Tam sinh tam thế - Chẩm thượng thư (Tập 2B) - Phần IV - Chương 14 - Phần 2
Ngày thứ bảy sau khi A Lan Nhược bị nhốt trong đại lao, Khuynh Họa phu nhân đại giá, vào trong đại lao thăm nàng. Trong nhà lao chật hẹp, một chiếc nệm cỏ được dùng làm chỗ ngủ, một chiếc bàn gỗ mục nát nhỏ kê cạnh cửa buồng giam, bên cạnh bàn là một ngọn đèn dầu tù mù, A Lan Nhược toàn thân áo trắng, ngồi dựa vào chiếc bàn nhỏ luyện chữ, một tên lính canh đứng gác cạnh một chậu lửa ngoài cửa phòng giam, nàng viết xong trang giấy nào, tên lính canh bèn thu lại rồi đốt luôn trang giấy đó.
Gấu váy dài của Khuynh Họa phu nhân quét qua bậc đá trong nhà lao âm u, nàng nghe thấy tiếng lụa là sột soạt lướt qua mặt đất, ngẩng đầu nhìn người tới một cái, mày mắt cong cong: “Mẫu thân nhớ ra mà tới thăm con, có thể thấy mọi việc trong cung đã được mẫu thân lo liệu ổn thỏa”. Ngữ khí hòa nhã, giống như lúc này họ không gặp nhau trong nhà lao, mà gặp nhau ở hậu hoa viên của vương cung, chào hỏi như bình thường.
Khuynh Họa trong trang phục cung đình trang nghiêm diễm lệ, dừng lại trước cửa nhà lao hai bước, tên lính gác mở cửa buồng giam rồi lui ra. A Lan Nhược kết thúc nét bút đang viết dở, nói tiếp: “Trong nhà lao chẳng có việc gì làm, ban đầu thực ra con chưa hiểu rõ tại sao mẫu thân lại gán tội danh này cho con, nhưng sau khi suy nghĩ một chút, cũng coi như đã hiểu được một vài lý do”.
Khuynh Họa lạnh lùng nói: “Ngươi luôn rất thông minh”. Cúi xuống nhìn vào khuôn mặt của nàng trong giây lát, rút từ trong tay áo ra một văn thư và một bình sứ, cân nhắc trên tay một lát, cúi người đặt lên chiếc bàn gỗ mục nát: “Xem cái này đi”. Giọng nói của bà ta không chút cảm xúc, giống như lời đáp lại qua loa đại khái, không chút tình cảm của bà ta khi ngày thường nàng tới thỉnh an vậy.
Ánh nến leo lét, hắt lên tờ văn thư gấp gọn, lờ mờ hiện lên các nét mực. A Lan Nhược đưa tay mở tờ giấy trước mặt ra, đưa mắt liếc qua những nét chữ cương nghị, đẹp đẽ trên giấy. Trong ánh nến tối mờ, ánh mắt càng di chuyển xuống dưới, sắc mặt lại càng trắng nhợt. Hồi lâu, nàng ngẩng đầu nhìn về phía mẫu thân, ngoài sắc mặt có phần nhợt nhạt, ngón tay vẫn đang run rẩy ra, thần sắc lại rất ung dung, thậm chí khóe môi còn nở một nụ cười: “Bức văn thư mà Trầm Diệp đại nhân trình lên này viết rất quy cách, không phóng khoáng phong lưu như thường ngày”.
Khuynh Họa nhìn nàng, ánh mắt gần như thương hại, hồi lâu, lại hỏi nàng: “Có quen không?”.
A Lan Nhược cúi đầu suy nghĩ, một lúc sau, khẽ cười một tiếng, không trả lời trực tiếp vào câu hỏi: “Phụ thân cả đời quyết đoán, nhưng không ngờ lại thất bại bởi một chữ tình. Phụ thân chắc chưa từng nghĩ rằng cho tới tận hôm nay, mẫu thân vẫn không quên được phụ thân của Quất Nặc. Quất Nặc quả đúng là cái gai trong mắt người, người đuổi Quất Nặc ra khỏi vương thành, cắt đứt tiền đồ của nàng ta, lúc đó chỉ thú sảng khoái nhất thời, nhưng lại chôn mầm họa khiến người lâm bệnh băng hà ngày hôm nay. Nhưng mẫu thân đã nín nhịn nhiều năm qua, chính là người làm việc lớn, đương nhiên không chỉ muốn dừng lại tại đây, mục tiêu cuối cùng của mẫu thân là muốn để Quất Nặc kế vị, giành lại tất cả mọi thứ mà phụ thân đã cướp mất từ tay phụ thân của nàng ta trước đây, đúng không?”.
Nhìn sang ánh nến bên cạnh, lại nói: “Thái tử, con, và cả Thường Đệ, chúng con đều cản đường của Quất Nặc. Thái tử không phải con ruột của mẫu thân, mẫu thân đương nhiên sẽ không nương tay, Thường Đệ đầu óc rỗng tuếch, ngoài bản tính kiêu căng ra, chẳng có gì cả, hoặc làm cho nàng ta phát điên cũng là một cách, tông thất cũng sẽ không để một cô gái bị điên lên làm Thượng Quân. Nhưng nếu cả hai người con gái chờ kế vị đều phát điên sẽ dễ khiến người ta hoài nghi, bàn ra tán vào, nhất định một người trong số đó phải chết, mẫu thân đã giữ Thường Đệ thì con không thể không chết”. Nàng gượng cười: “Con không ngờ mẫu thân lại làm tới mức này, kế sách của mẫu thân, quả thực đã không để lại cho con một chút đường lùi”.
Một bầu không khí yên lặng chết chóc bao trùm trong nhà lao, A Lan Nhược đặt tờ văn thư sang một bên, trải rộng một trang giấy trắng, lại cầm bút lên, một giọt mực rớt xuống trang giấy, lan rộng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân hỏi con sống có quen không, năm xưa bị mẫu thân quẳng vào trong hang rắn, con cũng đã sống được. Lần này khi mẫu thân giam con vào đây, còn không quên việc con thích luyện chữ, phá lệ chuẩn bị giấy mực cho con, giúp con giết thời gian, sao con có thể không quen được?”.
Hồi lâu, Khuynh Họa nói: “Ngươi chắc biết rằng việc này không chỉ dựa vào sức lực của một mình ta”.
Cây bút trong tay A Lan Nhược khẽ run rẩy, tám chữ “phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi” vốn được viết rất đẹp, chữ cuối cùng vì nét bút bị run, đã phá hỏng cả thần khí.
Nhưng nàng vẫn giữ chặt cây bút.
Ánh mắt của Khuynh Họa dừng lại trên chữ của nàng, lạnh lùng nói: “Trầm Diệp từ khi sinh ra đã ở địa vị cao sang, ngay cả Thượng Quân cũng phải kiêng nể vài phần, từ nhỏ đã là một người rất có chủ kiến, tuy vì cứu Quất Nặc mà tự hủy hoại tiền đồ, nhưng mọi chuyện trên thế gian này, thứ mà người ta muốn mưu cầu nhất chính là tiền đồ, hắn vốn có ý định sẽ tính kế lâu dài trong khi bị lưu đày, ngươi lại biến hắn thành vật sở hữu của mình, ngươi có biết rằng việc này đã phạm vào điều đại kỵ của hắn không?”. Liếc nhìn nàng một cái, nói tiếp: “Ban nãy ngươi than rằng phụ thân ngươi nặng tình, cuối cùng bại ở một chữ tình. Phụ thân ngươi thủ đoạn tàn độc, ta sống không bằng chết, lại chỉ có thể dựa dẫm vào ông ta. Còn ngươi thì sao, mặc dù ngươi thông minh, trong chuyện này lại kém xa phụ thân của ngươi, Trầm Diệp chỉ vừa giả vờ có tình cảm với ngươi, đã khiến ngươi dốc hết tấm chân tình, ngươi rơi vào tình cảnh này, chẳng phải cũng bại bởi một chữ tình hay sao?”.
Bóng nến chập chờn in trên tờ văn thư đặt ở mép bàn. Trước kia cũng là những nét chữ này, viết trên trang giấy trắng, hỏi A Lan Nhược số rượu nàng ủ mà chàng tìm thấy trong viện có phải có cách ủ như chàng đã viết trong thư không. Giờ đây, cũng là những nét chữ này, viết ra vài dòng ngắn gọn, nhưng câu nào câu nấy lại hết sức hoang đường, “Tương Lý A Lan Nhược giết vua giết cha, tâm địa độc ác, không khác gì loài lang sói, tội ác đã rõ ràng, còn hơn cả loài hùm beo...”.
Trên tờ giấy tuyên nàng đang viết dở, sau câu “Thiên mệnh định chi” lại thêm tám chữ, “Ưu sầu úy bố, tự hữu tận thời”. Mỗi khi gặp phải những chuyện đau khổ khó mà chịu đựng nổi, nàng thường thích dùng câu này để an ủi bản thân mình. Tám chữ đó được viết một cách mạnh mẽ cứng cỏi, sau khi thu nét bút cuối cùng, nàng khẽ nói: “Mẫu thân nói giả vờ có tính cảm là có ý gì?”.
Ánh mắt của Khuynh Họa càng lộ rõ vẻ thương hại, nói: “Hắn đã xin vương huynh của ngươi một mối hôn sự”.
A Lan Nhược chậm rãi ngẩng đầu lên.
Khuynh Họa nói: “Không phải là một cô nương có thân phận cao quý gì cả, được cái đoan trang trong sáng, làm phu tử trong tông học. Nghe nói cô nương này xuất thân từ phủ của ngươi, tên Điềm, Văn Điềm, một cái tên nghe thật thanh nhã”.
A Lan Nhược nhắm chặt mắt lại, hồi lâu, nói: “Con hơi mệt, mẫu thân xin hãy về đi”.
Khuynh Họa quay người bước đi hai bước, quay đầu lại nói: “Vụ án của ngươi đã được định đoạt trong buổi sáng hôm nay, ba ngày sau hành hình, trưa nay Trầm Diệp trình văn thư này, xin Thượng Quân giao quyền hành hình cho thần cung. Ngươi chắc chắn phải tới thần cung, các dụng cụ hành hình ở thần cung nhiều hơn trong đại lao của Hình ty nhiều, ta biết ngươi dù hồn phi phách tán cũng không muốn chịu sự sỉ nhục này, nếu quả thực không thể chịu đựng nổi, hãy tự kết liễu đời mình bằng thuốc trong bình sứ kia. Đây là sự thương xót cuối cùng mà một người làm mẹ như ta có thể dành cho ngươi”.
Đợi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất khỏi quầng sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, cả người A Lan Nhược đột nhiên run rẩy, phun ra một ngụm máu tươi khiến tờ giấy đặt trên bàn trở nên loang lổ, ngọn lửa nhỏ trong đèn dầu lay động, cuối cùng cũng tắt lịm.
Bóng dáng của Khuynh Họa hơi dừng lại ở cửa nhà lao, khi định cất bước đi tiếp, A Lan Nhược bỗng nhiên lên tiếng, giọng nàng khản đặc: “Mẫu thân đối với con, có gì gọi là thương xót chứ?”.
Sau một trận ho, nói tiếp: “Mẫu thân chắc vẫn còn nhớ, năm xưa Mạch sư phụ cứu con ra từ trong hang rắn, lần đầu tiên gặp người, bọn họ nói rằng người là mẫu thân của con, con đã thật sự vui sướng, người xinh đẹp biết bao. Con nhìn thấy người đi về phía con, liền vội vàng chạy về phía người, muốn xin người một cái ôm, nhưng không cẩn thận bị vấp ngã. Người đi ngang qua con, như thể không nhìn thấy con, như thể con chỉ là một cây hoa, một ngọn cỏ, hoặc một viên đá. Gấu váy của người lướt qua mặt con, quét qua cánh tay bị thương do vấp ngã của con, người bước qua người con mà không buồn liếc nhìn xuống, tiếng sột soạt của lụa là giống hệt như trong buổi tối hôm nay”.
Ngón tay của Khuynh Họa nắm lấy lan can gỗ ngay bên cạnh.
Lại thêm một cơn ho, nàng khe khẽ nói tiếp: “Kiếp này con không biết yêu là gì, mẫu thân tiếc rẻ không cho con, con tự mình giành lấy, mẫu thân cũng hủy hoại nó, thực ra con càng muốn không biết gì hết, sao mẫu thân nhất định phải tàn nhẫn như vậy? Lẽ nào con là kẻ thù của mẫu thân, nhìn thấy con đau đớn là một việc rất vui sướng hay sao?”.
Khóe môi của Khuynh Họa khẽ động đậy, hồi lâu, nói: “Nếu ngươi còn có luân hồi, kiếp sau ta sẽ trả lại ngươi”.
A Lan Nhược mỉm cười, mệt mỏi nói: “Trần duyên với mẫu thân, hãy để nó kết thúc ở kiếp này, nếu còn có luân hồi, con cũng không cầu mong điều gì, chỉ mong trong kiếp luân hồi, sẽ không phải gặp lại mẫu thân nữa”.
Trong sự im lặng chết chóc, tiếng bước chân của Khuynh Họa xa dần, nếu nghe kỹ, có thể thấy thấp thoáng chút rối loạn trong những bước chân tưởng chừng như vững vàng đó. Đợi đến khi bóng dáng của Khuynh Họa biến mất sau cánh cửa âm u của nhà giam, tên lính gác đứng ở đằng xa hốt hoảng chạy lại, châm ngọn đèn dầu khác.
Cảnh tượng cuối cùng trong đoạn này là cảnh A Lan Nhược gấp tờ văn thư nhuốm máu trên bàn lại, chậm rãi đưa vào ngọn đèn dầu, ngọn lửa vờn quanh những vết máu mờ mờ, chỉ trong nháy mắt đã đốt nó thành tro bụi. Tàn tro rớt xuống mặt bàn, còn mang theo một vài đốm lửa nhỏ.
Tô Mạch Diệp đã từng hỏi nàng, nếu một ngày nào đó nàng căm hận vì Trầm Diệp, sẽ là vì điều gì, lúc đó nàng đã nói đùa rằng như vậy chắc chắn là vì đã từng có được, ví dụ như chàng yêu nàng, sau đó không yêu nữa, lại đi yêu người khác. Không ngờ một lời lại đoán trúng như vậy, chàng có lẽ thậm chí chưa từng yêu nàng, ngay cả hồi ức mà nàng tự cho là trân quý đó cũng đều là giả. Thật cao minh biết bao.
Nàng cụp mắt nhìn ngón tay bị lưỡi lửa liếm bị thương, một lúc sau, tự nói với bản thân mình: “Nhìn thấy bộ dạng ngày hôm nay của muội, có phải đã khiến huynh bớt tức giận rồi không, Trầm Diệp?”. Hồi lâu, lại nói: “Huynh có biết cách báo thù như thế này, đối với muội, có phần quá nặng rồi không”. Ngọn đèn dầu soi bóng nàng nghiêng nghiêng lên bức tường đá tối tăm, tư thế rất đoan trang nghiêm ngắn nhưng lại vô cùng mỏng manh.
03.
Thế sự xoay vần, khó được như mong muốn của con người. Khó như ý của A Lan Nhược, cũng chưa chắc đã hợp ý của Khuynh Họa.
Một ngày trước khi bị dẫn giải tới Kỳ Nam thần cung, A Lan Nhược đã bị cướp đi.
Kỳ Nam hậu sơn, sắc trời êm dịu, ánh nắng ấm áp, trong rừng thi thoảng vọng ra tiếng chim hót, ngay cả con khuyển nhân trong thạch lâm cách đó không xa cũng an nhàn ưỡn bụng phơi nắng, tất cả đều hiền hòa tĩnh lặng, dường như mọi biến động bên ngoài núi đều là những thứ vô nghĩa lý và nực cười.
Khi Phượng Cửu nhìn thấy vị công tử áo trắng đang ngồi trên ghế đá nói lý với A Lan Nhược, thực ra nàng không nhận ra đó là ai.
Mái tóc đen của vị công tử đó được búi gọn lên đỉnh đầu, một khuôn mặt điềm nhiên lạnh lùng, lời nói hành động lại không hề câu nệ, nâng nâng bắp ngô trên tay, dường như hận một nỗi không thể gõ bắp ngô đó lên trán A Lan Nhược: “Sự việc đã đến nước này, cái vương cung ghẻ đó còn gì đáng để ngươi phải nhớ nhung chứ, khó khăn lắm ta mới cứu được ngươi ra khỏi đó, ngươi lại vội vã đòi quay trở lại, lẽ nào là vì Trầm Diệp?”. Nói đến đó, chàng ta hơi trầm ngâm, gõ gõ bắp ngô lên mặt đá: “Không đúng, tới lúc này còn không quên được hắn ta, điều này không giống tính cách của ngươi, ngươi xuống núi, rốt cuộc là muốn làm gì?”.
Bên cạnh phiến đá mà vị công tử đó ngồi có hai cây cổ thụ xum xuê xanh tốt, giữa hai thân cây mắc một cái võng để nằm hóng mát bằng dây leo to chắc, A Lan Nhược ngồi dựa trên võng, đưa mắt ra xa ngắm nhìn cảnh sắc bên ngoài rừng cây, chậm rãi nói: “Trước đây ngài thường nói: Đời người trên trần thế này chẳng qua chỉ là một cuộc trải nghiệm, ta cảm thấy rất có lý. Cuộc đời dài hay ngắn quan trọng là ở trải nghiệm, trải nghiệm nhiều thì cũng là sống lâu, trải nghiệm ít thì cũng như chưa sống được bao nhiêu. Gần đây ta đã hiểu, cuộc đời này của ta, có vẻ rất ngắn ngủi, thực ra cũng có thể coi là rất dài”. Dừng lại một lát, nói tiếp: “Nếu nói trong vương cung còn có ai đó đáng để bận tâm thì chỉ có vương huynh mà thôi, tính cách của huynh ấy lạnh lùng, thực ra không hề quan tâm đến vương vị, trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu chắc chắn không phải là ngẫu nhiên, nhất định là mẫu... là kế sách của Khuynh Họa phu nhân, muốn mượn đao giết người, trừ khử vương huynh. Vương huynh không phải là một vị tướng giỏi, một khi ra chiến trường, nhất định sẽ không thể sống sót mà quay trở về”.
Vị công tử áo trắng cau mày nói: “Cho dù Tương Lý Hạ đối tốt với ngươi, nhưng đây là số kiếp của hắn, trong hoàn cảnh này, ngươi còn có thể bảo toàn tính mạng cho hắn ư? Lúc này ngươi đã thoát ra khỏi vòng nước xoáy, hà tất phải tự lao đầu vào đó nữa”.
A Lan Nhược chậm rãi đáp lời: “Ngài đã biết tính ta, thì cũng nên đoán được rằng ta không thể bỏ mặc vương huynh. Ta sẽ ra chiến trường thay cho vương huynh, đến lúc đó vẫn cần nhờ ngài để mắt giúp đỡ. Ngài yên tâm, ta rất quý mạng sống của mình, sẽ tự cân nhắc nặng nhẹ, so với vương huynh, ta vẫn còn cơ hội sống sót”. Liếc nhìn khuôn mặt nghiêm nghị của vị công tử áo trắng, cười nói: “Hiếm khi nhìn thấy sắc mặt này của ngài, may mà kiếp này những người đối tốt với ta không quá nhiều, ngài và Mạch sư phụ cũng không xui xẻo như vương huynh, không cần ta phải mạo hiểm ứng cứu như vậy”.
Công tử áo trắng chăm chú nhìn nàng trong giây lát, nói: “Ngươi luôn rất bướng bỉnh, giờ đây ta có nói gì cũng không thể giữ ngươi ở lại, chiến trường là nơi nguy hiểm, nếu lần này đi không trở lại thì sao?”.
Nàng điềm tĩnh đáp: “Nếu lần ra đi này không thể trở lại, cho dù ta chết đi, cũng là chết trận dưới danh nghĩa của vương huynh, còn có ý nghĩa hơn bị Khuynh Họa phu nhân ép tự sát nhiều. Đến lúc đó phiền ngài thay tên đổi họ cho vương huynh, đưa huynh ấy đến một nơi an toàn, để huynh ấy sống một cuộc sống bình thường”. Hồi lâu, nói tiếp: “Ta đã từng viết cho Trầm Diệp hai mươi bức thư, cũng phiền ngài giúp ta lấy lại, trong thư toàn là những tình cảm chân thật, để ở chỗ của huynh ấy, ta thấy có chút nực cười”.
Công tử áo trắng thở dài một tiếng: “Những điều ngươi dặn dò ta đều đã ghi nhớ, chỉ mong rằng đến lúc đó ta không phải làm những việc này, khi nào thì ngươi xuống núi?”.
Nàng nằm trên chiếc võng được bện bằng dây leo, thoải mái đặt tay ra sau gáy, một nụ cười hiện lên trên khóe môi: “Gió mát, nắng nhẹ, hôm nay là một ngày rất thích hợp để ngủ, hãy để ta trộm chút thảnh thơi(*)”.
(*) Nguyên tác Hán Việt là “Thâu đắc phù sinh bán nhật nhàn”, câu thơ trích trong bài Đề Hạc Lâm tự bích (Đề trên tường chùa Hạc Lâm) của nhà thơ đời Đường, Lý Thiệp. Ý nghĩa câu thơ là giải thoát bản thân khỏi sự phiền não buồn chán để bản thân tới một nơi thoát tục, tu dưỡng tâm hồn.
Cảnh đào nguyên ở Kỳ Nam hậu sơn dần dần biến mất trong bóng mờ của hoàng hôn, trái tim của Phượng Cửu trĩu nặng, cố gắng mở nốt đoạn ký ức cuối cùng. Nếu nói đến sách truyện, ở chỗ cô cô Bạch Thiển của nàng lưu giữ rất nhiều sách, từ nhỏ nàng được nghe được đọc nên đương nhiên cũng biết khá nhiều, những câu chuyện bi thương như vớt ra từ bình nước mắt, nàng đã đọc qua không biết bao nhiêu cuốn, nhưng vẫn không sánh được với câu chuyện mà nàng chứng kiến lần này. Đoạn hồi ức này thậm chí còn không có nửa giọt nước mắt, nhưng lại giống như một thanh kiếm tuyệt thế, vô cùng lạnh lùng và nặng nề, khi cướp đoạt tính mạng của người khác lại vô cùng gọn gàng dứt khoát, tuyệt đối không dây dưa lằng nhằng. A Lan Nhược bị tổn thương một cách bình lặng, đau đớn một cách bình lặng, ngay cả khi lao tới chỗ chết, cũng lao đi một cách vô cùng bình lặng.
Theo sử sách ghi chép lại mà Tô Mạch Diệp kể cho Phượng Cửu nghe, nói rằng Tương Lý Hạ ngự giá thân chinh ra chiến trường, chiến đấu suốt mười bảy ngày, vì không đủ mạnh nên cuối cùng đã tử trận trên chiến trường. Trong đoạn ký ức này Phượng Cửu thấy được chân tướng bị che đậy phía sau trang sách sử mỏng manh. Người tử trận trên chiến trường không phải là Tương Lý Hạ, mà là A Lan Nhược.
Trận chiến với bộ tộc Dạ Kiêu, nguyên nhân là do bộ tộc Tỷ Dực Điểu dung túng cho dân vùng biên vượt biên săn bắn, hai bộ tộc giao chiến, đương nhiên chiến trường diễn ra ở vùng biên cương. Sông Tư Hành lững thững chảy từ thời viễn cổ, chảy tới tận cùng phía Nam, vòng qua hẻm núi Bình Vận, rồi hòa vào lòng biển Từ Bi hết năm này qua năm khác. Đoạn sông Tư Hành chảy từ núi Bình Vận ra biển Từ Bi thường được gọi là sông Nam Tư Hành, bên sông có một khu rừng nhạc âm rộng lớn, trồng toàn cây nhạc âm. Hai tộc Tỷ Dực Điểu và Dạ Kiêu đời đời lấy khu rừng này làm biên giới giữa hai nước.
Ngày mùng bảy tháng tám, A Lan Nhược lao tới chiến trường. Chiến sự bắt đầu từ ngày mùng một, mới có sáu ngày, bộ tộc Tỷ Dực Điểu đã mất rất nhiều đất đai, bị đẩy lùi về phía nam sông Tư Hành, tám vạn đại quân đã bị tổn thất mất ba vạn, năm vạn binh sĩ còn lại và mười hai vạn hùng binh của bộ tộc Dạ Kiêu, mỗi bên chiếm cứ một bờ sông Tư Hành.
Quân lệnh xin tiếp viện liên tiếp được gửi cấp tốc về Vương thành, Khuynh Họa phu nhân coi như không thấy, án binh bất động. Trước mặt có hùng binh, sau lưng không có quân tiếp viện, quân sĩ mất hết chí khí, mặc dù chưa kết thúc cuộc chiến nhưng đã lộ vẻ thất bại. Đêm xuống, A Lan Nhược lẻn vào trong quân trướng, làm Tương Lý Hạ ngất xỉu, đưa chàng ta ra khỏi doanh trại, bản thân nàng mặc áo giáp của chàng ta, ngồi vào ghế chủ soái.
A Lan Nhược dẫn dắt năm vạn binh mỏi mệt, lợi dụng địa thế của sông Tư Hành bày Bán Nguyệt trận, chặn bộ tộc Dạ Kiêu ở bên ngoài sông. Máu đào nhuộm đỏ dòng sông Tư Hành, xác chết la liệt phía bờ Nam, bấy giờ đang là cuối mùa hạ, đêm xuống, gió mát thổi bên sông lại chỉ ngửi thấy mùi xác chết thối rữa và mùi máu tanh nồng. Bán Nguyệt trận chặn được kẻ địch bảy ngày, khiến bộ tộc Dạ Kiêu tổn thất năm vạn binh, nhưng vì lương thảo không đủ, hơn nữa lại lâu ngày không có viện binh, không thể chống cự được bộ tộc Dạ Kiêu ỷ người đông thay phiên nhau tấn công, cuối cùng vào nửa đêm ngày thứ bảy, đã công phá được một lỗ hổng.
Sao Mai trên bầu trời sáng lên, đại vương tử của bộ tộc Dạ Kiêu vô cùng vui mừng, định dẫn quân vượt sông. Dưới ánh trăng sao, nhìn qua bờ sông bên kia, lại thấy trong tay chủ tướng của địch quân bỗng hóa ra một cây cung sắt cao bằng thân người, ba mũi tên không gắn lông xé gió rạch nát màn đêm lao tới vun vút, đâm thẳng vào giữa lòng sông, biến thành ba cây cột sắt lớn, đứng thẳng một hàng giữa dòng nước chảy xiết.
Chiêu Hồn trận.
Sao Mai bị một đám mây đen bỗng dưng xuất hiện quấn lấy, chao đảo như sắp rơi, một luồng kim quang bỗng phát ra từ thân hình cao ráo đang đứng sừng sững bên cạnh cây cung sắt. Sau một tiếng thét dài xé tan khoảng không, luồng kim quang lơ lửng giữa không trung ngưng tụ lại tạo thành một con Tỷ Dực Điểu khổng lồ, cúi nhìn xuống hai bên bờ sông, uy nghiêm bay lượn, sải cánh rộng quạt mạnh khiến binh hùng tướng mạnh đều ngã chổng vó. Bóng người bên cạnh cây cung sắt lại đứng im bất động, gió mạnh thổi bay chiếc mũ giáp đội trên đầu, lộ ra một mái tóc dài đen nhánh, một khuôn mặt lạnh lùng, diễm lệ.
Trong tiếng thét bi ai, con Tỷ Dực Điểu màu vàng đậu lên cây cột sắt giữa lòng sông, đôi cánh giang rộng phủ kín hơn nửa mặt sông, vỗ cánh lần nữa, toàn thân bỗng nhiên bốc cháy.
Lưỡi lửa lớn hừng hực thiêu đốt, giống như một trận nghiệp hỏa(*) vô tận, chặn giữa dòng sông Tư Hành, tạo thành một bức tường chắn tự nhiên đối với quân địch. Gió khô nóng thổi tới khiến rừng nhạc âm bờ bên kia kêu ding dang. Sở dĩ cây này gọi là cây nhạc âm là bởi vì cành cây, lá cây khi đung đưa theo gió có thể tấu lên một khúc nhạc.
(*) Lửa địa ngục thiêu đốt trừng phạt kẻ ác.
Để ngăn chặn quân địch ở ngoài sông Tư Hành, A Lan Nhược đã dùng Chiêu Hồn trận, thiêu đốt hết linh hồn của mình. Đây chính là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán. Đây mới là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán.
Màn đêm đen như mực, lửa cháy cuồn cuộn trên dòng sông chảy xiết, tiếng kêu gào thảm thiết của con Tỷ Dực Điểu xuyên qua rừng nhạc âm, trong rừng tấu lên tiếng hát kỳ diệu, dường như đang ai điếu cho cái chết của công chúa một bộ tộc. Còn trên dòng sông dài vô tận, những bông hoa nhạc âm nhỏ xinh trắng muốt lại không hề e sợ gió nóng, giống như những chú chim nhỏ đang di trú, xuyên qua lưỡi lửa phiêu tán trong lòng sông, lại giống như một trận tuyết nhẹ, có một đóa đặc biệt ngoan cường, vượt qua bao gian khó chầm chậm đậu trên tóc mai của A Lan Nhược, nàng đưa tay gài nó vào trong tóc, ngón tay khe khẽ vuốt lên tóc mai rồi dừng lại. Đó là một động tác mà Trầm Diệp vẫn quen làm khi cài hoa lên tóc nàng. Nàng sững người lại, hồi lâu, lại khẽ mỉm cười. Con Tỷ Dực Điểu màu vàng kêu lên một tiếng thảm thiết cuối cùng, nàng vuốt ve đóa hoa trắng bên vành tai, chậm rãi nhắm mắt lại. Con chim lớn giữa dòng sông đứng yên như đã hóa thành một bức tượng, chỉ có ngọn lửa vẫn chưa tắt, còn nàng công chúa tóc dài tựa vào cây cung sắt, nàng đã dùng cạn sinh mạng của mình, bước vào cõi hư vô vĩnh hằng. Lửa lớn cháy suốt ba ngày không tắt, khi lửa tắt, công chúa và cây cung sắt đều đã hóa thành cát bụi, chìm vào trong lòng sông cuộn sóng.
Đây chính là cuộc đời của A Lan Nhược.
Phượng Cửu vẫn không thể hiểu được, khi nở nụ cười cuối cùng, A Lan Nhược đang nghĩ tới điều gì.
Ra khỏi đoạn ký ức này, trước mặt lại hiện lên tấm gương dài đúc từ tuyết dày, Phượng Cửu đưa tay đẩy tấm gương, trước mắt bỗng trở nên tối sầm, một khắc trước khi mất đi ý thức, nàng cảm thấy, lần này, cuối cùng thì mình cũng thật sự sẽ ngất đi, nếu sớm ngất đi như thế này thì tốt biết mấy.