Tôi mang thai đứa con của chị gái - Chương 03 - 04
III.
Con đường tình tôi đi
Ở trên, tôi có nói rằng tôi đi lấy chồng.
Tôi cưới người đàn ông mình yêu và yêu mình chứ không như chị Cả tôi, lấy vì
linh cảm anh ấy tử tế.
Nhưng, để đi đến cái ngày đó, tôi cũng
đã mất nhiều nước mắt, và cả máu.
Năm đầu tiên vào đại học, tôi vẫn còn
là một đứa con gái đầy bỡ ngỡ trước cuộc đời, lại luôn sợ sệt vì mình không có
nhiều tiền, cũng chẳng có bố mẹ để dựa vào. Nhưng đến năm thứ hai, tôi đã trở
nên tự tin hơn nhiều, bởi thành tích học nhất lớp và xin được việc làm bán thời
gian. Rồi đến lúc tôi phải lựa chọn, dành nhiều thời gian học để giữ học bổng
hay tiếp tục đi làm để có tiền học, để đỡ đần cho chị Hai. Sau ba đêm nằm nghĩ,
tôi quyết định vẫn đi làm dù công việc đó khá vất vả và chỉ cố giữ học lực ở mức
khá thôi. Lí do, ra trường với bằng khá là ổn rồi. Còn đi làm, tôi có tiền đóng
học, có kinh nghiệm nữa, khi ra trường có lẽ sẽ dễ xin việc hơn.Cũng trong năm
thứ hai ấy, tôi gặp Minh, học trên tôi một khóa nhưng ở chuyên khoa khác. Chính
Minh đã giới thiệu cho tôi chỗ làm bán thời gian ấy. Minh cũng nói rằng, anh
thương tôi và ngưỡng mộ nghị lực của tôi, anh muốn ở bên cạnh một người con gái
như tôi. Nhưng thực lòng, tôi chẳng còn thời gian cho tình yêu. Tôi cứ lao vào
công việc, chỉ duy với mong mỏi là kiếm được tiền. Minh bảo, anh không cần tôi
quan tâm, không cần tôi trả lời, chỉ cần thỉnh thoảng rảnh rỗi thì trò chuyện với
anh. Việc của tôi là đừng nhận lời yêu một ai khác, còn việc của anh là chờ đợi
đến khi nào cuộc sống của tôi ổn, chờ khi nào tôi có thời gian yêu. Tôi hồn
nhiên xem Minh như ân nhân và như một người anh thân thiết.
Nhiều lần, Minh bảo muốn về quê tôi
thăm chị Cả và chị Hai. Đến khi nghĩ rằng Minh thật sự chân thành, tôi đã mời
anh về.
Hôm ấy, đúng vào mùa cắt lúa. Khi chúng
tôi vừa tới cổng thì chị Hai kéo một xe lúa về. Chị bịt khăn kín mặt, hở ra cặp
mắt nhỏ như sợi chỉ. Tôi ùa tới đẩy lúa vào sân cho chị, còn Minh đứng trơ trơ.
Đến lúc chị Hai tháo chiếc ủng ở chân ra thì tôi thấy Minh giật mình. Tôi nhìn
thấy khoảnh khắc ấy bởi đó đúng là lúc tôi gọi Minh ra rửa mặt. Trái tim tôi lạnh
toát. May mà chị Hai không biết điều đó.
Tối hôm đó, tôi gọi báo cho chị Cả biết
để anh chị lên chơi. Hai vợ chồng anh chị chở hai đứa con lên. Trong bữa cơm muộn,
chị Cả lại nhặt hạt cơm rơi ở chiếu nhưng chưa kịp đưa lên miệng thì chị bỏ nó
ra ngoài. Lúc rửa bát, Minh cũng vào theo, tôi kể cho anh nghe chuyện ngày xưa
chúng tôi nghèo thế nào, vì sao chị Cả lại có phản xạ nhặt hạt cơm như thế.
Minh cười rồi bảo: “Anh thật ngưỡng mộ các chị em em”.
Nhưng, trở về thành phố sau lần đó,
Minh bỗng xa tôi. Anh không nói lại chuyện anh chờ tôi, anh cũng chẳng mời tôi
đi chơi lúc tôi rảnh. Tôi quá bận với công việc và học hành, lại cũng không thực
sự thích anh nên chẳng mấy bận tâm. Cho tới một hôm, khi đi làm về, tôi thấy
hai người lướt qua, dáng vẻ quen quen. Thì ra là Minh và cô bạn cùng khoa. Cô ấy
ôm chặt lấy eo anh.
Tôi ngỡ ngàng đứng nhìn.
Minh đúng lúc ấy cũng nhìn thấy tôi.
Hôm sau, anh giải thích rằng: Anh nghĩ
anh không hợp với em. Cuộc sống của em khác với của gia đình anh quá.
Tôi chỉ gật đầu rồi đi. Một chút buồn
kéo đến, tôi thấy cảm giác trống rỗng. Nhưng công việc cuốn tôi đi, những suy
nghĩ về Minh nhanh chóng tan biến.
Sau lần đó, không thấy tôi dẫn Minh về
nữa, chị Cả bảo: “Cậu ấy có vẻ phố xá lắm dì ạ. Hôm đó hình như cậu ta ngạc
nhiên về chị lắm nhỉ?”.
“Kệ anh ấy, em không quan tâm đâu”.
Tôi nói thế nhưng chị Cả vẫn buồn, cái
buồn y như của một người mẹ chứ không phải của người chị với em gái.
*
Năm cuối đại học, tôi quen Mạnh, con của
thầy giáo hướng dẫn tôi làm đồ án.
Khi làm đồ án tốt nghiệp, tôi có qua
nhà thầy vài lần và gặp Mạnh. Trong tôi hiện lên ý nghĩ, “anh nhìn giống hệt thầy,
chắc cũng tốt tính và đầy lòng trắc ẩn như thầy”. Có lẽ, tôi đã yêu Mạnh trước
khi anh ấy yêu tôi. Lần này, chưa đợi Mạnh xin về nhà, tôi đã mời anh về.
Nghe tôi báo tin, chị Cả bảo: “Hôm nay
chị không lên đâu. Chị vừa đi cấy về, bàn tay bàn chân bám màu ố vàng cả, móng
tay đen xì. Trông chị quê mùa thế, lên ngại lắm. Cậu ấy lại…”.
“Không, em đã mời ai về nhà là em biết
họ như thế nào mà. Chị phải lên chứ. Nếu họ cư xử không phải, em cho ra rìa
luôn”.
Tối hôm đó, chúng tôi vui vẻ ở chiếc
bàn ngoài sân. Mạnh chơi đùa với đứa con chị Cả khiến nó thích thú vô cùng. Mỗi
lần tôi gọi về, thằng bé bập bẹ hỏi chú Mạnh đâu. Tôi đã mơ đến ngày tôi hai
mươi lăm tuổi, có việc làm ổn định, Mạnh sẽ đeo vào tay tôi chiếc nhẫn cưới.
Nhưng cuộc đời không như mơ.
Cuộc tình ấy tan vỡ trước khi tôi sang
tuổi hai mươi lăm, khi tôi biết mình đã có thai.
“Sao em lại để như thế?”.
“Tại em? Anh có thể hỏi như thế ư? Giờ
anh tính sao?”.
“Không để nó được đâu. Phát hiện sớm thế
thì bỏ đi cũng không sao. Con thì đẻ được nhiều lần nhưng danh dự thì không”.
“Danh dự gì chứ. Chúng ta yêu nhau,
chúng ta cùng chịu trách nhiệm thì ai nói gì được”.
“Không. Anh chưa thể cưới lúc này. Anh
còn phải đi du học lấy bằng thạc sĩ. Em cũng vừa mới đi làm mà”.
“Trước đây anh đâu có nói thế”.
“Vì chưa đến lúc nói”.
Mạnh nhất quyết bảo tôi phải đi bỏ đứa
bé. Anh còn chở tôi đến phòng khám khuất tận trong ngõ, rồi bảo tôi tự vào, anh
đứng ở ngoài. Tôi cay đắng bước vào. Nhìn những ánh mắt xa lạ, tôi thấy mình
như kẻ có tội. Tôi có kể cho bác sĩ nghe, họ đưa cho tôi vài viên thuốc và bảo:
“Thai nhỏ nên uống thuốc có thể xử lí được”. Nhưng trong tôi đang dâng lên một
cảm giác tội lỗi, không hẳn vì hủy đi một sinh mạng, mà vì đã không thể chịu
trách nhiệm với việc làm của mình, đã hèn hạ sợ hãi. Bởi thế, tôi không đi ra
ngoài theo lối mà Mạnh đang đứng đợi. Tôi bắt xe ôm về phòng trọ và ném những
viên thuốc ấy vào sọt rác.
Mạnh, sau đó, cũng không liên lạc với
tôi.
Hai tháng sau, tôi nghe cô bạn thân bảo,
Mạnh đã ra sân bay đi Mĩ. Điều đáng nói là anh đi cùng với một cô giáo trẻ, vốn
là học sinh của thầy tôi.
Tôi đã can đảm gọi điện kể với chị Cả.
Chị lặng đi hồi lâu rồi nói: “Về đây với tôi. Dì cứ sinh nó rồi tôi nuôi cho. Đừng
bỏ nó mà tội, rồi đến lúc muốn có con chẳng có được”.
“Vâng”.
Tôi đã nghĩ, cuộc đời của tôi sẽ là như
thế, sẽ là một người mẹ đơn thân, sẽ làm mọi việc để nuôi con tốt như chị Cả đã
nuôi tôi. Tôi có chị Cả và chị Hai bên cạnh, tôi không sợ gì cả. Tôi cũng nói
thật sự tình với sếp và đồng nghiệp ở công ty. Mọi người cổ vũ tôi giữ đứa bé
và hứa sẽ tạo điều kiện giúp tôi trong công việc. Tôi thực sự cảm thấy đời mình
may mắn.
Nhưng, cuối cùng, tôi đã không giữ được
đứa con của mình.
Tôi gặp lại thầy giáo khi cái bụng đã
hơi lùm lùm. Thầy nghi ngờ và gặng hỏi. Thầy nói, nếu là cháu của thầy thì thầy
có trách nhiệm, thầy cần dạy cho con trai một bài học. Tôi đã kể hết cho thầy
nghe. Trước lúc ra về, thầy bảo tôi hãy yên tâm, thầy sẽ quan tâm tới hai mẹ
con tôi.
Hai hôm sau, từ bên Mĩ, Mạnh gọi về nói
với tôi những lời cay đắng. Anh bảo tôi cố giữ cái thai để hại đời anh, anh bảo
dù có chết cũng không chịu nhận, anh bảo đó là đứa bé tai quái. Quá sốc với những
lời dã thú ấy, tôi bỏ văn phòng chạy ra ngoài. Cái trượt chân ở cầu thang khiến
tôi bị ra máu nhiều. Đồng nghiệp đưa tôi đi cấp cứu, nhưng đứa bé thì không còn
giữ được. Tôi khóc như chưa bao giờ thấy mình đau đớn như thế. Tôi từng nghĩ, đứa
bé bị Mạnh chối bỏ khiến cuộc đời tôi bỗng chốc có trở ngại, để rồi chính tôi
nhận ra đứa bé sẽ sẽ tiếp cho tôi thêm sức mạnh. Nên khi mất con, tôi thực sự
thấy đau đớn, thấy ân hận vì sự bất cẩn của mình.
Tôi không về quê mà ở lại phòng trọ,
tránh đi cái dị nghị của người làng. Chị Cả không lên được vì lúc đó mới sinh đứa
thứ hai. Chị Hai xin nghỉ hai ngày lên với tôi rồi lại về, bởi làm công nhân rất
khó xin nghỉ lâu. Tôi nằm trong phòng trọ, thu lu như kẻ mất hồn. Cuộc tình với
Mạnh đã đòi tôi phải trả giá lớn quá. Không những thế, tôi còn khiến hai chị lo
nghĩ.
Thầy giáo tôi có đến thăm và nói lời
xin lỗi. Nhìn dáng thầy phúc hậu, tôi càng cay đắng, sao Mạnh lại không được một
phần của thầy cơ chứ, sao tôi vội vã nghĩ anh cũng đường hoàng như thầy, để rồi
mù quáng với tình yêu ấy. Thầy bảo tôi phải gắng gượng lại, không thầy sẽ thấy
có lỗi cả đời. Nghe lời thầy, tôi nhanh chóng lấy lại sức khỏe và đi làm. Nhưng
lòng tôi đã sợ sệt hơn nhiều. Tôi trở nên cẩn thận và dè dặt hơn trước đàn ông.
Cho đến hai năm sau, tôi gặp chồng tôi
bây giờ.
Anh ấy là đối tác của công ty tôi.
Khi nhìn thấy tôi, anh bảo: “Như gặp em
từ bao giờ rồi, quen lắm”.
Tôi nghĩ, lại một thằng cha dẻo mỏ, nói
khoác. Nhưng sau đó, anh gọi điện cho tôi liên tục dù chẳng có việc liên quan.
Anh thẳng thắn bảo: “Hôm đó thấy ấn tượng,
anh xin số của em qua sếp em đấy”.
Nhưng tôi dè dặt hơn với mọi mối quan hệ.
Cho đến một ngày, anh bảo: “Anh biết nhắc
lại sẽ làm em đau, nhưng sự thật là sếp em đã kể với anh về những chuyện của
em. Anh ấy bảo, nếu thông cảm được thì mới cho anh số của em. Anh nói lại chuyện
này để em biết rằng anh đã rất hiểu em rồi, đừng dè dặt với anh. Anh thích em,
thích cách em đối diện với chuyện ấy, anh trân trọng điều đó. Nếu đứa bé đó
còn, chắc chắn anh sẽ yêu quý nó, vì em nên nó đáng được yêu quý”.
Tôi vẫn bước đi thì anh nói tiếp: “Nếu
em không quay lại nhìn anh, tức là em đang để rơi hạnh phúc của mình đấy. Thật
đáng tiếc”.
Anh nói ngọt lành như thế đấy. Nhưng
khi tôi quay đầu nhìn lại thì anh lại gãi đầu gãi tai và không còn nói thêm được
câu gì nữa. Tôi nghĩ, như thế chắc chắn không phải là nói dóc.
Vì sự chân thành đó, tôi đã dẫn anh về
nhà.
Tôi bảo: “Nếu các chị em thích anh thì
em đồng ý”.
Không ngờ, chị Cả tôi bảo: “Chú ấy cười
toét miệng như trẻ con. Kiểu người đó thì không sâu sắc được đâu nhưng đáng tin
đó, không có gì xấu bụng cả”.
Nghe tôi kể về chị Hai nên lúc gặp chị
anh tỏ ra rất thân thiện. Anh thường bảo với tôi, nếu chị cứ ở một mình như thế
thì phải thường xuyên về thăm chị, tiết kiệm hơn để có chút dành dụm tặng chị.
Bữa cơm đầu tiên ở nhà tôi, vợ chồng chị
Cả, chị Hai, tôi và anh ăn uống vui vẻ và không có những e ngại. Trái tim mách
bảo đây đúng là người đàn ông của đời tôi.
Rồi tôi đến nhà anh. Bố mẹ anh tiếp đón
rất tận tình. Ông bà cũng bảo rằng, biết tôi mồ côi nên thương lắm. Tôi không
ngờ cuộc đời mình lại gặp gỡ được những con người như thế.
Lúc ấy, chỉ cầu mong sao, may mắn rồi
cũng sẽ mỉm cười với cuộc đời chị Hai, chị sẽ gặp được một bến đỗ bình yên như
chị Cả và tôi.
IV.
Ðám cưới người đàn bà tật nguyền tuổi ba lăm
Bây giờ, chị Cả tôi đã bốn mươi tuổi,
chị Hai đã ba mươi lăm, và tôi hai mươi tám. Cuộc sống của ba chị em tôi đã tạm
đi vào ổn định, không còn những lo lắng như trước nữa. Chị Cả vẫn buôn đồng nát
và làm ruộng, anh rể cả – anh Sơn vẫn đi phụ xây ở các tỉnh. Cứ đến mùa, anh lại
về cắt lúa giúp vợ. Anh không còn ít nói như trước mà nhanh nhẹn hơn nhiều. Hai
đứa con của chị Cả là thằng Kiên và thằng Khánh lần lượt học lớp ba và lớp một.
Tôi và chồng – anh Tiệp sống ở Hà Nội, cùng bố mẹ chồng. Cuộc sống của vợ chồng
tôi khá êm đẹp, bởi chỉ có vài xích mích nhỏ nhặt mà gia đình nào cũng có, còn
cơ bản là hòa thuận. Bố mẹ chồng tôi rất thương người, tôi nhanh chóng được ông
bà cảm thông và yêu thương. Đứa con đầu lòng của tôi đã lon ton biết chạy.
Chị Hai của tôi vẫn làm công nhân và
vui vẻ hơn vì chị có nhiều bạn ở công ty, dáng người chị gọn gàng hơn vì chân
và mặt bớt sưng. Những tiếng gọi cửa lúc đêm khuya đã không còn vì người ta hiểu
lòng kiên định của chị. Vợ chồng tôi và vợ chồng chị Cả nhắc nhau thường xuyên
về cuối tuần để ăn bữa cơm với chị Hai.
Một buổi tối, khi tôi đang tắm cho con
thì điện thoại reo. Tôi không nghe mà bảo chồng nghe. Tôi không biết điện thoại
của ai mà chồng tôi chốc chốc lại cười.
Lúc ngắt điện thoại, anh nhảy vào nhà tắm,
đập nước trong chậu của con: “Em ơi, tin vui, vui lắm”.
“Anh như trẻ con ấy, sao lại đập nước
nghịch như con vậy”.
“Em ơi, em biết chuyện gì không?”.
“Thế có chuyện gì? À, mà điện thoại của
ai thế?”.
“Của bác Huệ”.
“Bác ấy mới trúng quả làm ăn gì à, sao
vui thế?” – tôi hỏi thế bởi tháng trước vợ chồng anh chị Cả vừa mua bán chuyển
nhượng đất đai gì đó, được hai chục triệu, thế là anh chị ấy cho vợ chồng tôi
và chị Hoài, mỗi người ít tiền, gọi là chia lộc.
“Không. Em chỉ nghĩ tới tiền thôi à.
Bác ấy bảo hôm nay gặp người yêu bác Hoài”.
“Hả? Anh nói thật không? Thế anh tắm nốt
cho con, em vào gọi lại cho bác ấy xem thế nào”.
Nhưng chồng tôi kịp kéo tôi lại: “Em
không phải sốt ruột thế. Chắc chắn đấy. Bác ấy bảo cuối tuần vợ chồng mình về để
xem mặt”.
“Nhưng em muốn hỏi xem anh ta thế nào?
Anh có hỏi không?”.
“Có, nhưng bác ấy chỉ bảo là được lắm”.
Tôi không gọi lại cho chị Huệ, cũng
không dám gọi hỏi chị Hoài, bởi tôi biết tính chị Hoài, hỏi lúc này có thể khiến
chị ấy bực mình. Nhưng cả đêm đó tôi không ngủ được.
Tôi quay sang nhéo chồng chỉ để hỏi:
“Không biết anh ấy thế nào nhỉ?”.
Chồng tôi bị nhéo liên tục nên cáu. “Em
có về ngày mai thì cũng không gặp đâu, cuối tuần anh ấy mới tới cơ, tốt nhất là
ngủ đi”, rồi anh ôm gối ra phòng khách để tôi không làm phiền.
Tôi thì cả đêm cứ tự hình dung xem anh ấy
thế nào, sao lại gặp nhau… Đến gần sáng mới chợp mắt được.
Bởi thế, tôi dậy muộn. Lúc tôi đang lơ
mơ thì nghe tiếng mẹ chồng ở ngoài.
“Tiệp, dậy đi, sao lại ngủ ở ghế để muỗi
cắn thế này? Con Hồng đâu, vợ chồng lại giận nhau à, giận nhau cũng đừng có ngủ
riêng, đã dặn thế rồi mà…”.
Tôi luống cuống chạy ra thì chồng tôi
đã nhảy tưng tưng lên: “Không giận đâu mẹ ơi, mà vui quá mẹ ạ”.
“Vui gì, sao lại thế?”.
“Bác Hoài nhà con sắp lấy chồng nhé. Vợ
con vui quá không ngủ được, cứ nhéo con nên con ra đây”.
“Anh…” – tôi ném cho chồng cái nguýt
dài vì cái tội đã hơn ba mươi tuổi đầu rồi mà vẫn hồn nhiên như trẻ con.
“Thật à con?” – mẹ chồng hỏi tôi.
“Anh ấy nghe điện chứ con không nghe,
con còn chưa rõ thế nào”.
“Thế cuối tuần vợ chồng về với bác ấy
đi”.
“Vâng ạ”.
*
Sáng thứ Bảy, vợ chồng tôi lục tục về
quê để xem mặt người yêu của chị Hai. Nhưng chị làm ở nhà máy đến bảy giờ tối mới
về. Vợ chồng chị Cả và hai đứa nhỏ cũng lên từ trưa. Tôi đã kịp nghe chị Cả kể
về anh. Anh tên Hưng, ba mươi chín tuổi. Trước đây anh từng là quân nhân chuyên
nghiệp. Nhưng do đơn vị giải thể, anh ra khỏi quân ngũ. Bây giờ anh ở nhà đi
làm cai xây. Đặc biệt anh chưa từng lấy vợ.
Buổi tối, lúc chị Hoài còn chưa về thì
anh đã sang.
“Chúng cháu chào chú” – thằng Kiên và
thằng Khánh cùng đồng thanh.
“Chào anh chị, chào dì Hồng, chú Tiệp”.
“Ối, anh đã biết cả tên vợ chồng em cơ
à?!”.
“Biết chứ!”.
Lúc chúng tôi đang nói chuyện vui vẻ
thì chị Hoài về. Chị bước vào, vứt cho anh em thằng Kiên, Khánh túi bánh mì còn
nóng giòn. Sau đó chị và anh Hưng đi ra ngoài.
Chồng tôi hớn hở: “Bác Sơn thấy thế
nào? Anh ấy ngồi cùng cạ với anh em mình được đấy nhỉ?”.
“Ờ, thì quan trọng là dì Hoài thấy thế
nào chứ anh em mình thì đơn giản thôi”.
“Hứ hứ, anh em nhà chú thì khỏi bàn” –
chị Huệ chọc vào.
Tôi kéo chị Cả vào phòng trong.
“Nhưng sao gần bốn chục rồi mà chưa lấy
vợ lần nào nhỉ? Trông anh ấy cũng được mà”.
“Ừ thì, chắc duyên tình lận đận. Chả biết
được. Lòng người thì khó đo nhưng bây giờ thì thấy cũng được nhỉ. Hơn dì Hoài rồi”.
“Vâng…”.
“Giờ cứ phải động viên dì ấy lấy. Chứ
tính dì ấy cứ ngãng ra, ngại lấy chồng. Dì ấy bảo với tôi là dì ấy lớn tuổi rồi,
khó sinh con, lại tàn tật, ngại người ta để ý”.
“Thế sao quen anh ấy?”.
“Bạn bè giới thiệu gì đó”.
“Anh ấy biết chị ấy bị thế rồi chứ?”.
“Ừ, biết rồi. Quan trọng là họ biết mình
thế mà vẫn lấy. Nên tôi nghĩ chú ấy cũng là người tử tế”.
“Vâng. Nhưng liệu có điều gì ẩn sau đó
không?”.
“Chắc không đâu. Tôi dò hỏi mấy người
làng ấy rồi. Họ bảo chú ấy hiền lành, tốt tính, hay giúp người lắm. Còn vì sao
mãi chưa lấy vợ thì không biết”.
Dầu cho biết bao may mắn đã gặp, tôi và
chị cả cũng vẫn phải dè dặt. Chúng tôi nghĩ, nếu cuộc hôn nhân ấy không thuận
buồm xuôi gió thì sẽ chỉ cứa sâu thêm vào nỗi đau của chị Hai. Cho nên, giữa cuộc
đời đầy bất trắc này, mọi thứ đều phải kĩ càng – chị em tôi luôn nghĩ thế.
Đêm ấy, để con Cún ngủ với bố, tôi sang
ngủ cùng giường với chị Hai. Chuyện của chị em tôi chỉ xoay quanh anh Hưng.
“Sao chị quen anh ấy vậy?”.
“Hôm trước đứa em làm cùng công ty dẫn
anh ấy tới”.
“Chị thấy anh ấy thế nào?”.
“Anh ấy tốt nhưng chị ngại lấy chồng lắm”.
“Kệ chứ, con đường đời có ai biết ngày
mai thế nào đâu, nên chuyện gì đến thì cứ đón nhận, chị ạ. Em thấy anh ấy cũng
chân thành”.
“Ừ”.
“Chị gặp gia đình anh ấy chưa?”.
“Gặp rồi. Mẹ già rồi. Bố mất lâu rồi.
Hai cô em gái đã lấy chồng, ở xa”.
“Kinh tế gia đình thế nào ạ?”.
“Nhìn gia cảnh thì bình thường. Nhưng
chị nghĩ anh ấy vẫn lông bông, bốn mươi rồi mà vẫn như trẻ con, chắc chả giữ được
tiền đâu”.
“Đàn ông mà. Họ mãi là đứa trẻ nếu
không có phụ nữ. Chồng em cũng như trẻ con nhưng giờ cũng đỡ rồi đó”.
“Ừ, nhưng chị không quản được đâu, đời
ai người đó tự quản. Chứ lấy chồng về phải uốn chồng như chị Cả với như em, chị
không làm được, chị khác”.
“Nhưng chị cứ tìm hiểu đi. Lấy vợ lấy
chồng thực ra như đánh bạc ấy mà. Chị nhớ cái Mai bạn em không, yêu nhau sáu
năm mới cưới, ai cũng khen chồng nó thế này thế kia. Bỗng đâu hôm rồi ôm con
sang chỗ em khóc lóc vì phát hiện chồng có gái, lại còn có con riêng nữa. Khổ
thế, không biết được chị ạ. Cẩn thận quá cũng không chắc được đâu”.
“Ừ nhỉ”.
Có lẽ, nhiều phụ nữ khi mới bước vào
tình yêu và hôn nhân, không ai nói đó là canh bạc bởi họ yêu và họ tin. Chỉ đến
khi vấp phải sóng gió, họ mới nghĩ rằng hôn nhân là may rủi. Với chị Hai thì rõ
ràng ngay từ đầu, cuộc hôn nhân này giống lựa chọn canh bài hơn. Nhưng, nếu
không dám chọn lựa thì cuộc sống của chị vẫn mãi cứ như thế, ngày qua ngày lại.
Còn khi đã chọn lựa rồi, chị có hai cơ hội để thay đổi cuộc sống. Nếu gặp được
người chồng tốt, bao dung thì đó là may mắn. Nếu chẳng may anh ấy không như chị
mong muốn thì vẫn có cách để thay đổi. Dẫu sao, cũng còn hơn ôm nỗi sợ hãi, e
dè mà sống suốt đời.
*
Một tháng sau đó, chị Cả gọi tôi về làm
lễ hỏi cho chị Hai, một tuần sau thì cưới. Tôi giật mình vì việc tiến triển
nhanh quá.
“Sao nhanh thế chị?”.
“Chú thím bảo dì ấy là cứ lấy đi, chứ
biết đâu mà chọn”.
“Cũng đúng. Cứ khuyên chị ấy xác định
là lấy đi, nếu thấy không ổn lại quay về, có ai để chọn nữa đâu”.
“Tôi cũng bảo thế”.
Mọi việc lo cho đám cưới của chị Hai lại
do chị Cả đảm đương. Chị Hai đi làm công ty, chỉ được nghỉ cưới ba ngày nên
không lo được nhiều. Chị Cả lo từ việc mời khách, đặt đồ, nhờ người làm cỗ, lễ
nghĩa… Tôi lại thấy chị giống mẹ tôi hơn là một người chị.
Đám hỏi và đám cưới của chị Hai diễn ra
gọn nhẹ ở phía gia đình tôi nhưng đình đám ở phía nhà anh Hưng. Chúng tôi tổ chức
đơn giản theo ý của chị Hai. Chị bảo, mình ở quê, làm rình rang thì nhiều người
để ý, và hạnh phúc phía sau mới quan trọng. Chị còn bảo, không mặc váy cưới vì
những chiếc váy xinh đẹp chỉ hợp với người đẹp, chị như cái nấm lùn, mặc vào
không đi được, có khi lại ngã trước khách khứa. Nhưng tôi và chị Cả động viên
mãi, cuối cùng chị cũng đồng ý mặc. Tại sao chứ?! Váy cưới có chê ai đâu, chỉ
có người chê váy cưới thôi. Tại sao chị lại không nên mặc chứ. Dẫu là đám cưới ở
tuổi bảy mươi thì cô dâu muốn mặc váy cũng đâu có gì quá đáng. Chị xứng đáng với
chiếc váy đẹp nhất.
Gia đình anh Hưng tổ chức đám cưới to
vì anh là con trai một, cưới lần đầu. Biết trước là vậy, song lúc rước dâu về
nhà trai, tôi cũng không khỏi choáng ngợp trước vài trăm người dự ở sân nhà
anh. Vì đông khách, gia đình anh phải kê bàn ghế sang cả sân nhà bên cạnh.
Trẻ con, người già, người lớn nhao nhao
nhìn cô dâu chú rể. Ở làng quê, cưới lần đầu ở tuổi của anh chị vẫn là chuyện
đáng để tò mò. Song, có lẽ, cái khiến họ tò mò hơn cả là cô dâu, cô dâu ba lăm
tuổi, lại nghe đồn bị tàn tật thì nom ra sao. Tôi đã nghe một vài tiếng người
phía sau, “Ờ lùn nhỉ”, “Mặt cũng không xấu”, “Ối, hôm trước nó sang, lúc nó lội
xuống ao, cái chân lộ ra to kinh khủng”… Lòng tôi hoang mang lo lắng. Chị Hai sẽ
đối diện thế nào với những soi mói ấy đây?
Lúc anh dẫn chị vào làm lễ thắp hương ở
ban thờ tổ tiên, tôi còn giật mình nữa. Ban thờ chính ở trước nhà đã cao, ban
thờ phụ phía cạnh nhà còn cao hơn. Ở ban thờ chính, chị chỉ cần đứng lên cái ghế
sô pha cạnh đó là thắp hương được. Nhưng ở ban thờ phụ, ngay cả cao như anh rể
tôi cũng phải leo lên ghế mới với tới. Tôi lo lắng đứng sau anh chị. Anh kéo
cái ghế inox nhỏ, cao chừng 60cm để chị leo lên. Ôi, với bộ váy cô dâu lòe xòe ấy,
chị Hai làm sao có thể leo lên cái ghế đó?
Tôi kéo kéo áo anh rể, ra hiệu anh đứng
lên thắp hương thay chị, nhưng anh lắc đầu. Tôi hiểu, đó là một trong những
nguyên tắc nhập gia không thể thay đổi.
Chị Hai vén váy leo lên ghế, choài tay
về phía ban thờ thì cái ghế nghiêng. Chị ú ớ, còn anh rể vội đưa tay đỡ chị. Mấy
đứa trẻ con nhìn trộm qua song cửa bỗng cười khúc khích. Tôi cứ nghĩ, đến lúc ấy
thì anh rể sẽ thay chị cắm hương vào ban thờ, nhưng không, chị vẫn phải tự mình
làm việc đó. Ơn trời, lần thứ hai chiếc ghế không nghiêng nữa.
Lúc tổ chức xong, tôi vào phòng thay đồ
cho chị. Chị bảo: “Bên nhà chồng chị nhiều người lắm. Lần nào chị sang cũng thế.
Họ cũng hay để ý”.
“Kệ họ, ở đời có bao giờ bắt được người
khác không nói, không nhìn đâu. Nhưng mình có quyền cho phép mình không nghe,
chị ạ”.
“Ừ. Thay nhanh cho chị, còn ra dọn
kìa”.
Lúc tôi chào để ra về thì ở ngoài sân
chỉ còn mẹ chồng chị và mấy người họ hàng thân.
Khi tôi và chị bước ra, chị Hai nhanh
nhảu nói: “Em gái em đấy”.
“Chắc không phải em ruột chứ, chẳng giống
nhau tí nào, cô ấy cao thế cơ mà” – mấy người nói vào với cách nói không thiện
cảm.
“Dạ, em là em ruột”.
Tôi lờ mờ nhận ra rằng, những con người
đó rồi sẽ còn tiếp tục dị nghị, soi mói vào sự tàn tật của chị tôi.