Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 5) - Chương 06

Chương 6

Xiết mấy mênh mang

Khi
tới chỗ tôi lần nữa, vừa kể về việc này Lý Trường đã xuýt xoa không ngớt. “Bức
thư của nương nương vừa tới, Hoàng thượng lập tức nhớ nhung vô cùng.” Thấy tôi
chỉ cười bình thản, y lại tiếp: “Mọi việc trong cung đều đã được giải quyết ổn
thỏa rồi, chỉ ít ngày nữa là có thể đón nương nương về cung, có điều Hoàng
thượng nói trú tại đỉnh Lăng Vân thì không hay lắm, phiền nương nương tới chùa
Cam Lộ ở tạm đôi ngày, rồi đội nghi trượng sẽ tới đón nương nương từ chùa Cam
Lộ.”

Tôi
khẽ gật đầu. “Hoàng thượng an bài thế nào thì là thế đó, chắc chùa Cam Lộ sẽ
không có dị nghị gì đâu.”

Hoán
Bích nhướng mày cười lạnh, nói: “Lần này quay về, không biết đám tiểu nhân ở
chùa Cam Lộ sẽ có bộ dạng như thế nào đây, vừa nghĩ đến thôi đã khiến người ta
cảm thấy sảng khoái rồi!”

Hôm
ấy Cận Tịch đang sắp xếp quần áo, ngoảnh đầu lại chợt nhìn thấy Mạc Ngôn, trông
bà ta lúc này vẫn mặt mày lạnh tanh, hờ hững như thường ngày. Đi theo sau Mạc
Ngôn không ngờ còn có A Nô vốn cả ngày chèo đò mưu sinh nơi con sông dưới chân
núi.

Tôi
ngạc nhiên nói: “Hôm nay đúng là lạ thật, không ngờ mẹ con bà lại cùng tới
đây.” Dứt lời bèn mời bọn họ vào phòng ngồi.

Mạc
Ngôn ngó quanh gian thiền phòng của tôi một chút rồi mới nói: “Cô sống thế này
đúng là không tệ, dù sao chỉ có một mình vẫn tự tại hơn.”

Khi
nói ra câu này, có lẽ Mạc Ngôn chỉ vô tâm, nhưng khi nhìn thấy bà ta, nơi đáy
lòng tôi bất giác trào dâng một nỗi hổ thẹn, chỉ muốn chui ngay xuống đất. Năm
xưa, khi kể cho nhau nghe về chuyện cũ của bản thân, tôi từng nói với giọng
chắc nịch rằng sau này sẽ không bao giờ quay về bên nam nhân đã từng phụ tôi
nữa, vậy mà giờ tôi lại sắp trở về cung đình, gần như quên hẳn những lời đã
nói.

Trong
lúc tôi trầm ngâm, Mạc Ngôn dường như cũng có muôn vàn tâm sự, chỉ ngồi im một
chỗ mà cầm chén trà, không nói năng gì.

Hồi
lâu sau, rốt cuộc vẫn là Mạc Ngôn lên tiếng trước: “Nghe nói Hoàng thượng muốn
đón cô về, chẳng bao lâu nữa sẽ rời khỏi đây?”

Chén
trà trong tay tôi hơi nghiêng đi, nước trà thiếu chút nữa đã chảy ra ngoài. Từ
miệng một người ở ngoài cung nghe nói về việc mình sắp về cung, tôi bỗng giật
mình phát hiện, chuyện về cung đã trở thành một sự thực không cách nào có thể
thay đổi. Lòng tôi lạnh toát từng cơn, tựa như vừa uống một ngụm nước lạnh giữa
mùa đông giá rét, cảm giác ấy chảy qua cổ họng, ngấm vào tận xương tủy. Tôi cúi
đầu, lẩm bẩm nói: “Phải, chỉ chừng dăm ba ngày nữa thôi.”


ta khẽ “ồ” một tiếng: “Vậy ta tới coi như là đúng lúc.” Thoáng định thần một
chút, trong đôi mắt u buồn của Mạc Ngôn bỗng bừng lên những tia sáng âm u, kỳ
dị. “Mạc Sầu, ta có việc này muốn nhờ cô.”

Thấy
Mạc Ngôn vẫn dùng lối xưng hô ngày xưa, tôi chậm rãi nở nụ cười. “May mà bà vẫn
gọi ta là Mạc Sầu, nếu bà mà gọi ta là nương nương, ta nhất định sẽ không đồng
ý chuyện bà nhờ cậy đâu.”

Mạc
Ngôn gượng cười một tiếng, trong nụ cười thấp thoáng nét sầu. “Sau này người
gọi cô là nương nương nhiều biết bao nhiêu mà kể, huống chi trong lòng cô chưa
chắc đã coi thân phận nương nương này ra gì.”

Tôi
chỉ cười không nói, bà ta kéo tay A Nô lại, trịnh trọng nói: “Ta muốn giao con
gái ta cho cô, xin cô hãy giúp ta đưa nó vào cung.”

Nghe
thấy lời này, tôi hết sức bất ngờ, không kìm được ngạc nhiên thốt lên: “Cái
gì?”

Mạc
Ngôn thì có vẻ rất bình tĩnh, dường như đã suy nghĩ rất kĩ càng, chỉ là trên
mặt vẫn thấp thoáng một tia nhợt nhạt. “A Nô không còn nhỏ nữa, không thể chèo
đò mưu sinh cả đời, dù sao một đứa con gái ngày ngày phơi mặt bên ngoài cũng
không phải chuyện gì hay. Huống chi nó đã đến tuổi này rồi, thường ngày có rất
nhiều nam nhân đến tìm nó, nhưng tính nó lại khác người, không coi nam nhân ra
gì. Ta là người làm mẹ thật chẳng có cách nào, chỉ đành tìm cho nó một lối đi
khác mà thôi.”

A
Nô đứng lặng im bên cạnh mẫu thân, trên khuôn mặt trắng bệch thấp thoáng mấy
tia đỏ bừng kỳ lạ, đôi mắt vốn trong veo giờ giống như một đầm nước sâu không
thấy đáy, còn đầy vẻ mơ màng. Tôi khẽ thở dài một tiếng, nói: “Mạc Ngôn, hai ta
có tình nghĩa vài năm, ta cũng không giấu gì bà, vào cung kỳ thực còn chẳng
bằng vào chùa. Cung đình không phải là một nơi dễ sống đâu.”

Sắc
mặt Mạc Ngôn lại càng trở nên nhợt nhạt, tựa như một tờ giấy Tuyên Thành trắng
toát, bên trên không có chút màu tạp nào. Đôi mắt bà ta long lanh chớp động,
chừng như sắp rơi nước mắt tới nơi, nhưng vốn là một người quật cường nên sau
mấy lần hít thở nặng nề, bà ta đã kìm nén được, kế đó liền gằn giọng nói: “Chùa
Cam Lộ không chịu nhận nó, nói nó... không phải là người trong sạch!” Dứt lời,
bà ta ngoảnh đầu qua hướng khác, giọng nói bất giác run run: “Người mà chùa Cam
Lộ không chịu nhận, những ngôi chùa khác ắt lại càng chẳng chịu nhận.”

Tôi
cả kinh bật thốt: “Ý bà là...”

Mạc
Ngôn khẽ gật đầu, khó mà giấu được nỗi thương tâm: “Đúng thế!”

Lòng
tôi thầm buồn bã. “Chuyện xảy ra từ bao giờ vậy?”

“Hơn
một năm trước.” Bà ta nói: “Mạc Sầu, ta hối hận quá, ta không nên để nó một
mình chèo đò dưới núi, không nên để nó phải chịu đựng nỗi khổ lớn thế này.”

Tôi
nhắm mắt lại, nín thở hỏi: “Là người nào? Đã báo quan chưa vậy?”

“Biển
người mênh mang...”

Sắc
mặt chứa chan nỗi mơ màng và đau khổ, A Nô đột nhiên kêu ré lên: “Mẹ! Đừng nói
nữa! Mẹ...”

Tôi
bước tới giữ chặt lấy bờ vai A Nô, khẽ cất tiếng an ủi: “Phải rồi, chuyện đều
đã qua rồi. A Nô, chúng ta không nhắc tới nữa, chúng ta quên nó đi, lúc nào
cũng nhớ tới sẽ chỉ khiến bản thân khó chịu mà thôi.” Tôi ngoảnh đầu nhìn qua
phía Mạc Ngôn, cất giọng nặng nề: “Bà yên tâm, ta sẽ giữ A Nô lại bên mình và
đưa nó theo vào cung.”

Sắc
mặt Mạc Ngôn phần nào dịu đi. “Cô đồng ý như vậy thì tốt rồi. Có điều đứa bé A
Nô này tính tình bướng bỉnh giống ta, sợ là không dễ dạy dỗ.”

Tôi
khẽ lắc đầu. “A Nô rất thông minh, ta sẽ từ từ dạy cho nó biết các quy củ.” Sau
đó, tôi liền nhìn qua phía A Nô, dịu dàng nói: “A Nô, ta chỉ hỏi cô một câu
này, cô có bằng lòng theo ta vào cung không?”

Thần
sắc A Nô lúc này hoang mang hệt như một con thú nhỏ bị thương. “Ta chỉ muốn tới
nơi nào không có nam nhân thôi.”

Tôi
kéo A Nô vào lòng, khẽ nói: “Cô đừng sợ, trong cung chỉ có duy nhất một nam
nhân, đó là nơi có ít nam nhân nhất trong thiên hạ này. Có điều, cuộc sống
trong cung rất vất vả, cô có sợ không?”

A
Nô cất giọng trầm thấp nhưng kiên định: “Ta không sợ.”

Mạc
Ngôn bất giác rơi lệ. “Mạc Sầu, vậy A Nô xin trông cậy cả vào cô đấy!”

Một
làn gió xuân thổi vào mang theo mùi hương thoang thoảng của núi rừng. Tôi biết,
có một số chuyện một khi đã xảy ra rồi thì sẽ giống như tảng băng cứng rắn vĩnh
viễn không thể tan chảy, ngay tới làn gió xuân ấm áp nhất cũng không thể làm nó
tan ra được, chỉ có thể để mặc cho nó đè nặng trong tim. Trong lòng tràn ngập
một nỗi thương cảm khó mà miêu tả bằng lời, tôi khẽ cất tiếng: “Mạc Ngôn, chúng
ta cùng là nữ tử, nếu nữ tử mà không chịu giúp đỡ lẫn nhau, còn ai có thể giúp
chúng ta được. Huống chi nếu A Nô không theo ta rời khỏi nơi này, chỉ e sẽ bị
những lời đồn thổi dồn vào chỗ chết.”

Mạc
Ngôn nghẹn ngào gật đầu khe khẽ, lại nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Mạc Sầu, ta
biết cô sẽ giúp mà. Lần này cô đi, có A Nô ở bên cũng coi như là thêm người
thêm sức.”

Dường
như có một làn gió lạnh băng đột nhiên thổi vào trong mắt, cảnh vật trước mắt
tôi bị phủ lên một tầng sương khói trắng toát lờ mờ, tôi rơm rớm lệ, nói: “Mạc
Ngôn, khi xưa ta từng nói với bà là sẽ không bao giờ về cung nữa...”

Mạc
Ngôn khẽ vỗ vai tôi, ôn tồn nói: “Cô và ta không giống nhau, con của cô không
đi theo bên cạnh. Người làm mẹ thực khó lòng có thể dứt bỏ con mình.”

Lòng
tôi bỗng mềm đi, buồn bã vô cùng, khẽ kéo bàn tay A Nô lại, gượng cười nói: “Cô
đã muốn theo ta vào cung, vậy không thể gọi là A Nô như trước được.” Thoáng
trầm ngâm, tôi nói: “Dù sao A Nô cũng chỉ là nhũ danh của cô, chi bằng bây giờ
hãy gọi là Hoa Nghi đi, cô thấy vậy có được không?”

A
Nô khẽ gật đầu, trong giọng nói vẫn còn sót lại mấy nét ngây thơ: “Từ nay về
sau ta sẽ đi theo cô, cô bảo vệ ta, ta tất nhiên cũng sẽ bảo vệ cô.”

Tôi
mỉm cười. “Đúng vậy, ta nhất định sẽ bảo vệ cô, không để cô bị người ta ức hiếp
nữa.”

Đến
buổi tối, tôi trở lại chùa Cam Lộ ở tạm. Vẫn là gian nhà trệt nhỏ bé khi xưa,
nhưng lần này nó đã được quét dọn sạch sẽ, còn mới được xông hương, vừa bước
chân vào cửa đã ngửi thấy mùi hương thơm nồng. Tĩnh Ngạn sớm đã dẫn theo mọi
người chờ sẵn bên ngoài, thần sắc bà ta vẫn hiền hòa như trước, nhưng đám người
còn lại thì đều đã đổi sang vẻ mặt hết sức cung kính. Tôi thầm coi thường,
nhưng lại không để lộ ra ngoài mặt, chỉ trò chuyện với Tĩnh Ngạn vài câu.

Hoán
Bích nhìn quanh một lượt, chợt cười lạnh, nói: “Sao không thấy Tịnh Bạch sư phụ
đâu vậy? Trước đây có việc gì bà ta cũng là người xuất hiện đầu tiên, sao hôm
nay nương nương về đây tạm trú lại không thấy bà ta đâu?”

Tôi
khẽ gọi một tiếng: “Hoán Bích...” Những người kia đều đưa mắt nhìn nhau, không
dám nói gì, đến cuối cùng vẫn là Tĩnh Ngạn trả lời: “Tịnh Bạch đang ốm, thành
ra không thể tới bái kiến nương nương được.”

Hoán
Bích mặt mày lạnh tanh, không nói năng gì, Cận Tịch mỉm cười, nói: “Tịnh Bạch
sư phụ có khi đang mắc tâm bệnh cũng chưa biết chừng. Hôm nay thì thôi, nhưng
mấy hôm nữa sẽ có đội nghi trượng trong cung tới đón nương nương về, cả chùa
đều phải đưa tiễn, Tịnh Bạch sư phụ không thể ốm nữa đâu, cho nên hãy bảo bà ta
cố gắng tĩnh dưỡng cho tốt vào.”

Tôi
không buồn để ý tới nữa, lẳng lặng cất bước vào phòng. Lần này chùa Cam Lộ hết
sức ân cần, mười phần chu đáo, tôi nhìn bộ dạng nơm nớp lo sợ của bọn họ mà
thổn thức không thôi. Hôm ấy thức giấc, Cận Tịch giúp tôi chải đầu, chiếc lược
bí răng dày không ngừng cà nhẹ qua da đầu khiến tôi cảm thấy tê tê. Cận Tịch
khẽ nói: “Theo lời Lý Trường thì hôm nay Hoàng thượng sẽ phái sử giá sắc phong
tới, chuẩn bị tuyên chỉ và đón nương nương về cung vào buổi chiều.”

Tôi
nhìn mình trong gương, hờ hững cất tiếng: “Cũng tốt, kẻo lại đêm dài lắm mộng.”

Cận
Tịch cười, nói: “Hoàng thượng coi trọng nương nương như vậy, không biết lần này
sẽ phái ai làm sứ giả sắc phong đây?”

Tôi
nói giọng dửng dưng: “Ý chỉ sắc phong mới là quan trọng, còn sứ giả sắc phong
thì bất kể là ai cũng như nhau cả thôi.”

Cận
Tịch gật đầu, nói: “Nương nương nói rất đúng, có điều lần này về cung, có một
số thứ nương nương nhất định phải vứt bỏ, chẳng hạn như... trái tim. Chỉ có như
vậy nương nương mới có thể đối phó với những đối thủ lợi hại kia.”

Tôi
xoay người lại, thành khẩn nắm lấy bàn tay nàng ta. “Cận Tịch, ngoài ngươi ra,
không có ai chịu nói với ta những lời như vậy cả.”

“Cận
Tịch hổ thẹn.” Nàng ta cất giọng dịu dàng, bên trong chất chứa vẻ áy náy và tự
trách: “Cận Tịch thực đã sống uổng mấy chục năm trời trong cung, không ngờ lại
chẳng thể bảo vệ được nương nương chút nào.”

Tôi
khẽ mỉm cười. “Ngươi đã cố hết sức rồi. Đúng như ngươi vừa nói đó, người có
trái tim sao có thể là đối thủ của người không có trái tim được.” Tôi thoáng
định thần, ngoài cửa sổ không khí đã dần ấm lên nhưng những làn gió ấm thổi vào
lại khiến đầu óc tôi càng thêm băng giá. “Thanh đã chết rồi, ta đương nhiên
cũng chẳng còn trái tim nữa.”

Trong
chiếc gương đồng ảm đạm, đôi mắt sâu thẳm của tôi vằn lên tia máu, bên trong
dường như còn thấp thoáng bóng dáng lờ mờ của một lưỡi dao sắc bén tột cùng.
Tôi đưa tay giữ ngực, khi ngẩng lên khuôn mặt đã ngợp đầy vẻ dịu dàng, tựa làn
nước mùa xuân mát rượi.

Giờ
Tỵ một khắc hôm ấy, ánh dương vàng rực từ trên cao chiếu xuống, khiến người ta
khó mà mở mắt ra được. Lúc này đang là đầu tháng Năm, bầu trời quang đãng không
một gợn mây, cao và xanh vô cùng, tựa như hồ nước mùa thu thăm thẳm, khiến
người ta nhìn mà thầm thoải mái.

Thế
nhưng lúc này đây, trong lòng tôi lại ngợp nỗi tang thương, đời này kiếp này có
một số người tôi không thể nào gặp lại nữa rồi.

Sau
khi trang điểm xong, tôi một mình bước ra ngoài sân, Lý Trường cười tươi khom
người cúi chào: “Đã khiến nương nương phải đợi lâu rồi, mời nương nương tiếp
chỉ.” Tôi nhẹ nhàng cất tiếng: “Đã làm phiền công công rồi.”

Trong
khoảnh sân nhỏ có trồng một hàng lựu dài đang nở hoa rực rỡ, giữa nơi chùa
chiền thanh tịnh rất hiếm khi có loài hoa diễm lệ thế này, thế nhưng trong dịp
tháng Năm cũng chỉ có loài hoa này là đẹp và rực rỡ nhất, khiến khung cảnh xung
quanh chìm vào mảng màu đỏ tươi bắt mắt vô cùng.

Tôi
quỳ trên mặt đất, dải tua buông xuống từ trên búi tóc, chạm vào trán mang tới
cảm giác mát lạnh. Lý Trường chậm rãi tuyên đọc thánh chỉ bằng thứ giọng the
thé chỉ có ở thái giám: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Chiêu nghi
Chân thị hiền lương thục đức, thành tâm hướng thiện, bỏ tôn vị mà vào nơi cửa
Phật, một lòng cầu cho vận nước hưng thịnh, cái tâm như thế thực xứng là tấm
gương cho lục cung. Vâng theo lời dạy của Hoàng thái hậu nhân từ, nay phong cho
làm phi chính nhị phẩm, ban hiệu là “Hoàn”. Mong ngươi sau này hãy ôm lòng kính
cẩn, làm mọi việc theo đúng bổn phận của mình. Khâm thử.”

Vẻ
mặt tôi đờ ra trong khoảnh khắc, sau khi thánh chỉ được ban xuống, mọi chuyện
coi như đã xác định, không thể nào thay đổi được nữa. Lúc này đây trong lòng
tôi tràn ngập một cảm giác khó tả, trái tim chừng như đang nứt toác, từng chút
từng chút, cuối cùng bị một thanh kiếm sắc bén đâm vào làm vỡ tan thành từng
mảnh nhỏ. Đời này kiếp này, mỗi khoảnh khắc ở bên cạnh y, tôi không ngờ lại
chẳng thể thoát khỏi chữ “Hoàn” đó.


Trường tươi cười hớn hở, tận tay giao thánh chỉ tới cho tôi. “Chúc mừng nương
nương, Hoàng thượng đã ban khẩu dụ, ba ngày sau là ngày đại cát, tới lúc ấy sứ
giả sắc phong sẽ đưa nương nương về cung... Nương nương hẳn không đoán được sứ
giả sắc phong lần này là vị quý nhân nào đâu, đó thực là một người đại cát đại
lợi!”

Y
chạy ra ngoài cửa dẫn một người vào, miệng thì cung kính nói: “Mời Vương gia.”


người chậm rãi bước vào, tôi cứ ngỡ đó là Kỳ Sơn Vương hoặc Bình Dương Vương,
do đó chỉ một mực cúi đầu.

Người
đó dường như cũng không nhìn tôi, uể oải cười, nói với Lý Trường: “Hoàng huynh
lần này nhìn trúng vị mỹ nhân nào vậy? Không ngờ lại bắt bản vương phải đích
thân tới đây nghênh đón. Nghe nói lần trước sắc phong cho Diệp thị, công công
đã phải tự mình chạy đến Sư Hổ uyển tuyên chỉ đúng không?”


Trường vội vàng nói: “Thật xấu hổ quá, xấu hổ quá! Vương gia không biết đâu,
lần đó lão nô sợ gần chết, bởi sau lưng Diễm Thường tại có một con hổ, ngoài
Thường tại ra không ai có thể đuổi đi được.”

Đầu
tôi như nổ uỳnh một tiếng, trong tai không ngừng vang lên những tiếng ong ong,
tựa như có muôn vàn con côn trùng nhỏ xíu đang vỗ cánh bay bên cạnh... Trên thế
gian này sao lại có hai giọng nói giống nhau đến vậy? Sao có thể như vậy được
chứ?

Tôi
vội ngẩng lên, lập tức nhìn thấy một nam tử vận áo bào màu xanh lam thêu hình
giao long đang chắp tay sau lưng đứng bên bụi trúc. Bóng trúc lưa thưa chiếu
xuống, in lên tấm thân cao lớn của y những đường cong đẹp đẽ màu đen. Y cứ thế
đứng lặng im một chỗ, tập hợp hết mọi sự phong lưu trong thiên hạ về mình.

Một
cảm xúc nóng bỏng bất giác trào dâng, khiến trái tim băng giá của tôi ấm dần
lên từng chút. Thân thể tôi lúc này đã trở nên mềm nhũn vì mừng rỡ, hoàn toàn
không thể động đậy, chừng như sắp ngã nhào xuống đất. Thế nhưng sự mừng rỡ ấy
chỉ kéo dài trong một quãng thời gian vô cùng ngắn ngủi, ngay sau đó trái tim
tôi lạnh dần đi, lạnh đến mức khiến tôi hiểu rõ rằng có một số chuyện không thể
nào thay đổi được nữa, nên chỉ biết ngẩn ngơ rơi lệ. Dường như có muôn vàn cơn
sóng lớn vỗ vào người tôi, Huyền Thanh! Huyền Thanh! Tôi cơ hồ không thể tin
nổi, đôi chân khẽ động đậy theo bản năng, chỉ muốn ngay lập tức nhào vào lòng y
mà khóc lớn một trận, khóc cho thỏa những nỗi khổ đau và ấm ức trong lòng.


Trường cười híp mắt, nói: “Nương nương mừng đến phát khóc rồi kìa!”

Dường
như cảm giác được điều gì, y xoay người lại, khuôn mặt tuấn tú sau nháy mắt đã
trở nên trắng bệch. Y cơ hồ không dám tin vào đôi mắt mình, thốt lên: “Hoàn...”

Y
còn chưa nói xong, một giọng nói yêu kiều đã vang lên vẻ đầy kinh ngạc: “Vương
gia...” Chỉ thấy một bóng dáng màu xanh xinh đẹp chạy vụt ra, nhào thẳng vào
lòng y mà bật khóc nức nở.

Lòng
tôi trào dâng muôn vàn nỗi thê lương, đây quả nhiên không phải là ảo giác. Ngay
đến Hoán Bích cũng biết là y đã trở về, y còn chưa chết! Chưa chết!

Khi
tất cả mọi việc đã ngã ngũ, không cách nào có thể thay đổi, y lại trở về!


Trường vội nói: “Úi chao, Bích cô nương làm sao thế này? Vương gia yên lành trở
về là việc mừng lớn, sao cô nương lại khóc như vậy?” Nói xong liền quay sang
nhìn tôi, nở nụ cười tươi. “Vương gia vừa về hôm qua, hoàn toàn bình yên, không
bị thương tổn chút nào. Hoàng thượng mừng rỡ vô cùng, bèn giữ Vương gia nghỉ
lại trong cung một đêm. Hoàng thượng thấy Vương gia hồng phúc tề thiên, giống
hệt như nương nương vậy, do đó mới đặc biệt nhờ Vương gia làm sứ giả sắc phong
tới đây đón nương nương về cung!”

Cận
Tịch tuy cũng cảm thấy bất ngờ nhưng thấy tình hình không ổn liền giậm chân,
nháy mắt ra hiệu với Lý Trường. “Người ta lâu ngày gặp lại, công công còn ở đây
nói nhiều như vậy làm gì, mau ra ngoài đi!”


Trường đảo mắt một cái, lập tức vỗ đầu cười khà khà, nói: “Thì ra chuyện là như
vậy, ta còn tưởng Bích cô nương vì cớ gì mà khóc ghê thế! Chẳng trách, chẳng
trách!” Dứt lời, y bèn vội dẫn những người khác ra ngoài.

Huyền
Thanh tay đỡ Hoán Bích, nhưng đôi mắt lại chỉ nhìn đăm đăm vào tôi, nỗi mừng
vui trùng phùng chất chứa vô vàn cảm xúc phức tạp, khó mà miêu tả bằng lời. Cận
Tịch lẳng lặng kéo Hoán Bích ra khỏi người Huyền Thanh, khẽ cười, nói: “Hôm nay
là ngày vui của nương nương, cô nương khóc như thế thì còn ra gì nữa, mau theo
nô tỳ đi thay áo để Vương gia và nương nương ở lại đây trò chuyện.”

Hoán
Bích nước mắt lưng tròng, ngẩng lên nhìn khắp xung quanh, giật mình phát hiện
mình đã thất thố, sau khi lưu luyến nhìn y và liếc nhìn qua phía tôi một chút,
lập tức thấp giọng nói: “Vương gia bình yên vô sự, nô tỳ xin phép đi thắp hương
cảm tạ Bồ Tát.” Dứt lời bèn chạy vội vào phòng, hai má đỏ ửng.

Cận
Tịch nhún người hành lễ rồi vội vã chạy theo sau Hoán Bích. Khi đi ngang qua
bên cạnh tôi, nàng ta cầm lấy thánh chỉ rồi ghé tai tôi, khẽ nói: “Thánh chỉ đã
ban xuống rồi, mọi chuyện đều không thể thay đổi được nữa, nương nương nhớ suy
nghĩ cho kĩ càng.” Nàng ta nói ra hai chữ “nương nương” với giọng nhấn mạnh, nhắc
nhở tôi đừng quên thân phận của mình, sau đó lại thở dài buồn bã. “Nếu bây giờ
hành động theo cảm tính, chỉ e sẽ lưu lại hậu họa về sau.”

Tôi
ngẩn ngơ đứng đó. Y bước lại gần tôi, nụ cười trên mặt dần trở nên mỏng manh,
tựa như ánh dương len qua khe hở giữa núi băng ngàn năm chiếu tới, mang theo
cái lạnh căm căm, lại giống như ánh sáng chiếu ra từ mấy con đom đóm giữa khu
rừng, xa xăm và yếu ớt.

Y
khẽ cười một tiếng, như là đang tự giễu mình. “Nương nương?”

Hai
từ ấy giống như hai miếng sắt nóng bỏng hằn lên trái tim tôi, tôi cơ hồ có thể
ngửi thấy mùi thịt cháy khét bay ra từ đâu đó, đau đến khó mà miêu tả bằng lời.
Sau khi cố kìm nén bản thân trong khoảnh khắc, tôi dần bình tĩnh trở lại, gắng
gượng cất tiếng: “Bản cung đã là Hoàn Phi, làm phiền Vương gia đích thân tới
đây nghênh đón, lòng ta thực cảm kích vô cùng.”

“Vương
gia?” Trong mắt ngợp vẻ buồn thương, y vung tay nói: “Chẳng qua chỉ mới xa nhau
bốn tháng, không ngờ mọi chuyện lại thay đổi nhanh như vậy, nương tử đã trở
thành nương nương rồi.” Y lùi về phía sau một bước. “Đã lâu rồi không nghe
nương nương xưng hô như vậy, Thanh có cảm giác xa lạ quá!”

Những
lời này của y không chỉ là đang oán trách tôi, mà còn giống như lưỡi dao đâm
thẳng vào trái tim tôi. Thế nhưng, dù tôi giải thích thì cũng có ích gì đây?
Những nguyên do khó lòng mở miệng đó, tôi có thể nói ra với y được sao?

“Xa
nhau bốn tháng? Chuyện đời biến ảo thường chỉ trong một khoảnh khắc mà thôi.
Vương gia vẫn là Vương gia, chỉ có điều bản cung đã không còn là một phế phi
nữa rồi.” Thoáng định thần một chút, tôi cười mà rơm rớm lệ. “Ngài về rồi thì
tốt.”

Ánh
dương lúc này thật dữ dội biết bao, chiếu xuống làm đầu tôi đau nhói, nhưng
trước mắt tôi là một ánh mắt còn dữ dội hơn nhiều, bên trong chất chứa đầy nỗi
đau khổ tới tột độ. “Ta đã phải trải qua muôn vàn khó khăn mới có thể quay về,
nếu không vì nghĩ đến nàng... Hoàn Nhi, ta vì nghĩ đến nàng nên mới có thể quay
về. Nhưng ta vừa mới quay về lại phải chính mắt nhìn thấy nàng chuẩn bị về
cung, chuẩn bị trở về bên cạnh hoàng huynh của ta.” Y loạng choạng lùi lại hai
bước, khàn giọng nói: “Ta thà rằng mình đã chết ở Hách Hách, vĩnh viễn không
bao giờ trở về!” Dừng một chút, y lại tiếp: “Nếu ta không về...”

Hiện
thực giống như lưỡi dao han gỉ, từng dao từng dao không ngừng cứa lên sợi dây
tình cảm giữa tôi và y, tôi lệ tuôn đầy mặt. “Nếu ngài không về thì sẽ không
biết được rằng ngài vừa đi bốn tháng, ta đã thay lòng đổi dạ. Nếu ngài không về
thì sẽ không biết được rằng khi ngài vừa chết mất xác, ta đã vội vã muốn quay
trở lại Tử Áo Thành, trở về bên cạnh hoàng huynh của ngài. Nếu ngài không về
thì sẽ nghĩ rằng ta vẫn luôn một mực đợi ngài, chờ ngài, ở trên đỉnh Lăng Vân
mong ngài quay về, sẽ không biết được rằng ta là một nữ tử vô tình vô nghĩa.”
Tôi cố dằn lòng, nghẹn ngào nói: “Ta vốn chính là một nữ tử vô tình vô nghĩa
như thế đấy.”

Một
làn gió thổi qua, lá cây đung đưa xào xạc, tựa như có một trận mưa rào đang dồn
dập trút xuống. Ánh dương len qua kẽ lá chiếu xuống, dường như đã tạo nên một
bức tường cao vút không thể vượt qua giữa tôi và y. Lúc này, chúng tôi đã không
còn là một cặp tình nhân yêu nhau thắm thiết nữa.

“Vô
tình vô nghĩa...” Y lẩm bẩm suốt một hồi lâu, chợt ngẩng đầu nhìn trời mà cười
điên dại, nơi khóe mắt lệ tuôn thành hàng.

Tôi
không đành lòng nghe tiếp, cũng không đành lòng nhìn thêm. Tôi sợ mình sẽ,
không kìm được mà nhào vào lòng y, xin y mang tôi đi; tôi sợ mình sẽ không kìm
được tình cảm cùng nỗi nhớ nhung da diết trong lòng.

Tôi
hoảng hốt xoay người, một làn gió thổi tới làm hoa lựu đỏ tươi rụng đầy xuống
đất, như những vệt máu lốm đốm bắt mắt vô cùng.

Hồn
giờ ở nơi nao, hoa đỏ đầy khắp đất.

Tôi
một mình rời đi, để lại y đứng lặng người nơi đó, dường như đã hòa vào giữa làn
gió hắt hiu.

Báo cáo nội dung xấu