Theo đuổi - Chương 11 - 12
11
Trên đời, bất luận là thứ gì, khi đã có bắt đầu thì cuối
cùng cũng kết thúc. Người ta gặp nhau để rồi chia tay nhau.
Vì thế một nửa đời người là sự chia li.
*
Ngày thứ năm ở Thổ Châu, Phố đưa tôi đi vào một thôn bản sâu
trong núi. Tôi không nhớ đã đi qua bao nhiêu ngọn núi, bao nhiêu dòng suối, bao
nhiêu khúc quanh, cuối cùng là đến một bản làng trong một thung lũng nhỏ. Phố
nói đã quen một người bạn ở đó. Đó là một thung lũng có một loại quả tên là lê,
lê xứ này rất thơm ngon, theo lời Phố, vì chúng đoạt được tinh túy của trời đất.
Có điều những ngôi nhà sàn ở xứ này rất thưa, nằm lác đác
xen lẫn đá. Đá núi màu xám đen, nhô lên khắp nơi. Đá nhấp nhô trong vườn, ngay
bên cửa sổ nhà sàn. Ở thung lũng đương nhiên có suối. Một con suối lớn chắn
ngang đường vào thung lũng. Lòng suối có nhiều tảng đá khổng lồ như những con
cá voi xám nằm trầm ngâm. Bên bờ lác đác vài cái cây lấp ló một thứ quả màu vàng
nâu. Phố nói đó chính là lê, những cây lê của xứ sở này.
Chúng tôi gặp một chàng trai trẻ.
Nhà cậu có một cây lê đầu ngõ. Trong vườn có một cây hoa anh
túc. Cây hoa đang trổ một bông hoa màu tím hồng, rất đẹp.
Ngôi nhà sàn đơn sơ giữa một vườn cây nhiều loại, cây lê đầu
ngõ đang sắp vào vụ chín.
“Em đến đây lần đầu vào đúng lúc hoa lê nở trắng”.
Phố đứng tựa lưng vào cây lê. Tôi hình dung vào mùa hoa lê nở,
cả thung lũng chìm trong màu trắng trong tinh khiết.
“Loại quả này là một đặc sản”.
Phố thay mặt chủ nhà, chọn một quả lê được xem là hoàn hảo
nhất trong vườn về độ tròn căng viên mãn đưa cho tôi.
“Tháng sau quả mới chín, bây giờ nó chưa được coi là đặc sản
đâu”.
“Tại sao thế?”.
Tôi đón quả lê trên tay, ngắm nghía nó. Ngoài vẻ tròn căng
cân đối đẹp mắt, tôi không thấy có gì đặc biệt.
“Nhưng mà, khoan đã”.
Phố bất ngờ lấy lại quả lê trên tay tôi, không một chút chần
chừ, ném nó vào một tảng đá. Quả lê bị ném, vỡ toang. Phố nhặt mảnh vỡ lên, đưa
cho tôi xem.
Ruột quả màu trắng mịn, gần lớp hạt có màu hồng nhạt.
“Quả này chưa chín, nên chưa đạt độ hoàn hảo để thưởng thức
đâu. Chị ở đây đến tháng sau, em sẽ đưa chị trở lại đây. Lúc đó, chị sẽ được biết
vì sao nó được gọi là đặc sản”.
Cậu chủ nhà còn trẻ, cỡ tuổi Phố, nét mặt có vẻ hay e thẹn.
Cậu rót mời chúng tôi rượu. Vẫn như khi đến những ngôi nhà sàn xứ này, việc đầu
tiên nhất định là uống rượu. Người dân nơi đây tự nấu rượu uống và tiếp khách.
Chúng tôi uống rượu và ngắm cây lê mọc bên khe đá trước ngõ
nhà cậu. Một kiểu mọc rất khắc khổ. Người ta gọi loại lê đó là Hồng Tâm.
Thế nào là lê Hồng Tâm? Là bản thân quả lê khi chín có ba
màu, vỏ ngoài cùng màu xám vàng, cùi màu trắng xốp và đặc biệt lớp thịt trong
cùng, nơi chứa những chiếc hạt nhỏ xíu màu đen nhánh có màu hồng như màu hoa
đào tháng giêng. Vị quả lại thơm ngọt, nói chung là rất khó tả. Có điều loại
cây này tự mọc trên núi đá, dưới thung lũng, bên bờ suối, hoa nở trắng muốt và
thơm ngào ngạt. Mùa hoa nở, cả vùng ướp đẫm hương hoa. Hoa năm nào cũng nở trắng
trời đất, song mỗi cây lê đều cho rất ít quả. Bản thân loại lê này cũng không
bao giờ sống sót nếu người ta ươm trồng nó. Tóm lại, nó tuyệt diệu như thế,
song không phải là loại cây có thể sống bởi bản tay con người can thiệp.
Còn cái bản xinh đẹp xa xôi này có tên là Bản Vị.
Trước đây, rất nhiều năm về trước, lê ở Bản Vị rất nhiều.
Bản Vị có một loài cây độc đáo như thế thì hẳn con người nơi
đây cũng kì thú? Đương nhiên rồi. Điều tuyệt diệu thứ hai ở đây chính là gái đẹp.
Con gái bản Vị rất đẹp. Da trắng môi đỏ má hồng eo thon cổ cao vai tròn, nói
chung là xinh đẹp hiếm thấy trên đời. Nhưng bản Vị lại rất ít con gái. Đàn ông
bản Vị rất đông, nhưng không có gì nổi trội, nếu không muốn nói là thất học, bất
tài, thô thiển, lại không muốn đi xa khỏi thung lũng để cưới con gái bản khác.
Vì thế bản Vị có những người đàn ông cả đời không hề kết hôn.
Cứ nửa tháng, người bản Vị xuống chợ huyện một lần. Chợ huyện
rất xa, phải trèo qua nhiều ngọn đồi, men theo nhiều vách núi, vượt qua vài
dòng suối nước xiên xiết, lổn nhổn đá cuội tròn ủm và trơn nhẫy rêu xanh. Người
bản Vị đi chợ từ nửa đêm, mang theo những sản vật đơn sơ từ thung lũng. Họ rất
nghèo, không có gì nhiều để mang xuống chợ, trừ loại quả đặc biệt đã kể trên
kia. Vào mùa lê chín, dân đi chợ huyện mong ngóng người bản Vị nhất. Những gùi
lê nho nhỏ được địu bởi những đôi vai tròn trịa của thiếu nữ bản Vị, vượt qua
chặng đường dài đẫm sương đêm, khi mặt trời ló lên sau dãy núi bồng bềnh mây trắng,
thật như là một kiệt tác của tự nhiên.
Năm đó, bản Vị đón một vị khách lạ.
Vị khách đến sau phiên chợ huyện đã tan, nhón những mũi giày
đế khủng qua những lòng suối trơn nhẫy đầy rêu, men qua những con đường mòn
quanh sườn núi, theo dấu những thiếu nữ gùi lê xuống chợ huyện trở về. Vị khách
đứng trong thung lũng ủ hơi sương mát lạnh. Bấy giờ là mùa quả chín, hoa tàn từ
lâu, nhìn những nếp nhà sàn màu xám bạc ẩn trong những tán cây lê xòa bóng. Thật
là một chốn thần tiên hiếm có.
Khách xin trọ ở bản Vị ba ngày ba đêm. Không có ngôi nhà sàn
nào khách chưa từng đặt chân lên bậc cầu thang, không có cô gái đẹp nào khách
không biết tên, không có người già đáng kính nào khách không biết mặt.
Ba hôm sau khách đi, đi theo khách là thiếu nữ đẹp nhất bản.
Thời gian trôi qua, người bản Vị vẫn xuống chợ huyện mỗi chủ
nhật, đường xuống chợ huyện vẫn phải vượt qua những ngọn đồi, men theo những
triền núi, lội qua những lòng suối xiên xiết chảy. Và đường xa khó đi, nên họ vẫn
phải xuống chợ vào lúc nửa đêm.
Một năm, cô gái đẹp đi cùng khách năm xưa về thăm bản. Cô
không phải đã lấy người khách năm nào, mà lấy sếp lớn của anh ta, giờ cô đã là
một mệnh phụ phú quý, giàu sang.
Năm sau, một con đường được khởi công, nối từ chợ huyện vào
bản Vị. Con đường rất dài, nghe đâu do lãnh đạo phu quân của cô gái đẹp nhất bản
kia đầu tư, trai bản Vị rất đông, được huy động làm đường. Nếu con đường hoàn
thành, bản Vị sẽ không còn cô độc trong sương mù nữa, khách du lịch sẽ kéo đến
nườm nượp, lê Hồng Tâm sẽ không phải mang xuống chợ lúc nửa đêm trên đôi vai
tròn trịa của các thiếu nữ nữa. Nó còn được hứa hẹn sẽ đi vào một truyền thuyết
vô cùng lâm li, với nhân vật chính là một thiếu nữ tuyệt đẹp, tất nhiên, tên
nàng là Hồng Tâm. Tóm lại, con đường sẽ mang đến cho bản Vị một cơ hội đổi đời
rất lớn.
Cứ mỗi một khúc đường hoàn thành, là thêm một thiếu nữ bản Vị
bước chân ra khỏi bản, đi xa hơn chợ huyện, xa hơn chợ tỉnh, về thành phố, trở
thành mệnh phụ phu nhân hay chân dài của đại gia nào đó. Mấy năm sau con đường
đã nối dài, bản Vị không còn thiếu nữ đẹp nào ở lại bản nữa.
Nhưng những đứa bé gái sẽ tiếp tục được sinh ra và lớn lên,
và giống như các mẹ các chị chúng, chúng sẽ xinh đẹp như hoa lê mỗi mùa xuân về.
Người bản Vị tin vào điều đó, tin vào con đường và những cô gái đã từ bản Vị ra
đi.
Nhiều năm sau con đường hoàn thành, hai bên đường có những
cây vàng anh. Nghe nói các cô gái bản Vị đi ra ngoài lấy chồng, mỗi người trồng
một cây vàng anh. Vàng anh là giống cây tốt, phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng
nơi đây. Lẽ ra họ có thể trồng cây lê Hồng Tâm, nhưng bạn biết đấy, loài cây
này ban cho con người hoa thơm trái ngọt, nhưng nó tự sinh tự diệt, không do
con người.
Người ta theo con đường ấy về bản Vị, trong lòng hi vọng sẽ
gặp những người khách du lịch đi ngược chiều hay đi cùng chiều. Nhưng họ chẳng
gặp một ai.
Người ta theo con đường ấy về bản Vị, trong lòng hi vọng sẽ
gặp một mùa hoa lê trắng muốt ngát hương. Nhưng người ta chẳng thấy thung lũng
hoa lê trắng nào. Hoa lê trong thung lũng nở ít, có phần rời rạc và hương thơm
chỉ còn thoảng nhẹ.
Người ta theo con đường ấy về bản Vị, hi vọng gặp những thiếu
nữ xinh đẹp như huyền thoại năm xưa, nhưng họ chỉ gặp những người đàn ông u sầu
bên những con trâu già khua mõ lốc cốc.
Chán nản, người ta quay về. Điều gì xảy ra khi con đường đẹp
như thế nối bản Vị với phố huyện sầm uất nhỉ, sao chẳng có gì giống như sự hứa
hẹn năm xưa?
Người ta đứng lại chỗ giao đường. Rất nhiều người đi qua
giao điểm đó, cả những vị khách du lịch ba lô nặng trên vai, ai cũng liếc nhìn,
nhưng không dừng lại.
Tò mò, người ta cũng liếc nhìn nơi họ liếc nhìn, bỗng sững
người lại trước một tấm biển không lớn nhưng đủ để ý, mà người ta, vì quen nghĩ
về bản Vị năm xưa, nên đã không hề chú tâm. Tấm biển có lẽ được dựng khi con đường
bắt đầu được khởi công, đề hai chữ rất đậm “Đường cấm”.
Tôi và Phố đứng trước tấm biển “Đường cấm” dẫn về bản Vị.
“Sao người ta không dỡ tấm biển này đi?”.
Phố khẽ lắc đầu.
“Nó thực ra chỉ là một tấm biển, nếu người ta muốn đi, chẳng
ai có thể cấm được. Nếu em tuân lệnh tấm biển, thì sẽ không bao giờ biết đến có
một nơi đẹp như thế mà đưa chị đến lần này”.
“Nó từng đẹp hơn bây giờ nhiều, nếu đúng như lời Sáng kể”.
Sáng là tên cậu bạn của Phố.
“Vâng”.
Phố và tôi về đến nhà bà cụ cũng chính là lúc trời sập tối.
Đom đóm lập lòe bên bờ suối. Ngôi nhà lờ mờ ánh điện 25W. Có lẽ bà cụ đang ngồi
bên bếp lửa như bà đã ngồi ở đó từ rất nhiều năm tháng trôi đi.
Tôi xuống xe, dợm bước vào sân.
“Chị Hàm Yên”.
Phố khẽ gọi tên tôi. Tôi dừng lại.
“Chị Hàm Yên. Chị có biết sao em lại lấy quả lê đã đưa cho
chị không?”.
“Không”.
“Sao chị không hỏi tại sao?”.
“Hỏi làm gì? Em hẳn có lí do mà”.
Phố dựng xe, đứng tựa lưng vào nó.
“Em sợ chị ăn nó”.
Tôi phì cười.
“Sao lại sợ? Ăn thì sao? Nó chỉ là một quả lê thôi mà”.
“Không. Chị không biết à. Người ta bảo ăn lê là li biệt. Em
sợ chị ăn nó rồi thì sẽ chẳng bao giờ gặp lại chị nữa”.
Phố nổ máy xe và quay về nhà vị thầy thuốc. Tôi đứng trong
sân nhìn bầu trời lấp lánh những ngôi sao xa xôi. Một bầu trời sao cùng nhấp
nháy sáng, như những bầu trời sao mùa thu.
Buổi sáng tôi thức dậy, bà cụ đã ra ngoài, không khí buổi
sáng mùa hạ thật trong lành. Tôi nhìn ra vạt đồi hoa sim tím ngoài kia, chúng vẫn
rực một màu buồn xa xôi và kì lạ.
Tôi nghĩ đến Sáng rất nhiều. Suốt đêm tôi không ngủ được và
chỉ nghĩ về cậu ấy. Tại sao tôi chỉ nghĩ về cậu ấy và nghĩ nhiều như thế, trong
khi tôi tiếp xúc chẳng lâu. Lẽ nào tôi đã gặp người mà tôi chờ đợi đã lâu, người
gieo vào trái tim tôi những nhớ thương từ tiền kiếp?
Tôi gọi cho Phố.
“Chúng ta trở lại bản Vị được không?”.
“Sao nhanh thế, chị vừa mới ở đó hôm qua mà. Lê đã kịp chín
đâu”.
Phố cười ha ha, tôi cồn cào trong ruột.
“Chị không biết. Tóm lại em có đi cùng chị không?”.
Phố im lặng. Một lát Phố chạy xe đến, chúng tôi một lần nữa
trở lại bản Vị, một lần nữa đứng trước tấm biển “Đường cấm” đã bị dây leo che gần
khuất.
12
Chúng ta đã bảo vệ nhau khỏi những tổn thương bằng cách
giúp nhau tồn tại trong những ngôi nhà bằng kính. Qua những ô cửa kính trong suốt,
chúng ta ngắm nhìn những cơn mưa, bão giông, nắng gió và bốn mùa trôi đi trên
thế gian này. Chúng ta nhìn thấy nhau, yêu nhau, nhớ thương nhau, nhưng hại
thay, không có cách nào chạm vào tay nhau được.
*
Tôi đứng trên cây cầu gỗ bắc qua dòng suối trong trước con
đường vào Thổ Châu. Hoa cải nở trắng khắp các sườn đồi. Hoa cải đang nở rộ,
cũng là lúc dân phượt từ khắp nơi kéo đến chụp ảnh. Từng tốp xe máy dừng lạ, họ
trang bị chuyên nghiệp, cắm cả lá cờ tổ quốc nhỏ xíu trước xe. Họ, những nam
thanh nữ tú dập dìu, tạo dáng, thu vào khuôn hình hàng trăm bức ảnh về hoa cải
trắng.
Tôi chờ đợi một người, mà tôi không chắc là sẽ gặp. Nhưng bằng
dự cảm, bằng sự thôi thúc vô hình, tôi tin mình giống như tiểu ngạ quỷ trên cầu
Nại Hà, cứ đứng đó khi ngàn năm trôi đi, nhất định người tôi đợi sẽ đi qua cây
cầu đó, dù có thể người ấy trong hình hài bất kì ai đó.
Một chiếc xe máy đơn độc dừng lại nơi đầu cầu. Trời lạnh,
người đi xe máy mặc rất phong phanh, chỉ sơ mi trắng và quần jean xanh bạc. Người
đó đứng nhìn tôi giây lát. Khi ánh mắt tôi chạm vào ánh mắt người, người lập tức
quay xe.
“Phố! Phố ơi…”.
Mặc cho tiếng gọi của tôi tan loãng vào không gian ngàn vạn
những bông cải trắng đung đưa trong gió lạnh, Phố cứ đi, không hề ngoảnh lại.
Tôi nhìn ô cửa nắng mở ra phía đồi thông sau nhà. Trời không
mưa. Có thể ở Cẩm Xuyên, mùa mưa sắp kết thúc.
Giấc mơ như tảng đá đè nặng lên người, tôi không có cách nào
cựa quậy được. Cảm thấy trong cổ họng khô khốc, tôi với tay lên đầu giường tìm
chai nước. Tay tôi chạm vào thứ gì đó mềm, mát, nhưng làm tôi bủn rủn cả người.
Hạc ngồi phía đầu giường của tôi lúc nào không rõ. Cô đưa
chai nước cho tôi. Tôi như người đói lâu ngày không được ăn, người khát cả tỉ
năm rồi không được uống. Tôi cầm chai nước tu một hơi. Hạc đỡ tôi ngồi dậy, tựa
lưng vào thành giường. Tôi ngước nhìn Hạc, định nói lời cảm ơn.
Miệng tôi cứng đơ như bị đổ bê tông, như vừa bị đầu độc,
không có cách nào nói được. Đối diện tôi là Hạc mảnh mai, trắng xanh đến gần
như trong suốt, với cái đầu trọc nham nhở.
Mái tóc dài của Hạc đã biến mất.
Hạc bảo đã cất kĩ kéo trước khi đi ngủ, mà không hiểu sao, mỗi
sáng thức dậy cô lại thấy chiếc kéo có tay cầm bọc nhựa màu xanh, lưỡi kéo sắc
lẻm lại nằm trên đầu giường. Có buổi sáng nó nằm đó, vô hại, nhưng có buổi sáng
nó nằm bên mớ tóc đen mượt nhức nhối đã bị cắt rời. Hạc không sao nhớ được mình
đã đi lấy kéo và tự cắt tóc mình như thế nào. Hạc đã khóc rất nhiều.
Tôi không biết mình đã ốm và sốt li bi suốt hai ngày trời.
Trong cơn sốt, tôi nhớ mang máng rằng tôi chỉ trở dậy tìm nước uống, rồi không
ăn gì, cứ thế thiếp đi. Điện thoại hết pin nằm im lặng trên bàn. Có lẽ trước
khi chìm vào cơn sốt sâu, tôi đã không cài cửa, vì thế Hạc đã vào phòng và ngồi
đợi tôi thức dậy.
“Chị ngủ lâu thế. Em sợ chị chết”.
Tôi gượng cười với Hạc. Phải rồi, lâu lắm tôi không bị ốm kiểu
như thế. Trong hai ngày miên man li bì, tôi đã mơ hàng tỉ giấc mơ, giấc mơ nào
cũng đầy ắp hình ảnh Phố cùng những người con gái của cậu ấy. Giấc mơ nào Phố
cũng bỏ tôi đi, giấc mơ nào cũng là khó khăn lắm mới gặp được nhau, nhưng Phố vẫn
quay lưng. Vậy là trong cả giấc mơ cũng nghìn trùng xa cách.
Tôi cảm giác bị suy sụp hoàn toàn không phải do đói, khát, mệt
vì sốt, mà vì những giấc mơ. Chúng khiến tôi bồn chồn và đau khổ.
“Sao Hạc không nhớ mình đã cắt tóc? Thế là mộng du đấy”.
“Mộng du thì sao?”.
“Thì người ta sẽ không nhớ những việc mình làm trong giấc
mơ, làm như khi đang tỉnh”.
Hạc im lặng.
“Chị có quen một cậu bạn, cậu ta không biết rằng cậu ta đã
đá bóng, một quả bóng tưởng tượng và hò hét suốt mấy chục phút trong khi đang
ngủ”.
“Vậy à?”.
“Vấn đề là cậu ta làm việc đó trên sân thượng. Nhà cậu ta
hai tầng, có sân thượng không rào chắn. Có lẽ cậu ta cực kì may mắn nên không bị
rớt xuống đất khi đá bóng và hò hét”.
“Sao cậu ta lại trèo lên sân thượng để đá bóng?”.
“Không biết. Có lẽ giấc mơ của cậu ta đã chọn sân thượng”.
“Cậu ta có sợ không?”.
“Không, khi nghe kể lại cậu ta vẫn không tin”.
“Vậy ai đã chứng kiến chuyện đó?”.
“Những người bạn, họ cùng ngủ ở nhà cậu ta để xem trận chung
kết World Cup 1994”.
Hạc về phòng, mười phút sau trở lại, mang cho tôi một bát
cháo tía tô.
“Chị ăn cháo tía tô đi để giải cảm”.
Tôi ăn hết bát cháo. Hạc ngồi nhìn ra đồi thông sau nhà.
“Chị Hàm Yên, em thấy một người đang đi tìm chị”.
Tôi tròn mắt nhìn Hạc.
“Ai thế?”.
“Một người đàn ông”.
“Trông anh ta thế nào?”.
“Em không nhìn rõ mặt”.
“Sao Hạc nghĩ anh ta đi tìm chị?”.
Hạc không trả lời, và vẫn ngồi nhìn ra đồi thông sau nhà. Một
cơn mỏi mệt lại ụp xuống, tôi có cảm giác thèm được đắm chìm trong nước. Một nỗi
nhớ mơ hồ xa xăm trong lòng. Tôi nhớ những cơn mưa và muốn được ở một mình. Có
thể những hành vi khó hiểu của Hạc khiến tôi lo ngại. Chẳng phải đó là những
hành vi bất thường hay sao, làm sao để khẳng định một ngày nào đó Hạc không tự
đâm chính mình bằng chiếc kéo màu xanh kia, mà không hề hay biết mình đã làm điều
đó. Tôi ngạc nhiên là nửa tháng sống cạnh Hạc, tôi không hề thấy người thân của
cô ghé thăm, kể cả Bến Bình, người tự xưng là em gái của Hạc. Và không hiểu sao
họ lại thờ ơ với cô như thế, khi chắc chắn cô đã có những biểu hiện của căn bệnh
trầm cảm.
“Chị Hàm Yên. Em còn nhìn thấy một đứa bé bị chết cùng một
con trâu”.
Tôi sốc.
Rõ ràng câu chuyện của cậu bé trong bản xa kia chết cách đây
ba hôm không thể đến tai Hạc được, khi Hạc không hề ra ngoài. Không lẽ Hạc đã
vào thị trấn trong hai ngày tôi ốm li bì, không lẽ ai đó đã đến và kể cho Hạc
nghe câu chuyện đó?
“Em nhìn thấy hay ai kể cho em nghe?”.
Để chắc chắn, tôi hỏi lại, và Hạc vẫn nhìn ra đồi thông bằng
đôi mắt vô hồn.
“Em nhìn thấy. Nó ngồi trong hốc đá bên cạnh con trâu. Rồi
lũ đến…”.
Bất ngờ, Hạc òa khóc. Người Hạc rũ xuống sàn nhà, tay vò ngực,
như thể trái tim trong lồng ngực kia vừa nhói lên một cơn đau dữ dội.
Tôi sững người.
Trong vài phút khi Hạc khóc, tôi không biết làm thế nào, đến
việc cử động tay chân tôi cũng không nhớ ra.
Tại sao Hạc khóc?
Tại sao lại khóc một cách đầy đau đớn như thế?
Tôi gọi điện cho Hải Đường.
“Ừ. Tớ gọi cho cậu nhưng cậu tắt máy. Tớ đang đi họp ở tỉnh,
ngày kia mới về”.
Giọng Hải Đường lẫn với tiếng xôn xao, tiếng cười nói và tiếng
nhạc xập xình. Tôi buông điện thoại và Hải Đường còn thao thao một lúc cho đến
khi cậu ấy nhận thấy tôi đã buông máy.
Tôi nghĩ mình nên gọi cho Tản.
Tản gặp tôi ở quán cà phê bên bờ vực.
“Sao tự dưng lại muốn gặp em?”.
Tản có đôi mắt đẹp, trẻ trung và rất đa tình. Không hiểu sao
tôi rất e ngại khi nói chuyện mà nhìn thẳng vào khuôn mặt Tản.
Mà tôi muốn gặp Tản để nói chuyện gì nhỉ? Có nên nói cho Tản
biết việc Hạc đã tự tay cắt đi mái tóc dài của mình trong những cơn mộng du triền
miên? Một dấu hiệu của căn bệnh trầm cảm đang trở lại? Nếu tôi nói điều đó, liệu
Tản có giúp được gì? Tản từng nói, họ đã yêu nhau, và vì lí do nào đó chia tay
nhau. Trong tình yêu, chia tay là chuyện bình thường. Người ta giống như gặp
nhau, nợ nần nhau ở một kiếp nào đó, kiếp này đau khổ và yêu thương cho hết ân
tình.
Có những việc trả nợ khiến mối nợ càng chồng chất, và người
ta buộc phải tìm nhau ở kiếp sau để tiếp tục món nợ tiền kiếp. Nhưng trong đời,
món nợ tình yêu là món nợ không khi nào sòng phẳng được. Hạnh phúc khổ đau, tận
hưởng hay đáp đền đều không thể nào cân đong đo đếm.
Nên người ta cứ triền miên đau khổ và oán hận.
Hạc có phải đã gặp một bi kịch tình yêu không? Cô quá bí ẩn
và tôi ngay từ đầu đã không có ý tò mò về cô. Nhưng hẳn điều đã xảy ra vô cùng
đau đớn. Nó khiến con người cô thay đổi. Nó khiến cô sống trong những cơn mộng
du bất tận, và kì lạ, có thể nó khiến cô có khả năng nhìn thấy một vài điều đã
từng xảy ra trong quá khứ, những quá khứ của những người mà cô đối diện.
Việc cô nói chính xác tôi từng có một chiếc xe đạp màu xanh,
tôi từng đi chiếc xe đạp ấy thời học đại học đã khiến tôi nghĩ rất nhiều, nhưng
rồi tôi lại tự nhủ rằng cô chỉ là một trong số những người có khả năng đặc biệt,
và điều đó chẳng tổn hại hay thúc đẩy đến cuộc sống xung quanh. Nhưng khi cô
nói có một người đàn ông đang đi tìm tôi, dù tôi không có cách nào xác minh điều
đó đúng hay không, cũng khiến lòng tôi bất ổn. Tôi bồn chồn và hồi hộp, hệt như
người đàn ông ấy đang đến rất gần tôi, sắp chạm tay lên cánh cửa màu xanh trước
mặt tôi, và dự cảm rằng không biết người ấy sẽ đem lại cho tôi điều gì, hạnh
phúc hay đau khổ.
Nhưng khi cô nói cô nhìn thấy một đứa trẻ chết cùng con trâu
thì tôi kinh hoảng thực sự. Cô chưa từng gặp đứa trẻ đó, làm sao cô nhìn thấy
cái chết của nó, trong khi mỗi ngày có hàng tỉ người đã chết ở trên đời.
“Nếu bây giờ Hạc muốn đi cùng cậu, cậu có đi cùng cô ấy
không?”.
Tản nhìn tôi như nhìn xác ướp Ai Cập biết bay.
“Hạc nói với chị thế à?”.
“Không? Mình chỉ hỏi thôi”.
Tản dời ánh mắt đi chỗ khác, nơi chỉ nghe thấy tiếng nước suối
réo ầm ầm và bóng tối thẳm sâu sẵn sàng nhấn chìm cả nhân loại nếu lỡ làm nó nổi
giận.
“Hai người từng yêu nhau trong bao lâu?”.
“Ba năm”.
“Ba năm?”.
Ba năm, thời gian đủ dài rộng để phôi phai những mối tình vô
nghĩa.
“Bố mẹ em không muốn bọn em lấy nhau”.
“Vì cô ấy quá xinh đẹp, hay quá mong manh?”.
Tản lắc đầu.
“Em không muốn từ bỏ, nhưng cô ấy đã từ bỏ”.
“Chuyện xảy ra trước khi cô ấy nghĩ mình là chim à?”.
“Vâng”.
Câu chuyện kết thúc một cách nhạt nhẽo. Thị trấn nhanh chóng
chìm vào tĩnh lặng. Nơi núi rừng thâm u này, đêm nhanh chóng chiếm lĩnh ưu thế.
Con người có cảm giác bị bỏ rơi, bé nhỏ, cô đơn và bất lực khi đêm xuống. Chỉ
có sương mù, tiếng thác nước và tiếng gió cùng những chấm sáng xa xôi trong những
ngôi nhà lác đác sườn núi mới làm chủ.
Tôi nghĩ đến cái cây thần rừng.
Tôi nghĩ đến đứa trẻ đặc biệt đã đưa con trâu của mình bỏ trốn.
Đứa trẻ không quan tâm đến những lễ nghi thần thánh, đến vận mệnh của cộng đồng.
Với nó, chỉ có con trâu bè bạn. Và con trâu sắp chết vì người ta tế thần, nên
nó chỉ đưa bạn nó bỏ trốn mà thôi.
Tản đưa tôi về, và lần này cậu ấy quyết định sẽ đến thăm Hạc.
Có một người đàn bà đang khóc lóc trong căn phòng của Hạc.
Không thấy Hạc, có lẽ Hạc ngồi khuất sau bức tường. Không khí trong căn phòng vẻ
tang thương như có ai đó vừa đi qua cuộc đời.
Tản không vào, tôi cũng thế, chúng tôi lặng lẽ đứng bên những
khóm hoa hồng đang tỏa hương thơm. Tản nói người đàn bà đang khóc đó là mẹ Hạc.
Chiếc xe máy đắt tiền trong sân cho tôi biết không chỉ có mẹ
Hạc, mà Bến Bình có thể là người thứ ba trong căn phòng kia. Có điều cô ta đang
ngồi hoặc đứng hoặc nằm nơi nào đó khuất sâu khỏi tầm mắt tôi, hoặc cũng có thể
cô ta đang đứng trong bóng tối ngoài kia, nhìn người mẹ đang khóc và người chị
gái tội nghiệp đang chịu đựng căn bệnh tái phát.
Con suối trước khu nhà tiếp tục sôi ầm ào. Và một cơn mưa đổ
xuống.