Tam sinh tam thế - Chẩm thượng thư (Tập 2B) - Phần IV - Chương 14 - Phần 1
Chương 14
01.
Người
phàm trần có một câu thơ, nói về sự ngắn ngủi của ngày xuân, câu thơ đó là “Điểu
ca hoa vũ thái thú túy, minh nhật tửu tỉnh xuân dĩ quy(*)”. Năm xưa, khi Phượng
Cửu nghe được câu thơ đó từ chỗ người phụ thân yêu thích văn chương của mình,
hiếm khi có dịp thể hiện khả năng cảm nhận văn chương của nàng, nói rằng sở dĩ
người phàm trần than vãn ngày xuân ngắn ngủi cũng bởi vì mùa xuân là mùa đẹp nhất
trong bốn mùa, những thứ tốt đẹp đều khiến người ta chìm đắm, cũng không cảm nhận
được thời gian đang trôi qua, khi giật mình quay đầu lại, luôn cảm thấy ngắn ngủi.
Nàng nói ra những lời đó, khiến phụ thân nàng như gặp được tri âm, đợt đó ánh mắt
của người nhìn nàng vô cùng hiền hòa.
(*) Hai câu thơ trong
bài Du xuân ở đình Phong Lạc của nhà thơ thời Bắc Tống Âu Dương Tu. Dịch ý:
Chim ca hoa khoe sắc, thái thú (một chức quan) uống rượu say, ngày mai khi tỉnh
rượu, xuân đã qua mất rồi.
Hôm
nay, khi vứt Tức Trạch thần quân ra khỏi cửa phủ, đứng ngáp mà nhìn theo bóng
dáng xa dần của thần quân, Phượng Cửu lại có chút buồn bã khi nhớ tới câu thơ
này. Khi tỉnh rượu thì ngày xuân đã trôi qua, lần hội ngộ này của nàng và Tức
Trạch mặc dù không ngắn ngủi như vậy, nhưng sáu, bảy ngày quả thực đã trôi qua
nhanh chóng, giống như một cuộc xuân say.
Thực
ra nàng vốn định giữ Tức Trạch ở lại lâu hơn, nhưng việc này khó tránh khỏi có
chút tàn nhẫn đối với Mạch thiếu gia. Hôm qua, Mạch thiếu gia đã gửi cho Tức Trạch
một lá thư dài, vô tình để nàng đọc được, trong thư tội nghiệp trình bày rằng
chàng ta đang trong giai đoạn cuối cùng chế tạo thứ pháp khí kia, loại pháp khí
cao diệu này, khi chế tạo thành hình sẽ rất hung dữ, nếu không xử lý tốt, khoan
nói tới việc lãng phí công sức trước đây, có thể còn bị nó tấn công lại, việc
này vô cùng quan trọng, mong thần quân sớm hồi cung lo liệu.
Cuối
thư còn xót xa rơi lệ hỏi một câu, mấy ngày trước chàng ta đã gửi cho thần quân
tổng cộng là mười một bức thư dài, thần quân không nhận được hay nhận được rồi
đã coi như giấy vụn, đem nhóm đèn rồi.
Lúc
đó nàng bèn nhớ ra trong mấy đêm gần đây, dường như trong nến có phảng phất mùi
mực, trong lòng bất giác thấy thông cảm với Mạch thiếu gia.
Với
một trái tim thông cảm và đại nghĩa, ngày hôm sau, nàng dứt khoát ném Tức Trạch
ra khỏi phủ.
Ném
Tức Trạch đi, quả thực cũng có chút đáng tiếc, mấy ngày nàng ở bên Tức Trạch,
nàng đi chơi các nơi trong Vương thành một cách rất thích thú, cuộc sống thú vị
hơn trước đây nhiều.
Ví
dụ như Tức Trạch dẫn nàng đi thả câu, thực ra nàng không có hứng với việc này lắm,
vốn nghĩ chỉ là chiều theo chàng thôi, nhưng khi đã đi rồi, nàng lại là người
chơi đùa thỏa thích nhất. Tức Trạch chuẩn bị một chiếc thuyền nhỏ giản dị, phía
mũi thuyền đặt một bếp lò nhỏ và các lọ đựng tương, dầu, mắm, muối, đưa nàng
xuôi theo dòng nước, thưởng thức cảnh xuân bên ngoài thành, gần đến trưa, chàng
neo thuyền lại, khi chàng câu cá thì nàng hâm rượu, cá câu lên nàng dùng để làm
một bữa ăn thịnh soạn, dùng xong bữa trưa, chàng chèo thuyền vào một đầm sen gần
đó, núp trong bóng râm của đám lá sen, chàng ngồi đọc sách còn nàng nằm trong
lòng chàng ngủ trưa, tia nắng mặt trời xuyên qua đám lá sen, chiếu lốm đốm lên
mặt nàng, nàng liền áp mặt vào lồng ngực của chàng.
Chàng
rất thích vừa cầm sách vừa vô thức đùa nghịch những sợi tóc mềm mượt của nàng,
trước đây, khi nàng còn là một tiểu hồ ly ở cung Thái Thần, Đông Hoa Đế Quân
cũng thích đùa nghịch bộ lông của nàng như vậy, lúc đó nàng còn là một con thú
cưng, cảm thấy rất dễ chịu, rất an tâm, động tác của Tức Trạch lúc này, không
hiểu sao lại khiến nàng ngoài cảm giác an tâm còn cảm thấy thật thân thiết.
Nàng suy đoán chắc là vì hai người tâm ý tương thông, lại thầm than rằng bốn chữ
“tâm ý tương thông” này thật thần diệu biết bao.
Bởi
vì Tức Trạch là một người không hay bận tâm tới lời đàm tiếu của dư luận, ví dụ
như đưa nàng đi thả câu, đưa nàng đi ngắm hoa, cùng nàng xem trò vui, chàng đều
thoải mái thực hiện, cũng chưa từng nghĩ tới chuyện cải trang che giấu, vì vậy
khó tránh khỏi việc gặp phải người quen nhận ra họ. Với bộ tộc Tỷ Dực Điểu, việc
các đôi phu thê quý tộc cùng nhau dạo chơi trong ngày xuân không phải là chuyện
hiếm, nhưng những đôi phu thê khác ra ngoài dạo chơi thường thích khoe khoang
phô trương, dạo chơi bằng cách đi bộ thăm thú đường phố như hai người bọn họ lại
quả thực rất khác biệt. Chỉ mấy ngày sau, thông tin Thần Quan Trưởng tiền nhiệm
và nhị công chúa tình cảm phu thê mặn nồng được lan truyền khắp Vương đô, một lần,
Phượng Cửu vào cung thỉnh an, ánh mắt của Quân Hậu nhìn nàng cũng có phần khác
thường.
Phượng
Cửu không bận tâm lắm tới việc chuyện này lan truyền trong cung như thế nào,
nàng chỉ thầm lo lắng, không thể để Trầm Diệp biết được. Phượng Cửu cảm thấy,
theo một câu ngạn ngữ dưới phàm trần, hành động này của nàng là một hành động
ăn trong chén, nhìn trong nồi, là một hành động tồi tệ. Nhưng nàng đã nhận lời
với Mạch thiếu gia, trong lòng cho dù áy náy, cũng chỉ có thể toàn tâm toàn ý
làm một kẻ tồi tệ tử tế. Một kẻ tồi tệ tử tế là như thế nào? Các tiên sinh mặc
dù chưa từng dạy, nhưng may mà có Liên tam điện hạ trên thượng giới để tham khảo.
Chiều
ngày thứ ba sau khi Tức Trạch đi, lão quản gia tới mang theo lời mời của Trầm
Diệp. Phượng Cửu vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, có chút mơ hồ trước lời mời
gọi này. Trong câu chuyện của Mạch thiếu gia, Trầm Diệp dường như chưa từng chủ
động mời A Lan Nhược tới Mạnh Xuân viện? Hay là thực ra trước đây Trầm Diệp đã
từng mời, chỉ là Mạch thiếu gia không biết mà thôi, hoặc là chàng ta quên không
nói với nàng? Nàng mang theo nghi vấn đó, giữ tâm lý lấy bất biến ứng vạn biến,
bước vào Mạnh Xuân viện, vòng qua Tiểu Thạch lâm, bước vào Ba Tâm đình.
Trong
đình lúc này không một bóng người, một chiếc bình lưu ly đặt trên bàn đá trống.
Ánh nắng mặt trời u ám buổi chiều chiếu vào, lớp sương mù trắng bạc cuộn xoáy
trong bình nhuốm một màu vàng rực, chắc chiếc bình đã được thi triển kết giới,
lớp sương mù cuồn cuộn bên trong bình không có cách nào thoát ra được.
Phượng
Cửu vô cùng hiếu kỳ, đặt tay lên thân bình, một cảm giác ớn lạnh tới tận xương
tủy xông thẳng lên đầu nàng. Nàng run rẩy, định thu tay về, nhưng chiếc bình
như dính chặt lấy tay nàng. Phượng Cửu có chút kinh ngạc, nhất thời chỉ chú ý
vào chiếc bình, cũng không lưu tâm tới mọi động tĩnh xung quanh, cho tới khi một
giọng nói vang lên bên tai: “Có thấy quen thuộc không?”. Phượng Cửu ngẩng đầu
lên, bắt gặp đôi mắt trầm tĩnh lạnh lùng của vị công tử áo đen. Trầm Diệp.
Nàng
quả thực cảm thấy có phần quen thuộc, bởi vì thực ra chiếc bình này có vài phần
giống với chiếc bình mà hồi nhỏ nàng thường dùng để chơi dế. Nhưng nàng lờ mờ cảm
thấy rằng, Trầm Diệp chắc không hỏi nàng chuyện đó. Nàng thấy khi Trầm Diệp giơ
tay lên, một tay kết ấn, chỉ trong nháy mắt, kết giới trong bình lưu ly đã hoàn
toàn biến mất. Phía xa vang lên tiếng gió, tiếng sấm chớp, giống như tiếng ma
quỷ gào khóc, trong nháy mắt mây đen kéo tới đầy trời. Ánh chớp rạch ngang bầu
trời xám xịt, mặt trời lặn xuống, thay vào đó là một vầng trăng khuyết. Ánh
trăng khuynh thành.
Khác
với sắc trời yêu dị này, lớp sương trắng mềm mại trong bình lại dần dần dịu lại,
giống như một áng mây bị xé vụn, từng sợi từng sợi len lỏi giữa các đầu ngón
tay của Phượng Cửu. Cảm giác ớn lạnh từ từ ngấm dần vào xương ngón tay của
nàng.
Bầu
trời xuất hiện hiện tượng không lành này, hoặc bởi vì yêu nghiệt đã bị thu phục,
hoặc có ai đó đang thi triển pháp thuật nghịch thiên. Nàng gắng gượng chịu đựng
cơn choáng váng xộc lên trong đầu, nhìn về phía Trầm Diệp: “Đây là… đây là pháp
thuật gì vậy?”.
Vị
thần quan áo đen chăm chú nhìn lớp sương trắng đang chui vào người nàng, lạnh
nhạt nói: “Nàng đã từng nghe nói, trong số đám địa tiên có giới hạn về tuổi thọ,
cũng giống như người phàm trần, có thể dùng đèn Kết Phách hoặc pháp thuật khác
để tạo ra một hồn phách mới chưa?”. Dừng lại một lát, nhìn nàng nói: “Nếu hồn
phách đã bị thiêu đốt thành tro bụi, ngay cả đèn Kết Phách trên thượng giới
cũng không có tác dụng, nhưng có người nói với ta rằng, nếu có thể tạo ra mộng
cảnh này, không những có thể làm lại từ đầu, còn có thể có công dụng giống như
đèn Kết Phách, tạo ra một hồn phách mới cho người đã khuất”.
Phượng
Cửu sững người lại, nàng có một ấn tượng mơ hồ là bản thân mình dường như đã từng
nghi ngờ, mộng cảnh này có thể là do Trầm Diệp tạo nên, nhưng sau đó tại sao lại
không tìm hiểu kỹ thì dù thế nào cũng không nhớ ra nổi. Hôm nay chàng ta lại thẳng
thắn thừa nhận như vậy, nàng không hề cảm thấy kinh ngạc như trong tưởng tượng
của mình.
Nàng
và Tô Mạch Diệp đã tạo ra một màn kịch lớn, vốn còn có chút áy náy, nào ngờ, Trầm
Diệp lại cũng đang diễn kịch.
Còn
một chút tỉnh táo duy nhất sót lại trong đầu, nàng biết rằng ít nhất nàng phải
giả bộ kinh ngạc, giả bộ không biết gì để chứng minh rằng nàng quả thực là A
Lan Nhược trong thế giới mà Trầm Diệp tạo ra. Xem ra, chàng ta quả thực cũng
không hề nghi ngờ nàng.
Tầm
nhìn đã trở nên mơ hồ, nàng cắn chặt môi lại, nghe được giọng nói rất khẽ của
chàng ta: “Sai lầm thì cũng đã sai lầm rồi, ta chưa từng muốn lừa gạt nàng làm
lại từ đầu, nhưng cho dù thế nào, nàng phải quay trở lại, hận ta cũng được, coi
ta là người xa lạ cũng được, đó đều là một kết quả, để có ngày hôm nay, ta đã
chờ đợi suốt hai trăm ba mươi năm rồi”. Sau mỗi câu nói, sắc mặt chàng ta lại
trắng hơn một chút, dường như mỗi câu nói này đều khiến chàng ta cảm thấy đau
khổ, nhưng giọng nói lại rất lạnh lùng.
Đợi
đến khi hồn phách màu trắng bạc đó chui hết vào trong cơ thể của Phượng Cửu,
nàng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, bên tai vang lên câu nói cuối cùng, dường
như đến từ thế giới bên ngoài: “Bọn họ nói thế giới này là tâm ma của nàng, chỉ
riêng mình ta biết, nàng chưa bao giờ có tâm ma, người có tâm ma chính là ta”.
Phượng
Cửu chưa từng biết rằng, rơi vào một giấc ngủ say lại là một chuyện đau khổ như
vậy.
Xét
về lý, lợi ích của việc ngất đi là không có tri giác. Hiện giờ cơ thể của nàng
quả thực không có cảm giác gì, nhưng trong ý thức lại vẫn có chút bị đày đọa.
Trong
tâm trí, nàng giương mắt lên nhìn hồn phách của mình đánh nhau với một hồn
phách khác, đối với bất kỳ ai, trải nghiệm này cũng đều rất mới mẻ. Lúc đầu,
Phượng Cửu thực ra không kịp phản ứng lại, còn khoanh tay đứng bên cạnh xem trò
vui, cho tới khi hai luồng khí trạch ngay trước mắt quấn lấy nhau càng lúc càng
dữ dội, thậm chí còn cắn nuốt lẫn nhau, nàng bắt đầu cảm thấy đau đầu, mới giật
mình ý thức được rằng hai hồn phách trước mặt đang đánh nhau.
Nàng
cảm thấy ngày hôm nay bản thân mình vô dụng tới mức khiến người ta kinh ngạc, nàng
không thể ngăn cản hai hồn phách gây lộn, chỉ có thể chịu đau đớn, xét về tình
về lý coi như còn có thể tha thứ được, nhưng ban nãy, khi ngón tay của nàng bị
dính chặt vào chiếc bình lưu ly, nàng cũng không thể kháng cự lại, chuyện này rất
kỳ lạ.
Đầu
nàng đau đến nỗi dường như có vô số nhạc tiên vác chiêng lớn đồng loạt gõ mạnh
trong đó, Phượng Cửu cố gắng nhịn đau để phân tâm suy nghĩ, vừa chợt nghĩ ra
chút gì đó, lại nhìn thấy hồn phách của mình đột nhiên thị uy, nuốt gọn hồn
phách của A Lan Nhược. Chính vào lúc hồn phách của A Lan Nhược biến mất, một trận
tuyết lớn liền trút xuống, chỉ trong chốc lát đã tích thành một tấm gương dài
ngay trước mặt nàng. Nàng không nhớ bài học lần trước, lại đưa tay ra, khi đầu
ngón tay chạm vào mặt gương, một sức mạnh cực lớn kéo nàng vào trong đó. Còn
chưa kịp đứng vững, một đoạn ký ức từ đầu bên kia của thời gian ào ào kéo đến.
Đó
không phải là ký ức của nàng, đó là ký ức của A Lan Nhược. Phía sau tấm gương
bí hiểm này là cuộc đời của A Lan Nhược, là mọi suy nghĩ của A Lan Nhược, là niềm
vui nỗi buồn của A Lan Nhược, chỉ trong giây lát ngắn ngủi, nàng đã cảm nhận được
tất cả. Đoạn quá khứ đó giống như một cây đèn kéo quân, chuyên chở những câu
chuyện vụn vặt, cứ xoay tròn không ngừng nghỉ, nhưng mỗi một vòng quay đều hiện
lên những phong cảnh khác nhau.
Phượng
Cửu có chút hiếu kỳ, tình cảnh này, lẽ nào là do hồn phách của nàng đã nuốt hồn
phách của A Lan Nhược, khiến A Lan Nhược nhập vào trong người của nàng, trở
thành một bộ phận của nàng? Vậy A Lan Nhược còn có thể sống lại như lời Trầm Diệp
nói không, nếu nàng ấy sống lại, bản thân mình sẽ ra sao?
Vấn
đề liên quan đến tính mệnh này, nàng chỉ suy nghĩ trong một thời gian ngắn, cảm
thấy những chuyện nhàm chán này đợi sau khi tỉnh lại suy nghĩ cũng được, không
nên lãng phí thời gian, trước mắt còn có một chuyện quan trọng đang cấp thiết
chờ đợi nàng khám phá, cần nàng hao tâm tổn trí. Sau khi suy nghĩ thông suốt,
nàng lập tức vứt điều nghi vấn đó qua một bên, vô cùng hào hứng, toàn tâm toàn
ý quan tâm tới một việc quan trọng khác đang cấp thiết chờ đợi nàng khám phá -
đó là sau chuyện gặp hoạn nạn biết được chân tình trong thạch trận giam hãm
khuyển nhân ở Kỳ Nam hậu sơn, câu chuyện tiếp sau đó giữa Trầm Diệp và A Lan
Nhược như thế nào?
Nàng
tốn công lục tìm trong hồi ức, xâu chuỗi nhiều đoạn ký ức lại, nhìn thấy một
vài cảnh tượng thực sự, đầu tiên chính là hai năm mà Mạch thiếu gia nói là
không biết rõ lắm.
02.
Trong hai năm sương mù dày đặc đó, Phượng Cửu vui mừng vì mình đã đoán đúng, Trầm Diệp và A Lan Nhược quả thực có một mối chân tình. Bởi vì đây là hồi ức của A Lan Nhược, tấm lòng của A Lan Nhược đối với Trầm Diệp vô cùng rõ ràng, nhật nguyệt có thể làm chứng, còn tấm lòng của Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, chắc năm xưa A Lan Nhược chưa bao giờ thấy rõ, giờ đây, Phượng Cửu đương nhiên cũng không thấy rõ lắm.
Liên tam điện hạ ở trên thượng giới có mấy lời phát ngôn rất nổi tiếng, nói rằng một mối tình sẽ như thế nào, thì phải xem xem người trải qua mối tình đó là người như thế nào. Ví dụ như trên thế gian có mối tình mãnh liệt sục sôi, cũng có mối tình êm đềm bình lặng, còn có những mối tình tương kính như tân(*). Có người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện ra bằng lời, có người tình cảm sâu sắc và lời nói cũng nồng nàn. Không thể nói tình yêu của người khác không giống với tình yêu của mình thì tình yêu của người khác không được coi là tình yêu.
(*) Tương kính như tân: luôn tôn trọng nhau, coi trọng nhau như khách.
Nàng luôn khâm phục Liên tam điện hạ là một cao thủ trong chuyện phong nguyệt, phong nguyệt kinh mà đích thân Liên tam điện hạ nói đương nhiên là một tấm chân kinh. Nàng đem tấm chân kinh ấy khoác lên người Trầm Diệp và A Lan Nhược, cảm thấy hai năm qua, dẫu rằng hành động của Trầm Diệp hiếm khi quá thân mật với A Lan Nhược, trong lời nói cũng khó có thể chọn ra lời yêu đương nào đau đớn để bình luận, nhưng có thể, chàng ta chính là kiểu người tình cảm sâu sắc nhưng không thể hiện bằng lời nói, tình cảm của chàng ta chính là loại tình cảm tương kính như tân.
Hồi ức về hai năm đó quá vụn vặt, Phượng Cửu lười không muốn kiểm tra từng thứ một, chọn bừa một đoạn trong khoảng thời gian cuối cùng, mở ra xem. Cảnh tượng đập vào mắt là một hồ sen rộng lớn như một tấm gương, giữa hồ sừng sững một mái đình, trên chiếc bàn đá trong đình đặt một đống hoa mà nàng không biết tên, bên cạnh là một chiếc bình miệng rộng.
Trầm Diệp tay cầm sách, ngồi bên cạnh bàn đá, hai năm sống ẩn dật khiến khí chất lạnh lùng của chàng càng lắng đọng hơn, chăm chú nhìn vào cuốn sách, thi thoảng lại lật một trang. A Lan Nhược ngồi bên cạnh chàng, chăm chú nghiên cứu bó hoa trên bàn, lúc thì ướm cành hoa đã được cắt tỉa vào miệng bình, lúc lại khua khua trước mặt Trầm Diệp để chàng nhìn xem nàng cắt tỉa có đẹp không, có cần phải sửa lại không.
Nhiều lần như vậy, Trầm Diệp rời mắt khỏi cuốn sách, lạnh lùng nói với nàng: “Nàng ngồi cạnh ta chỉ để quấy rầy ta đọc sách sao?”.
A Lan Nhược dùng cành hoa nâng cằm của chàng lên: “Một mình đọc sách chẳng thú vị chút nào, nô gia chiều theo đại nhân như vậy”, nàng mỉm cười: “Chẳng phải là vì đại nhân không muốn rời xa nô gia dù chỉ một khắc hay sao?”.
Trầm Diệp nghiêng đầu né tránh, bất đắc dĩ chỉ vào nơi lá hơi dày trên cành hoa: “Bản lĩnh tự quyết định của nàng càng ngày càng tiến bộ, chỗ này cành hơi dài, lá cũng hơi nhiều một chút”.
A Lan Nhược ung dung mỉm cười: “Đại nhân quá khen, nô gia chỉ là giỏi suy đoán tâm tư của đại nhân mà thôi”.
Trầm Diệp đón lấy chiếc kéo cắt hoa trong tay nàng, bàn tay khẽ run lên, nói: “Còn gọi ta một tiếng đại nhân, tự xưng thêm một tiếng nô gia nữa, ta sẽ vứt nàng ra ngoài đấy”.
A Lan Nhược dịu dàng mỉm cười: “Đại nhân đã nhiều lần nói sẽ vứt nô gia ra ngoài, nhưng chưa lần nào làm được”. Khi thu lại cành hoa, đài hoa vừa hay chắn ngang tóc mai bên tai nàng, toát lên một vẻ kiều diễm riêng có, ánh mắt của chàng dừng lại khá lâu trên khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng, nàng như không nhìn thấy, khi cắm nốt cành hoa cuối cùng vào trong bình, lại nghe thấy giọng nói rất khẽ của chàng: “Quay lại đây”.
Nàng quay đầu lại nhìn chàng, ánh mắt vẫn ẩn chứa nụ cười: “Ban nãy chỉ là nói đùa, huynh đừng vì giận dỗi mà vứt muội đi”.
Chàng lại không nói gì, đứng lên hái một đóa hoa nhỏ trong bình, hơi cúi người xuống, cài đóa hoa lên vành tai nàng, ngón tay của chàng dừng lại sau khi khẽ vuốt ve tóc mai của nàng, rút tay lại, cầm sách lên, ánh mắt lại chăm chú nhìn vào trang sách, sau một hồi im lặng, còn ra vẻ lật một trang.
Nàng sững người lại, đưa tay chạm vào đóa hoa nở rộ bên vành tai, một hồi lâu sau khẽ nói: “Đôi khi muội cảm thấy không đủ, nhưng đôi khi lại cảm thấy huynh như vậy rất tốt”.
Ánh mắt của chàng lại rời khỏi quyển sách ngước lên nhìn nàng, dường như có chút nghi hoặc: “Cái gì không đủ?”. Nhưng nàng chỉ mỉm cười lắc đầu.
Ánh nắng ban mai nhuộm một màu ấm áp lên ngôi đình nhỏ giữa hồ, bầu trời cao rộng, làn nước sâu thẳm, hồ sen yêu kiều dưới nắng sớm, tỏa hương thơm ngát. Hình ảnh hai người ngồi tựa bên nhau trong đình dần dần tan biến trong ký ức, chỉ lưu lại một cái bóng nhạt màu giữa không gian rộng lớn.
Cái bóng này khiến Phượng Cửu xúc động, thậm chí có chút thương cảm khi cảm thấy rằng nếu câu chuyện của hai người bọn họ mãi mãi dừng lại ở đây cũng không có gì là không tốt. Nhưng những việc phải đến rồi sẽ đến, hôm đó Mạch thiếu gia đã nói rằng vài lời ghi chép ít ỏi trong sử sách về những chuyện xảy ra sau hai năm này vô cùng thê thảm. Phượng Cửu cảm thấy rằng, sử sách ấy mà, khó tránh khỏi có những khi không đúng với sự thật. Nhưng khi lật giở tỷ mỉ khoảng ký ức tiếp sau đó, nàng kinh ngạc phát hiện ra rằng sử sách ghi chép những việc liên quan tới cái chết của Thượng Quân Tương Lý Khuyết lại chính xác một cách hiếm thấy.
Đêm ngày mười sáu tháng bảy, từ trong cung truyền tin ra ngoài, nói rằng Thượng Quân đã băng hà vì lâm bệnh nặng. Thượng Quân trước nay sức khỏe tráng kiện, nhưng không hiểu đã mắc phải căn bệnh nan y nào mà nói băng hà là băng hà luôn. Khi thông tin được truyền đến, A Lan Nhược và Trầm Diệp đang chơi cờ, quân cờ màu đen rơi “cạch” xuống bàn cờ, làm rối loạn cả thế trận, Trầm Diệp cầm quân cờ màu trắng, yên lặng, đám nô tỳ mang chiếc áo choàng đi đêm tới, hoang mang lo sợ vắt lên tay nàng. A Lan Nhược vội vã bước ra cửa, khi bước qua bục cửa, còn quay đầu lại nói: “Nước cờ vừa rồi không tính, thế cờ này cứ giữ nguyên như vậy, hôm khác hai chúng ta chơi lại xem ai thắng ai thua”. Trầm Diệp cất tiếng: “Đợi đã”. Chàng đứng lên, ngắt một đóa hoa trắng trong chiếc bình hoa đặt bên cạnh thư án, chậm rãi đi tới trước mặt nàng, rút cây trâm bằng ngọc cài trên mái tóc của nàng ra, cài đóa hoa trắng vào tóc nàng, ngón tay khẽ vuốt ve tóc mai của nàng rồi dừng lại, mới nói: “Đi đi”.
Ba ngày sau A Lan Nhược mới được rảnh tay quay về phủ, trong phủ vẫn như thường ngày, riêng vị Thần Quan Trưởng làm khách ở Mạnh Xuân viện suốt hai năm vài khắc trước vừa được đón về Kỳ Nam thần cung rồi.
Lão quản gia đưa tay lau mồ hôi túa ra trên trán, bẩm báo rằng đang định sai người vào cung báo cho công chúa, không ngờ công chúa đã về phủ rồi, Thần Quan Trưởng vừa mới ra khỏi phủ, chắc cũng chưa đi xa. Ý muốn nói rằng nếu công chúa muốn từ biệt Thần Quan Trưởng, lúc này vẫn còn kịp.
Với thân phận của A Lan Nhược, lúc này mà đuổi theo thực ra không phải là một việc hay ho gì, lão quản gia đã lo lắng tới mức mụ mị cả đầu óc, may mà nàng vẫn giữ được sự tỉnh táo. Nàng chỉ thất thần trong giây lát, cởi áo choàng ra, gỡ đóa hoa trắng đã héo khô trên đầu xuống, ngây người ngồi đó. Gió đêm thổi tới, cánh hoa bị gió thổi rơi rụng, nằm trên nền nhà lát gạch trắng được lau chùi cẩn thận đến nỗi không có một hạt bụi, nó giống như một vết bẩn gì đó. Nàng nhìn cành hoa trơ khấc trên tay, đau khổ cười nói: “Đêm ấy chàng tặng ta cái này, thực ra là đang từ biệt ta? Ta lại không hề nhận ra”.
Triều đại nào có quần thần của triều đại ấy, mỗi Quân Vương khác nhau có sự sắp xếp quyền lực khác nhau. Sức mạnh của thần cung độc lập tới tông thất, dù là Tương Lý Khuyết tại vị, trấn áp một thần cung không có Thần Quan Trưởng còn có chút khó khăn, huống hồ là thái tử Tương Lý Hạ sắp kế vị nhưng lại hoàn toàn không có căn cơ. Đây chính là lý do mà Trầm Diệp được đón về Kỳ Nam thần cung.
Mặc dù đều là quân vương của một nước, những suy nghĩ này của Tương Lý Hạ, Phượng Cửu lại thực sự không thể lý giải. Từ khi nàng biết ghi nhớ mọi chuyện, ngũ hoang ngũ đế ở Thanh Khâu của nàng chỉ thay đổi một vị đế vương, đó là khi nàng thay thế cô cô của nàng. Hơn nữa, nàng còn nhớ rằng, cô cô của nàng từ khi bị thay thế, ngày nào cũng sống rất vui vẻ, ánh mắt cô cô nhìn nàng luôn ẩn chứa sự đồng cảm của người đã từng trải. Hơn nữa, đám thần tử ở Đông hoang phần lớn đều không có bản lĩnh gì, sở thích lớn nhất là cải trang thành dân thường ra bày hàng buôn bán ngoài chợ, nếu có gây lộn phần lớn là vì ai đã tranh mất vị trí bày hàng của ai. Nói theo cách nói đường hoàng của họ thì các thần tiên ở nước Thanh Khâu này tuy mưu cầu một chức vị, nắm giữ một chút quyền lực vì nhà vì nước, nhưng sao có thể giống người phàm trần, để quyền lực quay lại thao túng bọn họ. Mặc dù trong số các vị thần tiên trên Cửu Trùng Thiên cũng có người thích tranh giành quyền lực, nhưng tất cả đều bởi vì họ không có mục tiêu theo đuổi trong cuộc đời, chưa từng biết tới thú vui của việc bày sạp bán hàng, những người đã từng trải qua nhưng vẫn đi tranh giành quyền lực, đó là bởi vì họ không có niềm vui trong cuộc sống. Phượng Cửu cảm thấy, đám thần tử đó của nàng nói đúng hay sai, tạm thời không bàn luận nhiều, nhưng thực sự đã giảm bớt cho nàng rất nhiều công việc.
Đoạn ký ức này từng đoạn từng đoạn liên kết với nhau rất chặt chẽ, giống như một dòng thác lớn dội xuống từ trên vách núi, đập vào lớp đá vụn dưới đáy vực, tung bọt lạnh lẽo. Cái gọi là bi kịch, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, đều mang dáng vẻ đường đột hốt hoảng nhưng lại hung ác vô tình. Đoạn ký ức tiếp theo chính là tin đồn mà Tô Mạch Diệp từng kể với nàng.
Hóa ra, đó không phải là một tin đồn vô căn cứ.
Ngày hai mươi hai tháng bảy, thời điểm nhập quan cho Thượng Quân sắp xong, đêm xuống, phủ công chúa bị bao vây, A Lan Nhược bị khóa bằng khóa sắt, đưa ra khỏi phủ, áp giải vào trong cung, tội danh giáng xuống đầu nàng là tội giết vua.
Viên quan đứng đầu Hình ty chịu trách nhiệm xử lý vụ án này chính là em ruột của Khuynh Họa phu nhân, cậu ruột của nàng.
Thượng Quân băng hà, xét về lý, người thừa kế phải là thái tử, nhưng thái tử Tương Lý Hạ trước đây là một vị thái tử không được coi trọng, lúc này đang là một thái tử ở thế yếu, sau này có thể cũng chỉ là một vị Thượng Quân bù nhìn mà thôi, mọi quyền hạn đều rơi vào tay của Khuynh Họa phu nhân. Mà trong triều ai ai cũng đều biết, vị quan chủ quản của Hình ty kia chính là tâm phúc của Khuynh Họa phu nhân. Nói một cách khác, người đổ tội danh lên đầu A Lan Nhược chính là mẹ ruột của nàng, người ra lệnh giam giữ nàng cũng chính là mẹ ruột của nàng, người một lòng muốn nàng phải chết cũng chính là mẹ ruột của nàng.

