16. Nhập thổ vẫn không yên - Phần 02

3

Bàn tiếp về sự xâm chiếm của các hồn ma.

Tôi đã từng dẫn một đoạn của Vương Sung trong Luận hành vào
tác phẩm Cái chết của quỷ như thế này: “Giả sử như có quỷ, vậy thì từ thời
vua Nghiêu, vua Thuấn, quỷ đã xuất hiện được bao nhiêu năm? Chẳng phải “trên mọi
nẻo đường, mỗi bước chân người dương thế đều có bước chân của quỷ” sao?”

Chuyện của cõi u minh có lẽ chúng ta không thể tìm hiểu tường
tận được, nhưng nếu giữ lại tất cả các linh hồn đã mất từ khi chúng ta biết ghi
chép lịch sử, vậy thì cách nói “mỗi bước chân của người dương thế đều có bước
chân của quỷ” quả là không quá đáng chút nào. Nhưng cũng may, con người thường
nghĩ đến sự sống của bản thân trước, nếu phải đặt những ngôi nhà ở cõi âm ti ấy
thẳng hàng trên một con đường, thì chẳng thà hãy để cho chúng trùng khớp lại với
nhau, hoặc là để cho những huyệt mộ đào thải ma cũ tiếp nhận ma mới. Điều này
cũng dẫn đến những xung đột không thể tránh khỏi về “quyền sử dụng đất” trong
cõi u minh.

Có lẽ những ngôi nhà dưới âm phủ của dân thường thì chẳng
đáng để bàn ở đây làm gì. Cỗ quan dày ba tấc, một mảnh đất con con, thậm chí
không khác gì những kẻ ăn xin, làm trâu làm ngựa cho người khác chỉ để khi trút
hơi thở cuối cùng có một nơi an nghỉ. Nhưng cũng không được mãi mãi, cho dù con
cháu vẫn còn nhưng không phải coi sóc phần mộ tổ tiên từ mấy đời trước, vì vậy,
hàng trăm năm trôi qua, lớp này chồng lên lớp khác, không biết có bao nhiêu
ngôi mộ bị chồng lên nhau.

Đối với những người có tiền thì hơi khác một chút, lúc sinh
thời được ở trong nhà cao cửa rộng, khi chết đi mộ phải cao tám thước, đất chiếm
ba phần, rất ngông nghênh bá đạo. Trước mộ còn phải lập một bia đá, trong mộ
còn đặt một tảng đá tên là “mộ chí danh”, đây cũng được coi như “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất” của người âm. Nhưng thời gian trôi qua, con cháu lãng quên,
bỏ bê việc chăm sóc thì sẽ lại có kẻ nhà giàu khác ngắm trúng mảnh đất đó, hoặc
bỏ tiền ra mua lại, hoặc cố tình xâm chiếm. Còn về kẻ đã sở hữu mảnh đất từ mấy
đời nay, lúc này đành phải dời đi, hoặc lại lang thang phiêu bạt nơi cỏ nội đồng
hoang, dần dần bay theo những cơn gió làm đề tài cho các thi nhân.

Đây là “hình tượng” được nhìn ở góc độ của người dương thế,
còn đối với cõi u minh, việc xác định chủ nhân mảnh đất đương nhiên sẽ xảy ra
tranh chấp rồi. Còn tranh chấp như thế nào, có phải mỗi người cầm một tấm khế ước
quyền sử dụng đất đem đến nhờ Diêm Vương phân xử hay không thì chúng ta không
thể nào biết được, nhưng những câu chuyện hồn ma cãi vã, đánh nhau, thậm chí
dùng đến cả đao kiếm thì có được ghi chép lại trong các câu chuyện lịch sử.
Trong Sưu thần hậu ký có ghi câu chuyện hồn ma của Lỗ Tiêu, đời Đông Tấn
giữ nhà: “Nhà Vương Bá Dương sống ở Kinh Khẩu (nay là Trấn Giang), phía đông
nhà có một ngôi mộ lớn, tương truyền đó là mộ của Lỗ Tiêu. Phu nhân của Vương
Bá Dương xuất thân là con nhà quyền quý, năm đó lâm trọng bệnh qua đời, Vương
Bá Dương liền san bằng ngôi mộ của Lỗ Tiêu, rồi chôn vợ mình vào đó. Mấy năm
sau, hồn ma của Lỗ Tiêu mang mấy trăm binh mã xông thẳng vào phòng khách nhà
Vương Bá Dương mà rằng: “Ta đây là Lỗ Tử Kính, sống ở đây đã hơn hai trăm năm,
cớ làm sao mà ngươi lại phá nhà của ta?”, rồi quát một tiếng, ra lệnh đám lính
ra tay. Đám quân ma quỷ liền lôi Vương Bá Dương xuống, lấy đao cứa vào cổ cho đến
khi thấy Vương Bá Dương không thở được nữa, mới dừng tay. Khi Vương Bá Dương tỉnh
lại, những chỗ thịt bị dao của đám âm binh cứa đều thối rữa, chẳng bao lâu thì
ông cũng qua đời.” Nhưng cũng có một cách nói khác, cho rằng người chết không
phải là vợ của Vương Bá Dương mà chính là ông ta. Khi các con đào huyệt mai
táng cho Vương Bá Dương thì đào được một cỗ quan tài sơn màu đen, liền đem vứt
lên Nam Cương. Đêm hôm ấy, con trai Vương Bá Dương mộng thấy Lỗ Tiêu hiện về, tức
giận quát: “Ta sẽ giết chết cha ngươi.” Nhưng Vương Bá Dương lúc này đã chết rồi,
nếu giết thêm lần nữa thì chẳng phải làm ma cũng không được hay sao? Một lát
sau, Vương Bá Dương cũng hiện về báo mộng cho con trai, kể cho con nghe chuyện
Lỗ Tiêu đòi mộ ra sao, nếu như không đấu lại được ông ta, thì e rằng sau này
hai cha con sẽ vĩnh viễn không được nhìn thấy nhau nữa. Kết quả của trận đấu
này là Vương Bá Dương bị giết, hôm đó trên linh tọa của ông ta đột nhiên chảy
ra một dòng máu đỏ tươi.

Người ta tưởng rằng Lỗ Đại tướng quân trung hậu như Đàm Phú
Anh diễn trong Thảo thuyền mượn tên, thật không ngờ sau khi chết ông lại
trở nên hung hãn như vậy. Nhưng nghĩ cho cùng, người ta là bậc thiếu niên anh
hùng, biết cưỡi ngựa, bắn tên, được mệnh danh là “đứa trẻ hoang dã”, sau đó còn
kế nghiệp Chu Lang, được phong làm Đại đô đốc, dám vượt sông bắt tiệc của Quan
đại gia, một nhân vật có máu mặt như thế lại dễ tranh giành lắm sao? Vì vậy, nếu
cứ coi những gì diễn trong tuồng, trong kịch là thật thì đúng là tự chuốc vạ
vào thân. Những thứ cầu hiền như nắng hạn mong mưa, thương dân như con như
hoàng đế Vĩnh Lạc hay Lưu Cẩn trong Pháp môn tự liệu có tin được không?

Ngoài ra, nếu không phải việc nhà mình mà mang hài cốt của
người khác chôn nhầm chỗ cũng sẽ tự chuốc họa vào thân. Trong chương ba trăm
hai mươi ba, quyển Thái bình quảng ký có dẫn câu chuyện Thần quỷ lục,
anh em Ngô Quân, Trương Thị mua được một căn nhà mới, trong lúc dọn dẹp chợt
đào được một chiếc quan tài. Hai anh em liền mua một cái chum sành, đặt bộ hài
cốt vào đó, rồi đem đi chôn ở chỗ khác. Không ngờ đêm đó có con ma đến gõ cửa,
hét lớn: “Tại sao hai vị lại phá hoại chỗ ở của người khác để làm chỗ ở cho
mình?” Hai anh em lập tức hiểu ngay là chuyện gì liền đáp rằng: “Chúng tôi đã
mai táng các hạ ở chỗ mới tử tế rồi, chúng tôi có gì sai chứ?” Con ma liền đáp:
“Các người đưa tôi đến bên cạnh mộ Ngô Đại tướng quân, tôi chỉ là kẻ thấp cổ bé
họng làm sao đấu lại được với ông ấy chứ? Ngày nào ông ấy cũng mang quân đến đạp
cửa đòi nhà. Nếu hai vị không tin thì đi theo tôi khắc rõ.” Hai anh em liền mơ
màng đi ra khỏi nhà, khi ra đến phần mộ hôm trước, quả nhiên nghe thấy trong mộ
có tiếng dao kiếm chém giết.

Cõi u minh cũng giống như cõi trần, muốn được yên thân thì tốt
nhất hãy tránh xa những gia đình quyền quý. Nhưng nếu gặp phải những kẻ lưu
manh liều mạng thì cũng có những ngoại lệ. Câu chuyện tranh chấp mộ phần nổi tiếng
nhất trong lịch sử phải kể đến câu chuyện của Phùng Mộng Long trong Du thế
minh ngôn
. Tác giả miêu tả trận chiến long trời lở đất, khốc liệt vô cùng
giữa Kinh Kha và tên lưu manh Dương Giác Ai. Dương Giác Ai mai táng người anh
em kết nghĩa của mình là Tả Bá Đào tại góc mộ Kinh Kha, không ngờ hồn ma của
Kinh Kha vô cùng hung dữ, hằng ngày đều dẫn quân xông vào mộ của Tả Bá Đào mắng
rằng: “Ngươi là tên nhãi chết đói chết rét đầu đường xó chợ, lại dám đặt mộ
ngay trên vai ta, chắn hết phong thủy. Nếu không mau chuyển ra chỗ khác, ta đây
sẽ đào mộ vứt thây ra ngoài rừng hoang cho chó tha!” Tả Bá Đào biết không thể
chọc giận Kinh Kha liền báo mộng cho Dương Giác Ai, bảo Giác Ai nhanh chóng di
dời mộ của mình ra chỗ khác để tránh điềm hung. Nhưng Dương Giác Ai không chịu
nhượng bộ, liền đốt mấy chục hình nhân bằng cỏ gửi xuống làm âm binh, hộ vệ
huynh đệ của mình. Trận chiến hôm đó Kinh Kha lại có Cao Tiệm Li đến trợ giúp,
kết quả Tả Bá Đào thảm bại tháo chạy. Dương Giác Ai tức giận mà rằng: “Kinh Kha
ngươi có tên Cao Tiệm Li trợ sức, lẽ nào ta lại không thể tương trợ cho huynh đệ
của ta sao?” Nói xong liền rút kiếm, cứa cổ tự vẫn, xuống âm phủ hỗ trợ cho
huynh đệ của mình. “Canh hai đêm ấy chợt mưa gió ầm ầm, sấm chớp dữ dội, tiếng
gào tiếng thét, tiếng gươm đao vang xa hơn mười dặm. Sáng hôm sau ra xem, thấy
mộ của Kinh Kha bị sụt sâu như một cái huyệt, xương cốt vương vãi đầy trước mộ,
cây tùng bên mộ cũng bị đổ, bật hết cả gốc.”

Câu chuyện miêu tả về mối thâm tình sinh tử của hai huynh đệ
kết nghĩa, nhưng đọc xong vẫn khiến người ta cảm thấy không thỏa mãn. Theo ý kiến
cá nhân tôi, thường ngày áp bức, ức hiếp dân lành đều là những tên cường hào ác
bá hoặc là những tên tiểu nhân mới phất, còn những người dám tuyên chiến với
hôn quân bạo chúa thì sẽ luôn chung sống hòa bình với nhân dân, một người tính
tình khảng khái, là đấng anh hùng trượng phu thì sao có thể gây ra chuyện hoang
đường như thế được? Hơn nữa Kinh Kha mưu sát Tần Vương thất bại, lẽ nào Tổ Long
gia còn để cho ông được toàn thây? Tra lại nguyên tác của câu chuyện trong Liệt
sỹ truyện
, thì ra Kinh Kha vốn là Kinh tướng quân, một tướng tài của nước Sở,
sau bị những kẻ nhiều chuyện sửa bậy. Hơn nữa câu chuyện xảy ra vào thời Sở
Bình Vương thời Xuân Thu, nhưng lại đưa thi thể của Kinh Kha mấy trăm năm sau bị
ngũ mã phanh thây ở thành Hàm Dương về an táng ở Hà Nam, đúng là hoang đường,
không thể tin được. Những chuyện được biên soạn vô căn cứ, phỉ báng danh nhân để
thu hút người đọc nay đã là chuyện thường tình. Phùng Mã Long am hiểu lịch sử
thời Xuân Thu, hơn nữa lại không phải người hay viết chuyện lừa thiên hạ, ông
còn có cả một tác phẩm để đời là Lân kinh chỉ nguyệt, lẽ ra ông không
nên mắc phải lỗi sai sơ đẳng này. Lại tra cứu tiếp về nhân vật Dương Giác Ai,
hóa ra chuyện Dương Giác Ai quên mình vì bạn lại lấy từ Thanh bình sơn đường
thoại
của Hồng Biện, trong đó, tác giả cảm thấy để cho Sở Bình Vương Lễ Hiền
chiếm đoạt con dâu là việc rất phi lý nên liền sửa lại thành Sở Nguyên Vương
Lưu Giao thời Tây Hán, nhưng lại quên mất không sửa thời Xuân Thu thành thời
Tây Hán.

Nói như thế không có nghĩa Kinh Kha là nhân vật dễ chọc. Nếu
như đám ưng khuyển của Tần Thủy Hoàng đem mồ mả trấn áp lên đầu Kinh Kha thì hắn
cũng vẫn khuấy động can qua, khi đó bè lũ vây cánh Trần Thắng, Ngô Quảng lại
móc ngoặc, hùa vào với nhau, đem xương cốt rải trước mộ, có lẽ là chuyện ngàn
năm có một.

Phụ ký

Dành đến hai phần để viết về vấn đề nhà ở ở cõi u minh, có lẽ
những gì cần nói cũng đã nói hết cùng bạn đọc. Có lẽ chỉ còn một điểm chưa nhắc
đến đó là khu nhà hung, nhưng chỉ khi người và ma cùng chung sống dưới một mái
nhà thì mới thành nhà hung. Vấn đề này có lẽ tác giả sẽ bàn kỹ hơn ở một phần
riêng. Ngoài ra còn một phần nhỏ mà tác giả cố tình không nhắc tới, mục đích
không phải là muốn giấu bạn đọc, mà là vì những quan điểm đó sẽ làm nhiễu những
nội dung mà chúng ta đã nói ở trên.

Vong hồn và hài cốt có mối quan hệ mật thiết, nhưng không phải
tất cả dư luận trong xã hội đều thống nhất cho rằng hồn ma trú ngụ trong hài cốt,
đương nhiên sẽ có những chuyện kỳ quái ngoại lệ xảy ra cho dù không được đa số
quần chúng tiếp nhận, ví như trời bỗng chốc âm u, xám xịt, nổi phong ba, làm mặt
nước mùa xuân đang phẳng lặng bỗng dưng dậy sóng, hơn nữa những kẻ khơi dậy những
luận điểm này lại chính là các phần tử trí thức bậc cao. Dưới đây xin giới thiệu
với bạn đọc hai luận điểm khác với cách nhìn nhận của đa số quần chúng, đều là
những câu chuyện bắt đầu từ thời Ngụy Tấn cho đến ngàn năm sau vẫn có những
tranh cãi không dứt.

Thứ nhất là về thuyết “hồn vô sở bất chi”. Trong Khổng Tử
gia ngữ
có kể một câu chuyện như sau: “Cuối thời Xuân Thu, Quý Trát người
nước Ngô đi sứ nước Tề, trên đường về nước, con trai ông chết ở giữa ấp Doanh
và ấp Bác (tên hai ấp của nước Tề). Khổng Tử nghe tin liền nói: “Từng nghe Quý
Tử là người hiểu lễ nhất nước Ngô, ta muốn đi xem xem ông ta lo liệu việc ma
chay thế nào.” Nói rồi liền tới nơi đó xem, thì thấy Quý Trát không mang thi thể
con trai đưa về nước Ngô, mà liệm bằng quần áo thường, rồi chôn ngay ở nơi đất
khách quê người, huyệt không sâu, mả không cao, mà rằng: “Thi thể trở về với đất,
âu cũng là số mệnh, nhưng còn vong hồn thì không bị trói buộc.” Khổng Tử nghe vậy
thì ca ngợi hết lời: “Quý Tử đúng là người hiểu biết, xử lý rất hợp tình hợp
lý.”

Tại sao Quý Trát không đưa thi thể con trai mình về nước
Ngô, bởi vì ông cho rằng, dù xương cốt bị chôn vùi trong đất nhưng linh hồn
không bị chôn vùi theo mà là “vô bất chi”.

Khổng Tử gia ngữ được viết thành sách ở thời Ngụy Tấn,
tương truyền tác giả chính là Vương Tiêu, hầu hết những câu chuyện được viết lại
trong đó đều là hư cấu. Quan điểm của Quý Tử có lẽ chính là đại diện cho quan
niệm của một bộ phận tri thức thời bấy giờ. Nhưng Khổng Tử ở đây không phải
nhân vật trong ngụ ngôn của Trang Tử, sự khẳng định của ông đối với quan điểm của
Quý Trát là lấy căn cứ từ Nho học. Trong Lễ ký, Khổng Tử ủng hộ quan niệm
“cổ bất tu mộ”, cho dù mưa gió làm hư hỏng phần mộ của phụ mẫu, thì cũng chỉ là
sự biến chuyển theo thời gian, vì về mặt lý tính, ông cho rằng vong hồn của cha
mẹ không ở trong mộ.

Còn về thuyết “vô bất chi” của Quý Trát, mặc dù có thể lý giải
là “vô sở bất chi”, đông tây nam bắc tứ bề đều không bị ràng buộc, có thể tự do
phiêu bạt đến nơi mình muốn, nhưng cũng có thể hiểu là linh hồn của người ta
sau khi chết phân tán khắp mọi nơi. Điều này tiềm ẩn một tư tưởng nguy hiểm
hơn, đó là đưa quan điểm về linh hồn đến chỗ không tồn tại. Điều này được thể
hiện rất rõ qua cuộc tranh luận giữa Hình Thiệu và Đỗ Bật về “hồn vô bất chi”
và “danh lý”. Hình Thiệu là đại tài tử ở phương Bắc, nổi tiếng về văn chương.
Ông cho rằng thuyết “vô bất chi” của Quý Trát muốn nói linh hồn sẽ bị phân tán
khắp nơi, nếu sau khi bị phân tán, các mảnh hồn tụ về với nhau thì trở lại
thành “hồn”, vậy thì không cần phải nhắc nó là “vô bất chi”. Còn Phạm Chẩn, đời
Nam Triều lại cho rằng “hồn vô bất chi” có nghĩa là “hồn bị phân tán”, “hồn khí
quy vu thiên” tức là “tan biến vô hình như mây khói về trời”, cuối cùng mới quy
tụ về với nhau ở vô quỷ. Nếu độc giả có hứng thú, có thể tìm đọc thêm Bắc
Triều thư - Đỗ Bật truyện
để tìm hiểu thêm về cuộc tranh luận này. Có thể
nói đây là một cuộc tranh luận bất phân cao thấp, sau đó Đỗ Bật và Hình Thiệu vẫn
không ngừng thư từ qua lại để tranh luận, cuối cùng Hình Thiệu đuối lý, cuộc
tranh luận mới đến hồi kết thúc.

Thời Nam triều, đối thủ của Phạm Chẩn là một đệ tử Phật
giáo. Vào thời Bắc triều cũng nổ ra một cuộc tranh luận trong nội bộ Nho giáo.
Nếu tư tưởng “thần diệt” của Phạm Chẩn liên quan đến vấn đề tôn giáo, thì Hình
Thiệu lại kiên trì quan điểm “vô quỷ luận”, ông muốn thách thức với luân lý xã
hội thời bấy giờ, đương nhiên tư tưởng của ông không thể chiến thắng được luân
lý của cả một xã hội, nhưng nó cũng cho thấy sự khí khái, chân thực của một đại
tài tử tài ba.

Một quan điểm khác lại cho rằng, “hồn tê vô chủ”, vong hồn
không trú ngụ ở thi thể trong mộ, mà ký thác ở bài vị thờ trong nhà.

Quan điểm này do Thái Ung cuối thời Đông Hán đưa ra. Trước
đây, khi hoàng đế tế bái tiên nhân đều không tế bái ở lăng mộ mà mọi nghi thức
đều được tiến hành ở miếu tế. Thái Ung uyên bác, đa tài, là bậc vô song thời
đó, hậu thế sau này cũng ít ai bì kịp ông. Những tư tưởng, quan điểm của ông
luôn được đánh giá rất cao. Tào Tháo là người cùng thời với Thái Ung, hai người
cũng có chút giao tình, sau khi Tào Tháo lên ngôi, Ngụy Vương liền hạ lệnh, sau
khi ông mất, phải khâm liệm bằng quần áo đương thời, không được chôn vàng bạc
châu báu gì theo. Điểm này hoàn toàn tương đồng với Quý Trát trong Khổng Tử
gia ngữ
. Nhưng con trai Tào Tháo là Tào Phi, sau khi kế vị, lấy danh nghĩa
hoàng đế ban hành “Chung chế”, trong đó trích dẫn rất tỉ mỉ lời của Thái Ung:
“Xương cốt không biết đau, nghĩa địa không phải nhà của các vong hồn... Áo quan
chỉ là cái hòm chứa hài cốt, áo liệm chỉ để che hài cốt mà thôi.”

Con người sau khi chết, hồn tiêu phách tán, nếu không muốn hồn
phách tan vào hư vô thì dựng cột gỗ, người sống thành tâm cầu nguyện, để vong hồn
người chết vào trú ngụ trong đó. Cột gỗ phải được làm phép ở miếu tế, mọi người
phải cùng đến miếu làm lễ cúng bái. Còn thể xác vô tri, chôn vùi dưới đất chẳng
qua là để chúng nhanh chóng phân hủy mà thôi. Vì vậy, khi chọn đất an táng cần
chú ý chọn những nơi “bất phong bất thụ”, thi thể nhanh chóng hòa vào với tự
nhiên. Nếu cứ nói theo quan điểm trên thì những lễ tế chiêu hồn, xây dựng nghĩa
địa chỉ là những trò vớ vẩn, dựng bia tảo mộ cũng là việc dư thừa mà thôi. Với
lý luận này, đừng nói là nhân dân mà cả những học sĩ bình thường cũng khó có thể
chấp nhận được. Trong các tác phẩm kinh dị từ thời Ngụy Tấn như Sưu thần ký
cũng đã xuất hiện vô số những câu chuyện về ngôi mộ của quỷ. Nguyên nhân sâu xa
của các câu chuyện này có lẽ là nhằm mục đích chống lại thuyết “cổ vô mộ tế” mà
thôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3