Tôi mang thai đứa con của chị gái - Chương 01 - 02

I.
Chị Cả

Nhà tôi có ba chị em gái.

Bố mẹ tôi đã qua đời trong một tai nạn lao
động. Lúc đó, chị Cả tôi mười lăm tuổi, chị Hai mười tuổi, và tôi gần ba tuổi.
Những gì chúng tôi còn sau đám tang bố mẹ là một ít tiền mà những người lao động
nghèo cùng làm với bố tôi đến chia buồn và chút tiền do ông chủ thầu bồi thường.

Bố mẹ tôi chỉ là những người phụ xây,
ông chủ nào thuê thì đi. Tôi nghe kể lại rằng, bố mẹ tôi cùng một người nữa bị
tai nạn sập giàn giáo. Bố tôi gãy sống cổ, tử vong ngay tại đó. Mẹ tôi và người
đàn ông kia được đưa lên viện bằng cáng giữa hai cái xe đạp. Chưa tới bệnh viện
thì họ đã qua đời. Nhưng, những bi thương về cái chết của họ không có trong trí
nhớ ngây thơ của tôi. Ngày đó, tôi quá nhỏ, chị Cả không thích ai kể lại chuyện
đó cho tôi nghe.

Chúng tôi sống gần nhà bà ngoại, nhưng
bà ở với cậu mợ nên không đón chúng tôi về cùng. Nhà bên nội tôi chỉ còn chú
thím, song chú thím cũng đông con. Thế nên, ba chị em tôi vẫn sống trong căn
nhà của bố mẹ và tự đìu ríu nuôi nhau, nói đúng ra là chị Cả kiêm nhiệm việc
nuôi chúng tôi. Bà ngoại và chú thím thường xuyên ghé qua xem chị em chúng tôi
sống như thế nào.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Trong kí ức của tôi, chị Cả giống như mẹ.
Hàng ngày, chị tắm rửa, bón cơm cho tôi, dỗ dành tôi ngủ. Có những ngày trời
nóng, tôi không ngủ được, tôi khóc lóc bậm bịch rồi lột cả quần áo ra, chị Cả lại
gãi lưng và lấy cái khăn mặt thấm nước lau khắp người tôi. Tôi tự cho mình cái
quyền nũng nịu chị như nũng nịu mẹ. Còn chị Hai đưa tôi đi lớp và đón tôi về.
Khi muốn gì thì tôi ăn vạ chị Cả. Nhìn đám trẻ nít cùng tuổi đòi quà bố mẹ, tôi
cũng đòi chị Cả. Có lẽ ngày ấy, trong suy nghĩ của tôi, chị chính là mẹ, chỉ có
điều bọn trẻ kia gọi bằng danh xưng “mẹ”, còn tôi, đặc biệt hơn, gọi là “chị”.

Lúc bốn, năm tuổi, tôi không biết rằng
chị em tôi rất nghèo, nghèo hơn tất cả những gia đình khác. Tôi vẫn thường thấy
mình có quần áo mới, có cơm ăn với thịt. Quần áo của tôi thường may ở nhà cô Nụ
hàng xóm. Thỉnh thoảng, thấy lâu lâu không có quần áo mới, tôi lăn ra sân ăn vạ,
không chịu ăn cơm. Chị Cả lại bế tôi sang nhà cô Nụ rồi bảo, “Cô may quần áo
cho em cháu chưa?”. Sau này lớn hơn tôi mới biết, quần áo của tôi là những miếng
vải thừa, cô Nụ may cho vì thương chị em tôi. Đôi khi là vì cô trả công cho những
buổi tối rảnh rỗi, chị Cả thường sang cắt chỉ giúp cô. Đến khi đi học thì tôi lại
thường có quần áo mới vì mỗi lần đạt thành tích gì, nhà trường lại tặng vải, rồi
cô Nụ sẽ may không công cho tôi. Cơm có thịt là bởi chị Cả hay mua thịt ế của
chú Thọ đồ tể lúc chợ đã vãn, giá rất rẻ. Chị thái thịt nhỏ rồi rim khô với đường,
cho vào lọ, chị em tôi ăn mấy ngày liền. Mỗi bữa cơm, chị lấy ra mấy miếng thịt
cho tôi và chị Hai ăn, còn chị thường chỉ mút chút nước đường chảy ra. Ở làng
quê ba mươi năm về trước thì cơm có thịt là cả một chiến tích rồi.

Tôi không hiểu vì sao chị Cả không bao
giờ nói với tôi rằng “nhà mình nghèo lắm”, cho tới khi tôi lớn. Về sau, tôi hiểu,
đơn giản vì chị không muốn hằn vào tuổi thơ của tôi thêm bất cứ nỗi thê lương
nào nữa.

Chúng tôi lớn lên nhờ vào mấy sào ruộng
Bắc Bộ. Mỗi năm quê tôi chỉ có hai vụ lúa và một vụ đông. Nhưng vụ đông ở quê
tôi không làm đại trà, chỉ một số ruộng đủ điều kiện để trồng luống ngô, luống
khoai, luống rau. Ngoài vụ mùa ra, người thì làm rợ, người thì đan nón, nhưng
kiếm thêm cũng chẳng là bao. Bởi thế, nhà nào không có đàn ông đi làm thuê bên
ngoài thì nghèo túng lắm. Nhà tôi không có đàn ông, lại không còn bố mẹ, chị Cả
tôi cũng chẳng biết làm rợ hay đan nón, vì thú thực chị không tỉ mỉ khéo léo được.

Nhưng chị Cả không chịu để chúng tôi
nghèo theo quy luật ấy. Chị đi học cách người ta cày bừa để không phải thuê người
cày. Cả cánh đồng mênh mông ấy, có độc chị tôi là con gái đi kéo cày. Hết vụ
mùa, chị xin đi phụ xây. Nhưng quanh làng quanh xã thì chẳng có mấy, mà phụ xây
xa thì chị tôi không đi được, bởi tôi và chị Hai biết bỏ cho ai chăm. Cuối
cùng, chị Cả tôi học người ta đi buôn đường mía hoặc đi buôn đồng nát. Những việc
ấy kiếm chẳng nhiều nhặn gì, song cũng hơn đan nón, làm rợ. Rồi những ngày mùa
đông mưa rét, nếu không buôn bán được gì, thì hôm đó thay vì đi chợ mua thức
ăn, chị sẽ dẫn tôi ra đồng bòn những ngọn rau sót lại trên các khoảnh ruộng bỏ
không. Mùa đông rau muống cằn cỗi, chỉ nẩy li ti ngọn nhỏ như tăm và ngắn bằng
ngón tay. Chị lội chân trần xuống hái rất lâu mới được một nắm. May mắn thì chị
có thể bắt thêm được con cá, con cua. Thế là chúng tôi có thức ăn mà chị không
phải chi tiền ra chợ. Hái được nắm rau rồi cũng là lúc hai tay chị tê cóng tím
tái.

Với tôi, những kí ức ấy, cho đến giờ, vẫn
lạnh buốt, và chẳng thể nào phai mờ được.

Khi lên mười, tôi biết chị em tôi không
nghèo nhất làng nữa. Chị Cả tôi rất biết cách tiết kiệm, khoản tiền chị kiếm được
cũng đủ chia thành tấm thành món và dư ra một ít để gửi tiết kiệm. Nhưng lúc ấy
chị Cả lại bảo với tôi rằng “nhà mình nghèo lắm”. Sau này tôi mới hiểu, chị nói
thế bởi tôi đã đi học rồi, đã biết chút ít rồi, nghe vậy thì tôi sẽ chăm chỉ học
hành hơn. Và quả thực, ở ngôi trường quê ấy, tôi luôn đạt thành tích nhất lớp,
nhất trường.

Mỗi lần cô giáo gửi sổ liên lạc về, chị
phê vào sổ cho tôi y như mẹ vậy. Có lần, chị đi họp phụ huynh cho tôi, cô giáo
nhầm tưởng chị là mẹ tôi. Đến lúc biết chị là chị Cả và chúng tôi không còn bố
mẹ, cô rất thương. Lúc ở lớp cô thường nói với tôi rằng, chị Cả tôi rất giỏi, rất
đáng được trân trọng. Từng lời cô khắc ghi vào tâm khảm tôi hình ảnh một chị Cả
đẹp lắm, yêu lắm, to lớn lắm.

Khi tôi bước vào cấp hai, những buổi tối,
ở nhà tôi rất đông khách. Tôi học ở trong buồng nhưng toàn qua khe cửa dòm ra.
Các bạn của chị Cả tôi, trai, gái có cả, nhưng tôi chỉ hay để ý người con trai
về muộn nhất thôi. Đó là bạn trai của chị. Người ấy thường về sau cùng và chị
tôi tiễn anh ở cửa rất lâu. Một thời gian sau, không thấy người ấy đâu thì có
người khác. Nhưng tôi không biết vì sao chị tôi mãi không lấy chồng. Con gái thời
ấy, chừng hai ba, hai tư chưa chồng đã bị gọi là ế chỏng ế chơ rồi. Chị không
bao giờ nói với chúng tôi về những người bạn trai ấy.

Sau này, tôi hiểu, chị sợ đi lấy chồng
rồi thì không còn ai lo cho chị Hai và tôi nữa. Chị Hai đã nghỉ học sau khi hết
lớp chín vì chị bệnh, còn tôi vẫn đi học. Chị Hai yếu đuối, ốm đau suốt nên chị
Cả không yên tâm để hai chị em tôi ở lại.

Năm chị Cả ba mươi tuổi thì tôi đang học
lớp mười hai. Bởi nghe người thiên hạ nói nhiều đến chuyện chồng con, vả lại
cũng đã đến lúc chị nhiều tuổi quá rồi nên chị quyết định lấy chồng. Nhưng lúc ấy
thì chị lấy ai? Tuổi ba mươi, bạn chị có con lớn đi học rồi. Những buổi tối
đông khách ở nhà tôi đã chấm dứt từ nhiều năm trước, không còn ai đợi chị ngoài
ngõ nữa.

Cuối cùng, chị nhờ người mai mối. Anh rể
tôi bằng tuổi chị, đã qua một đời vợ. Vợ anh mất khi sinh đứa con đầu. Đứa bé
cũng không ở lại với anh lâu. Vì thế ở làng, người ta bảo anh cao số, anh cũng
chẳng giàu có gì nên sau khi vợ mất đã lâu, anh cũng khó tái hôn. Anh còn có dấu
hiệu tâm thần sau khi vợ mất, có lẽ bởi quá căng thẳng với sự mất mát lẫn lời dị
nghị của xóm làng. Chị chủ động nhờ người ta làm mối cho. Ngày chị gặp anh là
ngày anh vừa ở viện tâm thần về. Anh chẳng nói gì, chỉ ngồi im, chị hỏi gì nói
nấy. Chị quyết định lấy anh dù chẳng biết yêu là gì. Sau này, khi tôi lớn hơn,
chị thường bảo tôi rằng, “nhìn vào mắt anh, chị nghĩ anh ấy tử tế”.

Ngày đi lấy chồng, chị khóc nhiều lắm,
không phải như những cô dâu khác, sợ xa bố mẹ đẻ. Chị tôi khóc vì ngày mai
không biết có còn lo được cho hai đứa em không. Tôi và chị Hai cũng khóc. Tôi
nghĩ mình đã khóc như khóc mẹ đi lấy chồng. Tôi thấy mình mất mát điều gì to lớn
lắm. Chú thím tôi cũng khóc. Sau khi rước dâu xong, tôi và chị Hai đạp xe về,
chị Cả níu áo dặn: “Dì út nhớ phải đỗ đại học”.

Vào lúc ấy, hai từ “đại học” với tôi xa
vời quá, làm thế nào để tôi có tiền đi học bây giờ. Trong giây phút chị nói câu
ấy, tôi cứ ngỡ như chị sẽ đi mãi không về nữa, tôi cứ nghĩ đi làm dâu rồi, chị
sẽ chẳng về quan tâm tới chúng tôi được nữa.

Nhưng chị Cả đã không để tôi phải lo về
điều ấy. Trước khi đi lấy chồng, chị Cả đã đưa vào tay chị Hai một ít vàng và một
cuốn sổ tiết kiệm. Số tiền không nhiều nhưng có thể cho tôi học một, hai năm đầu
đại học. Chị Cả dặn chị Hai rất kĩ rằng, số tiền đó phải để cho tôi đi học, nhất
định tôi phải được đi học.

Những ngày đầu sau khi chị Cả đi lấy chồng,
tôi không muốn đi học nữa, luôn buồn bã tự hỏi, rồi ngày mai tôi sẽ nương nhờ
vào ai.

Nhưng rồi, tôi thấy anh chị hay đạp xe
về thăm chúng tôi. Lần nào về, chị cũng mở nồi kiểm tra xem chúng tôi ăn gì. Đến
lúc ra ngõ chị lại nhìn lại, lần nào cũng như lần cuối cùng. Những ngày đó,
chúng tôi chẳng nói gì với anh rể, và anh cũng chẳng nói gì với chúng tôi.

Anh rể tôi chỉ trở nên gần gũi hơn với
chúng tôi khi vào vụ mùa, anh lên cắt lúa cho chị em tôi. Anh thường xuyên chở
chị Cả về trên chiếc xe đạp cũ, đi gần mười cây số, vì anh bảo: “Không yên tâm
về các dì”. Anh vẫn vài lần nữa phải đi lấy thuốc điều trị tâm thần nên chúng
tôi cũng sờ sợ. Trong ý nghĩ của tôi ngày ấy, người tâm thần là những người có
thể nổi khùng bất cứ lúc nào. Nhưng sau đó, anh dứt hẳn triệu chứng bất thường.
Người ta bảo, là bởi sau khi lấy chị Cả tôi, cuộc sống của anh chị ổn định hơn,
có người chia sẻ nên anh trở lại bình thường.

Rồi tôi cũng đỗ đại học như chị Cả mong
muốn. Ngày tôi báo đỗ, chị Cả đạp xe lên hỏi đi hỏi lại hai chữ “thật không”. Đến
lúc nhìn thấy tờ giấy báo nhập học, chị mới thực sự tin. Chị thắp hương lên bàn
thờ của bố mẹ tôi, có lẽ để báo với họ rằng chị đã yên tâm.

Những năm tôi học đại học, anh rể vẫn
thường cho tiền, dù lúc ấy anh chị cũng chưa dư dả gì. Ngay cả lúc tôi đã kiếm
được việc làm thêm, anh vẫn cho. Khi chị Cả tôi sinh con, anh tự tay chăm vợ
chăm con, không nề hà việc gì, vì tôi và chị Hai không giúp đỡ được nhiều. Buổi
tối, anh lại đạp xe lên thăm hai chị em tôi, để về báo cáo lại với chị Cả xem
chúng tôi có ổn không.

Bây giờ, mười năm sau kể từ ngày đó,
anh chị tôi đã có hai cậu con trai, có nhà cửa khang trang với mức sống tương đối
khá ở quê, anh không còn phải vào viện vì những triệu chứng bất thường nữa. Nhiều
người bảo, chị Cả tôi gặp hậu vận về sau. Nhưng, dù kinh tế đã khá giả hơn,
song chị Cả tôi vẫn không bỏ được thói quen xưa – thói quen nhặt cơm rơi. Bây
giờ, còn thừa cả cơm cho mèo cho chó, nhưng hễ hạt cơm nào rơi khỏi bát, chị vẫn
nhặt lên. Nhiều lúc, chị xấu hổ, nhặt lên rồi lại bỏ đi, và cười. Nhìn cảnh ấy,
tôi vừa xót lòng vừa thương.

Thầm cảm ơn chị.

Với tôi, chị thật sự vẫn như mẹ.

II.
Chị Hai[1]

[1]
Tức con thứ hai trong gia đình chứ không phải là con thứ nhất như cách gọi ở miền
Nam.

Chị Hai hơn tôi bảy tuổi, nhưng kể từ
khi dậy thì, chị luôn thấp hơn tôi. Đến năm hai lăm tuổi, chị cũng vẫn chỉ vỏn
vẹn một mét bốn mươi. Mỗi lần đứng bên cạnh nhau, tôi cao hơn chị cả cái đầu.
Ngay từ khi còn là bào thai, chị tôi đã có những biểu hiện bất thường. Nhưng
ngày ấy ở quê đâu có siêu âm, khám thai định kì. Nghe thím tôi kể lại thì lúc
mang thai chị, mẹ tôi nôn ói rất nhiều, khác hẳn ngày mang thai chị Cả. Lúc chị
được ba tháng thì bụng mẹ tôi đã to hơn người có thai năm tháng. Khi ra đời, chị
ngắn cũn, tròn ủng, bàn chân trái to bất thường. Chị quấy khóc liên miên suốt
ba năm đầu. Vào tuổi dậy thì, chân trái của chị càng to, to hơn chân phải và to
gần gấp đôi chân người thường. Chị Cả đã đưa chị lên tận Hà Nội khám. Bác sĩ bảo
chị bị phù chân voi do giun chỉ, không chữa được.

Đóng dấu trong đầu những người quen, chị
Hoài của tôi là một cô gái tàn tật, có gương mặt béo phù, có chân trái sưng to,
có dáng người lùn như cây nấm, thường xuyên ốm yếu. Cũng vì ốm yếu nên làm việc
gì chị cũng chậm chạp. Cũng vì ốm yếu nên chị khó lòng học tập được. Cũng vì ốm
yếu nên lúc chị đã ngoài hai mươi, tôi đã vào lớp mười mà chị Cả tôi vẫn không
yên tâm đi lấy chồng. Cũng vì chị ốm yếu tàn tật nên đến ngoài hai mươi tuổi,
chị tôi vẫn chưa từng yêu và chưa từng nghĩ sẽ lấy chồng. Chị có phần thu mình
lại trong cái vỏ ốc riêng mình.

Bù lại, chị Hai tôi lại được đôi tay
khéo léo. Chị đan nón rất đẹp. Bởi thế, chị Cả thường nhận phần làm việc ngoài
đồng nhiều hơn, cho chị Hai ở nhà đan nón.

Ngày chị Cả đi lấy chồng, tôi đã học cấp
ba, đã biết làm ruộng. Nhưng tôi thực sự lo lắng, không có chị Cả thì tôi và chị
Hai sẽ làm thế nào đây.

Không ngờ, chị Hai tôi bảo: “Từ bây giờ,
chị sẽ cố gắng làm ruộng với em”.

“Vâng”.

Chị nói và chị làm thật.

Sáng sớm, ba giờ, chị đã ra đồng nhổ mạ
đi cấy. Chị bảo người ta khỏe, người ta làm nhanh, còn mình yếu thì mình làm
thêm giờ, rồi cũng sẽ xong bằng họ. Vì chị thấp nên mỗi lần xuống ruộng sâu,
bùn ngập đến bẹn, chị phải lết mãi, lết mãi mới đi được, trông rất khổ. Mỗi lần
vào mùa, phải cúi nhiều, mặt chị càng tròn, càng to, mí mắt sụp xuống. Có lần
chị phải hiếng hiếng mới nhìn thấy tôi.

Cũng bởi thế nên anh rể thương chị em
tôi, thường lên làm giúp. Và cũng bởi thế, tôi nhận ra sự tử tế của anh.

Ngày xa nhà lên phố học đại học, tôi
khóc. Bởi tôi nghĩ, bảo chị Hai đừng làm ruộng nữa cũng không được, chị lấy gì
cho tôi đi học. Nhưng để chị làm hết chỗ ruộng đó thì chị sẽ như thế nào? Mỗi
ngày ngồi trên giảng đường, tôi chỉ mong sao mình học thật nhanh, học thật giỏi
để có chút học bổng, để nhanh kiếm ra tiền, để đỡ gánh nặng cho chị. Lần nào
tôi về nhà, chị cũng đưa tiền cho tôi, ngay cả khi tôi chưa hết tiền. Tôi bảo
em vẫn còn thì chị cứ bảo đừng ăn uống tiết kiệm quá nhé.

Khi tôi xin được việc làm thêm, tôi bảo
chị cho thuê bớt ruộng đi, nhưng chị bảo giờ chị làm nhanh lắm. Đúng thế thật.
Chị vẫn chỉ có một mét bốn mươi, chân còn sưng to hơn trước, nhưng chị làm
nhanh hơn khi ở cùng tôi và chị Cả rất nhiều. Chị không còn đi làm sớm từ ba giờ
sáng nữa, cũng không về muộn vào lúc tám giờ tối nữa, lại còn không có tôi đỡ,
vậy mà vẫn xong bằng người ta.

Chị bảo: “Việc đến tay rồi sẽ làm được
thôi, phải khỏe ra thôi”.

Tôi biết chị cố gắng và chị nói vậy chứ
mỗi lần đi làm về, chân chị thêm nặng nề, mặt sưng phù lên thì biết chị khó chịu
lắm.

Cánh đồng quê mênh mông thường rất vắng
lúc trưa nắng. Nhưng nhiều khi, chị vẫn thường tranh thủ làm. Có lần tôi về nhà
lúc giữa trưa, thấy cổng khóa. Tôi đi tìm hết ruộng trên ruộng dưới mới thấy
dáng chị nhỏ thó lấp ló giữa đám lúa cao. Chị xếp lúa vào đôi quang gánh rồi bước
đi chênh vênh giữa bờ ruộng. Mặc dù đã đặt người thợ làm giúp đôi quang gánh ngắn
hơn của người thường, nhưng khi chị gánh lên thì đáy quang vẫn quệt vào nhiều
đoạn nhấp nhô trên bờ ruộng. Chiếc nón rộng vành phủ kín cái cổ thấp ngắn của
chị. Nhìn chị nghiêng nghiêng đôi quang gánh dưới cái nắng hè, tôi nghĩ chị
đang gồng vai lên để gánh cuộc đời mình, gánh những đau thương chứ không phải
gánh vụ mùa. Tôi chạy lên đưa vai ra đỡ thì chị bảo: “Em đi học lâu ngày không
làm, chắc không quen đâu, lên bờ cây nghỉ đi, đợi chị”.

“Sao chị làm cả trưa nắng làm gì? Giữa
cánh đồng vắng thế này…”.

“Ở đây nắng nhưng có gió, làm được tí
chị lại lên ngồi dưới bóng phi lao thế này” – chị vừa nói vừa đưa tôi can nước
– “Em uống đi. À, chị mang cơm ra đây, chị em mình ăn nhé”.

Có người biết chị hay một mình ở cánh đồng
trưa vắng liền sinh tà ý. Hắn thường lởn vởn ra đồng để trêu ghẹo chị. Nghĩ là
chị nhỏ thó sẽ chẳng chống cự được, nhất là giữa cánh đồng nắng ban trưa, có la
hét cũng không ai biết. Có người nghĩ chị lớn tuổi rồi, không có người yêu
thương thì chắc cũng muốn chuyện đó để có đứa con. Nào ngờ, đợi cho họ tiến tới
gần, chị giơ đòn gánh chọc thẳng vào hạ bộ. Bây giờ thì chị có thể vô tư ở cánh
đồng giữa trưa một mình mà không ai dám trêu chọc nữa.

Mấy năm gần đây, khi những nhà máy may
mặc, giày da mọc lên trên những khu đất nông nghiệp của quê, chúng tôi khuyên
chị nên đi làm công nhân, không làm ruộng nữa. Làm trong các nhà máy, sẽ thường
xuyên phải về muộn vì tăng ca nhưng không còn phải dầm mình trong bùn đất,
không phải phơi mình ngoài nắng mưa.

Chị bảo dáng chị nhỏ con thế, chắc gì
người ta nhận. Nhưng không ngờ, công ty mới mở, họ tuyển cả những người chưa có
tay nghề vào đào tạo, thế nên chị vẫn được nhận.

Chị Hai trở thành công nhân may, đi sớm,
về muộn nhưng không phải gồng gồng gánh gánh, lội bùn đạp đất nữa, chân và mặt
chị vì thế cũng bớt sưng đi nhiều. Dáng người chị thon gọn hơn hẳn, những lúc
chị mặc quần dài, không ai nghĩ cái chân trái của chị to bất thường nữa.

Nhưng không ai dám nhắc đến chuyện lấy
chồng của chị. Đóng đinh trong đầu mọi người xung quanh là chị tôi nên kiếm một
đứa con để nương tựa lúc già, chứ không ai nghĩ chị sẽ lấy được chồng. Bản thân
chị cũng nghĩ, chị sống cuộc đời mình thôi, không con cái làm chi cả. Nhiều lần,
tôi và chị Cả vẫn nói rằng, muốn chị có đứa con, nhưng chị Hai gạt phắt đi.

Chị bảo: “Thôi, có con làm chi. Mình
sinh ra nó thì nuôi nó chứ nghĩ chi nhờ nó. Lỡ nó giống mình thì sao đây”.

“Giống làm sao được, chị cứ tin em đi.
Bệnh này không di truyền”.

“Không, con không cha, thiệt thòi nó”.

Không muốn cứa thêm vào nỗi đau của chị,
tôi và chị Cả đã tảng lờ không nhắc nữa. Chị em tôi cứ nghĩ, sẽ cố gắng làm ăn,
dành dụm ít tiền, phòng khi chị Hai gặp lúc khó khăn thì có thể đỡ đần.

Nhiều lần, xong xuôi công việc ở phố rồi
tôi mới chạy xe về thăm chị. Chín giờ tối mà cửa nhà đã khóa. Có lần, tôi tưởng
chị chỉ khép nên quờ tay vào kéo chốt.

Nghe tiếng động, chị chạy ra: “Đừng có
làm phiền nha”.

“Chị ơi, em về mà”.

“Ôi, thế à?!”.

“Nhưng sao chị lại nghĩ là ai đến làm
phiền?”.

“Ừ, có mấy tay vớ vẩn, nghĩ chị ở một
mình, không chồng không con, lại tàn tật nên đến trêu chọc ấy mà” – chị nói
trong giọng rầu rầu.

Cũng bởi những chuyện như thế, nhiều
lúc tôi cứ ước có được nhà trên phố để đưa chị đi. Nhưng cái ước mơ của tôi chẳng
bao giờ thực hiện được.

Rồi cũng đến lúc tôi đi lấy chồng.

Ngày cưới, tôi khóc. Giống như chị Cả,
tôi khóc không phải vì sợ xa bố mẹ, bởi tôi biết bố mẹ chồng và chồng tôi sẽ bù
đắp cho những năm tháng mồ côi của tôi. Bằng trực giác, bằng những năm tháng
quen biết, tôi tin rằng lấy chồng, cuộc sống của tôi sẽ tốt hơn, sẽ có chỗ dựa
thật sự. Tôi khóc trong đám cưới, bởi căn nhà ấy giờ chỉ còn mình chị Hai tôi ở.
Tôi không lo cho chị như chị Cả lo cho chúng tôi ngày xưa, bởi bây giờ chị Hai
tôi còn làm được nhiều việc hơn cả người bình thường.

Tôi khóc vì thương phận chị hẩm hiu.

Báo cáo nội dung xấu