái lão già này thâm hiểm thật. Nhưng dù sao, thì ta cũng phải về
thăm cha ngay chiều nay đã… Sáng mai, ta dùng dình, xuống thuyền muộn
thì họ vẫn phải chờ ta, kia mà!

Vừa lúc ấy, lại có một người hầu
trai từ chỗ Nguyễn Trãi đến:

- Bẩm bà, tướng công sai con đến
đón bà về thăm phủ Tây Hồ…

Thị Lộ bỗng dịu lòng xuống. Ra,
Nguyễn Trãi vẫn hết sức lưu ý đến cha mình. Nàng đến trướng phủ,
Nguyễn Trãi đang ở đấy. Trông ông quắc thước, đẹp đẽ hơn mọi ngày.
Từ ngày lấy được cô vợ trẻ, ông cũng phải chăm chút thần xác hơn.
Mỗi buổi sáng, hoặc khi làm việc khuya, ông thường tĩnh lại, nhập
thiền, làm những động tác uyển chuyển dẻo dai rất khéo léo… Sau đó,
ông dùng nhẹ một bát yến…, dạo chơi trong vườn khoảng nửa khắc hoặc
vài khắc rồi đi ngủ…

Sáng dậy, ông gọi trà ngon uống
một mình, chờ mặt trời rạng hồng ở khu vườn đầy những cây và hoa
tươi thơm, rực rỡ…

Thị Lộ khẽ cúi chào Nguyễn Trãi,
cố dồn nén những cơn tức bực. Nguyễn Trãi ôn tồn nói:

- Nàng đừng giận ta nhé! Đừng hiểu
lầm ta. Quả thật là việc mồ mả ở Côn Sơn không ổn, mà ở quê họ cứ
phải chờ ý ta mới dám làm. Việc phong thủy, đất cát không thể coi
thường. Hôm nay ta cùng nàng về chào ông già, rồi kịp về nghỉ ngơi.
Ngày mai, là lênh đênh trên sông nước, cũng dễ mệt mỏi lắm đó.

Thị Lộ và Nguyễn Tãi đến Tây Hồ.
Nguyễn để lại cho cha nàng hai trăm lạng bạc và một tấm đoạn để may
quần áo… Ông xin lỗi vì phải đi vội, đi xa. Ông hẹn, buổi về chầu mùa
xuân tới, sẽ có mặt ở kinh đô. Nhìn bố hồn nhiên vui vẻ, tỏ vẻ ra
không ước muốn gì hơn, Thị Lộ buồn rũ.

Ông đồ là thế. Ông lấy việc gả con
cho một vị huân thần là vinh hạnh. Con gái lấy chồng già, nhưng là
loại quyền quý, học thức vào loại nhất nước, còn mong ước gì nữa.
Từ ngày lo xong chuyện cho con gái, ông nhận nuôi mấy đứa trẻ, mùa
xuân, mùa thu, những lúc nông nhàn, dạy dỗ chúng cho vui. Ngoài ra ông
theo lối hàn sĩ, ẩn nho, không thích đến nhà các bậc vương hầu, không
thích yến tiệc, mà chỉ thích vui một hội thả thơ ở nhà một ông
nghè ở Đại Mỗ hoặc ăn một bữa gỏi cá tháng tám, thưởng trăng, nghe
hát ca trù ở nhà một thầy khóa hào hoa…

Ông không hề nghĩ ngợi gì về con
gái nữa. Ông thanh thản, vô tư đến nỗi con gái ông cũng thấy bực mình.

Khi thấy người hầu đặt mâm bạc hai
trăm nén ra giữa nhà, ông cười vang, vui vẻ nói:

- Ông Trãi, ông đem nhiều bạc đến đây
để làm gì. Để ta cho vay nặng lãi ư? Ta đang thực hiện câu thơ của ông
đây: “Quê cũ nhà ta thiếu của nào, rau trong nội, cá trong ao!... Khách
đến, vườn còn hoa lá. Thơ nên, cửa thấy trăng vào…” Đủ cả, đủ cả
rồi, ta nhận bạc của ông mà làm gì!

Thị Lộ nhìn cha, chợt lòng thương
cảm rộn ràng, nàng ứa nước mắt nói:

- Thưa cha, tiền bạc có là gì đâu.
Đó là tướng công chu đáo thành tâm biếu cha… Chắc là người nghĩ:
tướng công và con về Côn Sơn xa kinh thành, xa phủ Tây Hồ mà lần này
đi lành ít dữ nhiều, không biết bao giờ mới về thăm cha được.

Nguyễn Trãi vẫn ngồi im lặng lẽ
uống trà. Ông đồ vốn vui tính, vỗ vai con gái nói:

- Chia ly dễ rơi nước mắt. Đó là
lệ thường! Sao con nói gở thế. Con đừng lo gì cho cha cả. Con biết
đấy, quanh phủ Tây Hồ này, bạn bè, học trò của ta rất đông, không ai
bỏ đói ta đâu mà sợ. Có tiền để trong nhà, chỉ tội có kẻ nhòm ngó
thôi.

Thị Lệ giọng hơi xẵng:

- Thì cha cứ nhận lấy để giữ
mình, việc gì cứ khăng khăng từ chối thế. Vài trăm lạng bạc có
nghĩa lý gì.

Nguyễn trãi nói thêm nữa, bấy giờ
ông đồ mới chịu nhận.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3