Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển IV - Chương 065 - 066

65. Tướng công Long Phi[1]

[1] Long Phi tướng công.

Đới sinh ở An Khánh (tỉnh thành An Huy), lúc trẻ tính bừa bãi
không kiềm thúc. Một hôm say rượu từ nơi khác về, dọc đường gặp người anh họ
ngoại là Quý sinh, lúc đang say mờ mịt cũng quên mất là Quý sinh đã chết, bèn hỏi:
“Trước nay ở đâu?” Quý nói: “Ta đã chết rồi, ông quên hay sao?” Đới mới sực nhớ
ra nhưng đang say cũng không sợ hãi, bèn hỏi: “Ông làm gì dưới âm ty?” Quý đáp:
“Gần đây làm chức giữ sổ sách cho Chuyển Luân vương điện hạ[2].” Đới nói: “Nếu thế thì chắc
ông biết được họa phúc của mọi người.” Quý nói: “Đó là chức phận của ta, sao
lại không biết? Chỉ là nhiều quá, nếu không phải là người thật thân thiết thì
không nhớ kỹ thôi. Ba hôm trước tình cờ soát lại sổ sách, thấy có tên ông.” Đới
vội hỏi trong ấy viết thế nào, Quý đáp: “Thật không dám dối, tên ông có trong
số những người bị giam vào ngục tối.” Đới cả sợ tỉnh rượu hẳn, năn nỉ xin cứu
giúp. Quý nói: “Đây không phải là việc ta giúp được, chỉ có việc thiện là có
thể giải cứu thôi. Nhưng sổ sách ghi tội lỗi của ông dày cả ngón tay, không có
việc thiện lớn thì không cứu được, mà Tú tài nghèo khó thì làm sao làm được
việc gì lớn. Thôi cứ lập tức mỗi ngày làm một việc thiện, không hơn một năm như
vậy thì không được xét tới đâu. Bây giờ đã muộn rồi, giả như cố sức thì may ra
có thể thoát khỏi địa ngục.” Đới nghe thế rơi nước mắt lạy rạp xuống đất cầu
khẩn, khi ngẩng lên thì Quý đã biến mất bèn buồn bã trở về.

[2] Chuyển Luân vương điện hạ:
theo truyền thuyết dưới âm phủ có mười vua, trong đó Chuyển Luân vương coi việc
cho các hồn ma đi đầu thai.

Từ đó sửa lòng đổi nết, không dám sơ sẩy. Trước kia Đới tư
thông với người đàn bà láng giềng, người chồng biết nhưng không nói ra, định
rình bắt quả tang, nhưng Đới đã sửa nết không đi lại với người đàn bà nữa,
người chồng rình mãi không bắt được căm tức lắm. Một hôm gặp nhau ngoài ruộng
bèn giả vờ trò chuyện, lừa Đới tới cái giếng cạn rồi xô xuống. Giếng sâu mấy
trượng nên y nghĩ thế nào Đới cũng chết, nhưng nửa đêm thì Đới tỉnh dậy, ngồi
dưới giếng gào lớn mà không ai biết. Người láng giềng cũng sợ Đới sống lại,
sáng hôm sau tới nghe ngóng, nghe tiếng Đới kêu cứu vội ném đá xuống. Đới lùi
vào hốc dưới giếng, không dám kêu nữa, người láng giềng biết là chưa chết bèn
xúc đất lấp giếng đầy gần tới miệng.

Cái hốc dưới giếng tối om, thật không khác gì địa ngục, Đới
không có gì ăn, nghĩ thầm ắt phải chết. Lom khom bò vào trong khoảng ba bước
thì đều là nước, không sao đi tiếp bèn quay lại ngồi chỗ cũ, ban đầu thì thấy
đói bụng, hồi lâu cũng quên đi. Nhân nghĩ dưới suối vàng không có điều thiện gì
mà làm, đành niệm Phật mà thôi. Kế thấy lửa ma trơi bay túa tới lập lòe đầy
hang, bèn khấn: “Nghe nói lửa ma trơi đều là hồn ma chết oan, ta tuy còn sống
nhưng cũng khó trở về, nếu có thể trò chuyện được với nhau thì cũng đỡ tịch
mịch.” Chỉ thấy các đốm lửa ma trơi đều họp cả trên mặt nước, trong mỗi đốm đều
có một người cao khoảng nửa người thường. Sinh hỏi từ đâu tới, họ đáp: “Đây là
cái hầm than cũ, chủ nhân đào lấy than động tới ngôi mộ cũ bị tướng công Long
Phi khoét đất dẫn nước biển vào dìm chết bốn mươi ba người, bọn ta đều là các hồn
ma ấy.”

Sinh hỏi tướng công là ai, họ đáp: “Không biết, nhưng tướng
công là kẻ sĩ văn học, nay làm mạc khách của Thành hoàng, ông cũng thương bọn
ta vô tội mà chết nên cứ năm ba ngày lại cho một bữa cháo loãng. Nhưng xương
cốt bọn ta bị dầm trong nước lạnh không có ngày siêu thăng, nếu ông trở về được
nhân thế xin vớt mớ xương tàn xây cho ngôi mộ làm phúc thì bọn ta dưới suối
vàng được đội ơn nhiều lắm.” Đới nói: “Nếu vạn nhất được trở về thì chuyện ấy
có khó gì? Chỉ là thân dưới chín suối, làm sao dám mong ngày thấy lại mặt trời.”
Nhân dạy đám ma niệm kinh Phật, vê đất làm tràng hạt, cứ theo đủ tạng số mà
đọc, không biết ngày đêm thế nào, cứ mệt thì ngủ, thức thì ngồi niệm Phật mà
thôi.

Chợt thấy chỗ sâu bên trong có ánh đèn lồng, bọn ma mừng rỡ nói:
“Tướng công Long Phi cho ăn đấy,” rồi rủ Đới cùng đi. Đới sợ nước sâu, đám ma
ép kéo đi, phất phới bay lên, quanh co chừng nửa dặm, tới một chỗ thì buông
xuống bảo tự đi càng đi càng lên cao như bước lên bậc thang cao vài trượng, hết
bậc thang thấy phòng ốc, trên sảnh đường có một ngọn nến cháy sáng, to bằng
cánh tay. Đới đã lâu không thấy đèn lửa, mừng quá rảo bước tới, thấy ở trên có
một ông già ngồi, mặc áo đội mũ nhà nho. Đới dừng chân không dám bước tới nữa
song ông già đã nhìn thấy, kinh ngạc hỏi người lạ từ đâu tới đây.

Đới bước lên quỳ xuống thưa chuyện mình, ông già nói: “Té ra
là cháu năm đời của ta.” Bèn bảo đứng dậy cho ngồi, tự nói: “Ta tên là Đới
Tiềm, tự Long Phi, trước đây vì đứa cháu hư là Đường kết đảng với bọn xấu, đào
hầm than gần mộ khiến lão phu không được yên ổn dưới suối vàng nên khơi nước
biển dìm chết cả bọn, người là con cháu dòng nào?” Đại khái họ Đới có năm chi,
Đường là ngành trưởng, lúc đầu có nhà thế gia trong huyện đút tiền cho Đường để
đào hầm lấy than cạnh mộ tổ, các em sợ thế lực nên không ai dám cãi lại. Không
bao lâu nước dưới đất vọt ra, những người đào than đều chết dưới hầm, gia đình
họ họp nhau thưa kiện, Đường và nhà thế gia kia vì thế trở nên nghèo khó, con
cháu Đường đến nỗi không có tấc đất cắm dùi.

Đới là dòng dõi của em Đường, từng nghe ông cha kể lại chuyện
ấy, bèn thưa với ông tổ. Ông già nói: “Hư hỏng như thế thì con cháu làm sao mà
khá được? Cháu đã tới đây, phải tiếp tục học hành.” Rồi lấy rượu thịt cho ăn
uống, kế đem sách đặt lên bàn, đều là những văn trường ốc trong niên hiệu Thành
Hóa Hoằng Trị thời Minh (1465-1505) bắt phải học, lại ra đề bài cho làm văn như
thầy dạy trò. Nến trong sảnh đường đều sáng, cắt bấc đi cũng không tắt. Đới cứ
lúc mệt thì ngủ, không biết đang ngày hay đêm. Ông già lúc đi vắng thì sai một
tiểu đồng tới hầu hạ, lâu như trải qua mấy năm nhưng may mà không phải chịu
khổ. Có điều là không có sách gì khác để đọc, chỉ có trăm bài văn bát cổ, vài
ngàn bài thơ mà thôi. Một hôm ông già nói: “Cháu đã hết hạn quả báo, sắp được
trở về nhân thế. Chỗ mộ ta có đường hầm đào than xoi vào, gió âm châm chích
xương cốt, sau này cháu đắc chí rồi hãy dời mộ ta ra cánh đồng phía đông.” Đới
cung kính vâng dạ. Ông già bèn gọi bọn ma tới sai đưa Đới ra chỗ cũ, đám ma lạy
rạp nghe lệnh, nhưng Đới cũng không biết làm sao mà lên khỏi giếng được.

Trước là gia đình thấy Đới mất tích, tìm kiếm khắp nơi, mẹ
lên báo quan, bắt bớ đòi gọi rất nhiều người mà không có chút manh mối gì. Qua
ba bốn năm, quan thôi giữ chức, việc tìm kiếm tra xét cũng thưa dần, vợ Đới
không chờ được bèn xin lấy chồng khác. Gặp lúc người làng vét giếng cũ, vào
trong hốc thấy Đới, vỗ về thấy chưa chết cả sợ báo cho gia đình biết, cáng về
nhà mấy ngày mới nói được, kể lại mọi chuyện đã qua. Sau khi Đới rơi xuống
giếng, người láng giềng cãi vã rồi giết chết vợ, bị cha vợ thưa kiện, giam nhốt
xét xử hơn một năm, chỉ còn bộ da bọc xương trở về, nay nghe tin Đới sống lại
cả sợ bỏ trốn. Người trong họ bàn xin thưa quan trừng trị, Đới không nghe, cứ nói:
“Trước đây là ta chuốc lấy tội, chuyện đó là âm ty trừng phạt chứ y có can dự
gì?” Người láng giềng thấy không có ý gì khác bèn lần mò trở về.

Nước dưới giếng đã vét sạch, Đới thuê người xuống thu nhặt
xương cốt, đều sắm quan tài chôn cất ở nghĩa địa làm phúc. Lại giở tới gia phả
thấy có tên Tiềm tự Long Phi, bèn sắm sửa lễ vật ra cúng tế trước mộ. Quan Học
sứ nghe chuyện lạ, lại khen ngợi văn bài của Đới, khoa ấy lấy Đới làm hạng ưu
cho đi thi hương, kế Đới thi đỗ Cử nhân. Đới trở về liền xây dựng phần mộ ở
cánh đồng phía đông, dời mộ Long Phi ra đó, xuân thu cúng tế, hương lửa không
dứt.

Dị Sử thị nói: Làng ta
có người đào than, hầm than bị nước ngập, hơn mười người bị khốn dưới đó. Người
ta múc nước tìm xác hơn hai tháng mới cạn mà hơn mười người không ai chết cả.
Té ra lúc nước đổ tới thì họ cũng bị vây trên chỗ cao nên không bị chết đuối.
Dòng dây xuống đưa lên, gặp gió thì tắt thở, một ngày một đêm mới tỉnh lại. Mới
biết người ta ở dưới đất thì cũng như chim rắn côn trùng, nhất thời chưa thể
chết được. Nhưng chưa có ai sống được suốt mấy năm dưới đất, nếu không phải là
kẻ chí thiện thì ba năm liền sống trong địa ngục làm sao có thể sống mà trở về.

66. San Hô

An Đại
Thành là người huyện Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), cha đỗ Cử nhân nhưng mất sớm,
em là Nhị Thành còn nhỏ. Sinh cưới Trần thị, tiểu tự là San Hô, nhưng mẹ sinh
họ Thẩm tính tình hung dữ, đối xử tàn tệ, có khi ngược đãi mà San Hô không tỏ
ra hờn oán, cứ sáng ra là trang điểm tới hầu. Gặp lúc sinh bị bệnh, mẹ cho rằng
nàng trang điểm để mê hoặc sinh bèn chửi mắng. San Hô lui về, tháo bỏ trang sức,
rửa hết phấn son rồi tới, mẹ tức giận, đập đầu vào tường gào thét. Sinh vốn có
hiếu bèn đánh vợ, mẹ mới hơi nguôi giận, từ đó càng ghét con dâu, tuy nàng chăm
chỉ hầu hạ vẫn không thèm nói với nàng một câu. Sinh biết mẹ giận cũng ngủ
riêng, tỏ ý dứt tình với vợ.

Lâu ngày
mẹ vẫn không hả dạ, cứ chửi chó mắng mèo để nói cạnh San Hô. Sinh nói: “Cưới vợ
là để hầu hạ cha mẹ, nay đã như thế thì có vợ làm gì?” Bèn thôi vợ, sai bà vú
già đưa San Hô về. Vừa ra tới cổng làng, San Hô khóc nói: “Là đàn bà mà không làm
vợ người ta được, về nhà còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ, chẳng bằng chết đi
cho xong.” Rồi rút kéo may trong tay áo ra đâm vào cổ họng, mọi người xúm lại
cứu thì máu đã ướt đẫm áo quần, bèn dìu về nhà người thím trong họ. Bà thím
sinh là Vương thị, góa chồng ở một mình bèn giữ nàng lại ở đó. Bà vú trở về,
sinh dặn giấu kín chuyện nhưng trong lòng vẫn thầm sợ mẹ biết. Qua vài hôm nghe
ngóng biết vết thương của San Hô đã hơi lành, bèn tới nhà Vương thị bảo đừng
giữ San Hô ở đó. Vương thị gọi vào, sinh không chịu vào, chỉ hung hăng đòi đuổi
San Hô. Không bao lâu nàng ra gặp sinh, hỏi: “San Hô có tội gì?” Sinh trách là
không hầu hạ được mẹ. San Hô im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu khóc nức
nở, lệ đỏ như máu ướt đẫm vạt áo, sinh động lòng thương xót không sao nói nữa
liền trở về.

Qua mấy
hôm mẹ sinh biết chuyện, giận dữ tới nhà Vương lớn tiếng chửi mắng. Vương cũng
ngạo nghễ không chịu lép, kể tội lại mẹ sinh ngược đãi San Hô, lại nói: “Nàng
ta đã bị đuổi, thì còn là người gì của nhà họ An nữa? Ta đây giữ con gái nhà họ
Trần chứ không giữ con dâu nhà họ An, ai cần bà chõ mồm vào việc nhà người khác?”
Mẹ sinh tức lắm nhưng đuối lý, lại thấy Vương thị có vẻ hung dữ bèn xấu hổ gào
khóc quay về. San Hô áy náy, nghĩ tới việc qua ở nơi khác. Nguyên dì sinh là bà
Vu, tức chị bà Thẩm, hơn sáu mươi tuổi thì con trai chết, chỉ còn một đứa cháu
nội và con dâu góa, rất yêu mến San Hô, nàng bèn từ giã Vương thị tới đó ở. Bà
Vu hỏi biết duyên cớ, rất chê em gái hung dữ mê muội, muốn đưa nàng về ngay.
San Hô hết sức nói là không được, lại xin đừng nói lộ ra. Rồi đó nàng ở cùng
với bà Vu như mẹ chồng nàng dâu. San Hô có hai người anh nghe chuyện rất thương
em, muốn đón nàng về gả chồng cho, nhưng San Hô nhất định không chịu, chỉ theo
bà Vu kéo sợi dệt mướn sinh nhai.

Sinh sau
khi bỏ vợ thì mẹ tìm đủ mọi cách cưới vợ cho, nhưng tiếng hung dữ đã lan rộng
ra nên gần xa không ai muốn kết thông gia. Được ba bốn năm, Nhị Thành dần lớn
lên, bèn hỏi vợ trước cho. Vợ Nhị Thành là Tàng Cô, hung dữ còn quá mẹ sinh, mẹ
mà có vẻ nổi nóng thì Tàng Cô dằn giọng đối đáp, Nhị Thành lại nhu nhược không
dám bênh vực ai, vì thế mẹ cũng không dám ra oai nữa, đã không dám bới móc lại
trở lại tìm cách lấy lòng nhưng Tàng Cô vẫn không ưng ý. Tàng Cô sai khiến mẹ
chồng như đầy tớ, sinh không dám nói gì, chỉ cố sức làm lụng thay mẹ, làm hết
những việc rửa chén quét nhà, mẹ con thường những lúc không có ai cứ nhìn nhau
khóc lóc. Không bao lâu mẹ uất ức sinh bệnh nằm liệt giường, những việc trở
mình đi đồng đều nhờ sinh giúp, sinh suốt đêm không được ngủ, hai mắt đỏ ngầu.

Gọi em
tới giúp, Nhị Thành vừa vào phòng thì Tàng Cô đã gọi đi mất. Sinh vì vậy tới kể
với bà Vu, định nhờ bà tới trông nom mẹ mình, vào tới cửa thì vừa khóc vừa kể,
kể chưa xong thì San Hô sau màn bước ra, sinh hổ thẹn quá im bặt định ra về.
San Hô lấy hai tay khép cổng, sinh quýnh quáng xô nàng ra cướp đường chạy về,
cũng không dám kể với mẹ. Không bao lâu bà Vu tới, mẹ sinh mừng rỡ giữ lại. Từ
đó nhà bà Vu ngày nào cũng sai người đưa thức ăn ngon tới cho, bà nhắn con dâu rằng:
“Ta ở đây không đói, đừng gởi thức ăn thế nữa,” nhưng ở nhà cứ đều đặn gởi tới.
Bà Vu không nếm qua một miếng, cứ dành lại cho người bệnh ăn, bệnh mẹ sinh cũng
đỡ dần. Cháu nội bà Vu lại vâng lệnh mẹ đem thức ăn tới cho bà và hỏi thăm sức
khỏe mẹ sinh, mẹ sinh than: “Nàng dâu ngoan thật, chị tu mấy kiếp mà được như
thế?” Bà Vu hỏi: “Có bằng nàng dâu em đuổi không?” Bà Thẩm nói: “Ôi! Nói ra
không hết chuyện, nhưng làm sao mà được như vợ thằng cháu bên nhà!” Bà Vu nói: “Nàng
dâu còn thì em không biết vất vả, em nóng giận thì nàng dâu không biết oán
trách, có chỗ nào không bằng dâu chị?” Bà Thẩm rơi lệ tỏ ý hối hận, lại hỏi: “San
Hô lấy chồng khác chưa?” Bà Vu đáp: “Không biết, để hỏi lại sau.”

Mấy hôm
sau bà Thẩm khỏi hẳn, bà Vu từ giã ra về, bà Thẩm khóc nói: “Sợ chị đi thì em
chết mất thôi.” Bà Vu bèn bàn với sinh chia gia tài cho Nhị Thành ra ở riêng,
Nhị Thành nói với Tàng Cô, Tàng Cô không vui nói nhiều lời xúc phạm tới anh,
động chạm tới cả bà Vu. Sinh bèn tình nguyện đưa hết những ruộng tốt cho Nhị
Thành, Tàng Cô mới vui vẻ, lập tờ chia gia tài xong bà Vu mới về. Hôm sau bà Vu
lấy xe tới đón bà Thẩm, bà Thẩm vào tới nhà trước hết xin gặp con dâu bà Vu,
hết sức ca ngợi nàng hiền.

Bà Vu nói:
“Đàn bà có trăm việc hay cũng đâu tránh khỏi có một điều dở. Ta phải rộng rãi
bao dung, chứ như em thì cho dù có con dâu như ta e cũng chưa chắc đã nhờ vả gì
được.” Thẩm nói: “Ồ, oan cho em lắm, chị bảo em là súc vật gỗ đá hay sao? Em
cũng có miệng có mũi, há lại ngửi mùi thơm mà không biết sao?” Bà Vu hỏi: “Như
San Hô bị đuổi, không biết nghĩ tới em sẽ nói gì?” Bà Thẩm đáp: “Chỉ có mắng
chửi thôi.” Bà Vu nói: “Nếu em tu tỉnh thì chẳng có chỗ nào để mắng chửi, mà
cũng chẳng có chỗ nào ghét để chửi mắng.” Bà Thẩm nói: “Ai cũng có lúc lỗi lầm,
chỉ có điều cô ta không thể hiền, nên em biết là cô ta sẽ chửi mắng.” Bà Vu nói:
“Người đáng oán lại không oán thì đức thế nào đủ biết rồi, người đáng đuổi lại
không đuổi thì tài thế nào đủ biết rồi. Những thức ăn hôm trước đem qua cung
dưỡng vốn không phải của con dâu chị gởi đâu, mà là của con dâu em gởi đấy.” Bà
Thẩm giật mình hỏi: “Chị nói gì?” Bà Vu đáp: “San Hô tới đây lâu rồi, những
thức ăn gởi cho em là của nàng thức đêm dệt thuê lấy tiền mua đấy.”

Bà Thẩm
nghe thế nước mắt ròng ròng, nói: “Em còn mặt mũi nào nhìn con dâu nữa?” Bà Vu
bèn gọi San Hô, San Hô rơi lệ bước ra, lạy rạp xuống đất, mẹ đau xót hổ thẹn tự
vả vào mặt mình, bà Vu khuyên mãi mới thôi, từ đó lại là mẹ chồng nàng dâu như
trước. Hơn mười hôm sau cùng trở về, trong nhà chỉ còn vài mẫu ruộng xấu không
đủ ăn, chỉ trông mong vào việc sinh học hành thi dỗ, San Hô thì may thuê dệt
mướn. Nhị Thành có tiếng khá giả nhưng anh không qua nhờ vả, em cũng không ngó
ngàng gì tới, Tàng Cô vì chị dâu từng bị đuổi nên khinh bỉ, San Hô cũng ghét cô
ta đanh đá nên không đếm xỉa tới. Anh em ở sát vách nhau, Tàng Cô thường chửi
chó mắng mèo, cả nhà đều bịt tai không nghe, Tàng Cô không cớ gì để gây sự bèn
chửi chồng đánh tỳ nữ. Một hôm đứa tỳ nữ treo cổ tự tử, cha cô ta kiện Tàng Cô.
Nhị Thành lên hầu quan thay vợ bị đánh đập rất nặng nhưng Tàng Cô cũng bị bắt,
sinh chạy chọt lo lót khắp trên dưới cũng không được tha. Tàng Cô bị đánh vào
mười ngón tay tróc hết cả thịt, quan lại tham lam đòi hỏi rất nhiều. Nhị Thành
cầm cố ruộng vườn đem đủ số tới vợ mới được tha về. Nhưng chủ nợ cứ hàng ngày tới
đòi, bất đắc dĩ phải bán hết ruộng tốt cho ông Nhiệm trong làng.

Ông Nhiệm
vì thấy một nửa số ruộng ấy là của Đại Thành nhường cho, mời sinh tới ký tên
vào văn tự bán ruộng. Sinh tới nơi, ông Nhiệm chợt nói: “Ta là An Hiếu liêm
đây, Nhiệm mỗ là ai mà dám mua cơ nghiệp của ta?” Rồi nhìn sinh nói: “Âm ty cảm
động vì vợ chồng con hiếu thảo nên sai ta tạm tới gặp mặt một lần.” Sinh rơi lệ
nói: “Cha có thiêng xin cứu giúp cho em con.” An đáp: “Thứ con hư dâu dữ có gì
đáng tiếc, về nhà rồi mau lo tiền bạc tới chuộc lại cơ nghiệp của ta.” Sinh nói:
“Mẹ con con chỉ kiếm được đủ sống, lấy đâu ra nhiều tiền như thế?” An nói: “Dưới
gốc cây tử vi có vàng chôn, cứ lấy mà dùng.” Sinh định hỏi lại thì ông Nhiệm im
bặt, lát sau tỉnh lại cũng không biết mình vừa nói gì.

Sinh về
kể lại với mẹ, cũng chưa tin lắm thì Tàng Cô đã dắt mấy người gia nhân ra đào
vàng, sâu xuống bốn năm thước mà chỉ thấy có gạch ngói, không có chút gì gọi là
vàng bạc, thất vọng trở về. Sinh nghe nói Tàng Cô đào vàng liền dặn mẹ và vợ
đừng ra nhìn, sau nghe nói không tìm được gì, mẹ sinh lén tới xem chỉ thấy gạch
ngói trộn lẫn với đất cát bèn về. Kế San Hô tới thì thấy dưới hầm đất đều là
bạc nén trắng xóa, gọi sinh tới xem thì quả đúng thế. Sinh nghĩ đây là của ông
cha để lại, không nỡ giấu giếm bèn gọi Nhị Thành tới chia đôi, mang lên mấy lần
mới hết, phần ai người ấy bỏ túi mang về. Nhị Thành cùng Tàng Cô xem lại, mở
túi ra chỉ thấy toàn là gạch ngói cả sợ. Tàng Cô ngờ Nhị Thành bị anh lừa liền
bảo Nhị Thành tới nhà anh dò xét, thì thấy anh đang bày vàng bạc ra giường, mẹ
con đang vui vẻ chúc mừng nhau.

Nhị Thành
vào kể lại với anh, sinh cũng sợ nhưng trong lòng rất thương hại, bèn tặng hết
số vàng bạc của mình. Nhị Thành mừng quá mang đi trả nợ, rất biết ơn anh. Tàng
Cô nói: “Xem đó đủ biết là anh gian trá, nếu không phải là hối hận thì đời thuở
nào có ai đem phần mình được chia mà nhường hết cho người khác không?” Nhị
Thành nửa tin nửa ngờ. Hôm sau chủ nợ sai người tới nói: “Những tiền trả nợ đều
là bạc giả, ta sẽ thưa lên quan.” Hai vợ chồng đều tái mặt. Tàng Cô nói: “Thế
nào nào? Ta đã nói là anh không hiền đến như thế, làm thế là để giết thẳng đấy.”
Nhị Thành sợ hãi tới năn nỉ chủ nợ, chủ nợ căm tức không chịu, Nhị Thành bèn
gán văn tự ruộng mới lấy đủ số tiền đã trả nợ về.

Nhìn kỹ
thấy hai nén bạc bị chặt ra, chỉ có một lớp bạc thật mỏng như chiếc lá bao bên
ngoài, còn bên trong đều là đồng cả. Tàng Cô bèn bàn với Nhị Thành giữ lại hai
nén bị chặt còn bao nhiêu đem trả cho anh xem thử ra sao, lại dặn nói rằng: “Mấy
lần được anh nhường nhịn thật lấy làm bất nhẫn, xin giữ lại hai nén để nhớ ơn,
còn những ruộng đất đã cầm đó cũng là của anh, em không quen làm nhiều ruộng,
những cơ nghiệp đã bỏ đi, có chuộc lại hay không là quyền ở anh.” Sinh không
biết cứ cố nhường, Nhị Thành nhất quyết từ chối. Sinh bèn nhận lại bạc, cân lên
thì thiếu hơn năm lượng, bèn bảo San Hô bán nữ trang bù vào cho đủ số rồi đem
tới trả nợ. Chủ nợ nghi cũng là số bạc cũ, lấy dao chặt ra xem thì sắc bạc
trong ngoài đều như một không khác nhau mảy may bèn nhận bạc, trả lại văn tự
ruộng đất cho sinh. Nhị Thành trả bạc cho anh xong cho rằng thế nào cũng có
chuyện lôi thôi, kế nghe sinh đã chuộc lại được cả ruộng vườn cũ rồi, rất lấy
làm lạ. Tàng Cô nghi là lúc đào lên anh đã giấu hết bạc thật đi, tức giận qua
nhà anh gây gổ chửi mắng, lúc ấy sinh mới rõ vì sao Nhị Thành trả lại tiền bạc.

San Hô
bước ra cười nói: “Ruộng vườn còn cả đây, sao lại giận dữ.” Rồi bảo sinh đem
văn tự ruộng đất ra đưa Tàng Cô. Một đêm Nhị Thành mơ thấy cha về trách mắng, nói:
“Ngươi bất hiếu bất đễ, đã sắp đến ngày chết, một tấc đất cũng không có được
lại còn tranh chiếm ruộng vườn, định làm gì hả?” Tỉnh dậy nói với Tàng Cô, muốn
đem ruộng đất trả lại anh, Tàng Cô chế nhạo là ngu. Lúc ấy Nhị Thành có hai con
trai, đứa lớn bảy tuổi, đứa nhỏ ba tuổi, không bao lâu thì đứa lớn mắc bệnh đậu
chết. Tàng Cô sợ bảo Nhị Thành đưa lại văn tự ruộng đất cho anh, nhưng nói mấy
lần sinh vẫn không nhận. Không bao lâu đứa con nhỏ lại chết. Tàng Cô càng sợ,
tự mang văn tự ruộng đất tới đưa chị dâu, lúc ấy sắp hết mùa xuân, ruộng bỏ
hoang không cày, sinh bất đắc dĩ phải ra gieo cấy.

Tàng Cô
từ đó sửa đổi tính nết, sáng thăm tối viếng mẹ như con hiếu, cũng hết sức kính
trọng chị dâu. Chưa được nửa năm mẹ bệnh chết, Tàng Cô khóc lóc rất đau xót, bỏ
cả ăn uống, nói với người ta rằng: “Cha mẹ chồng chết khiến ta không được hầu
hạ, đó là trời không cho ta được chuộc lỗi đấy.” Sau sinh nở mười lần đều không
nuôi được, bèn nuôi con anh làm con mình. Vợ chồng sinh đều sống lâu, sinh được
ba con trai, hai người thi đỗ Tiến sĩ, người ta thường nói rằng đó là trời báo
đáp lòng hiếu hữu vậy.

Dị Sử thị nói: Nhà nghèo hay
con hiếu, nước loạn biết tôi trung, nhà hay nước cũng đều như thế chăng? Con
dâu dữ cải hóa thì mẹ chết, té ra một nhà hiếu thuận thì kẻ không có đức khó mà
hưởng được. Tàng Cô tự hối cải, nói trời không cho mình chuộc tội, không phải
kẻ ngộ đạo thì làm sao nói ra được câu ấy? Lẽ ra phải chết sớm mà lại được sống
lâu thì cũng là trời tha tội cho, song sống mà không được thanh thản thì là
trời có ý trừng phạt chăng?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3