Không lạ - Chương 15 - 16 - 17
Chương 15. Tình yêu của đàn bà
Mình dẫn một đoàn phượt chạy lên Lai Châu theo đường
6 rồi về đường 32C. Đoạn qua Mù Cang Chải rất xấu, mặt đường bay hết thảm nhựa,
trơ đá hộc to bằng cái mũ cối, kéo dài mấy chục cây số. Xe chạy chồm chồm như trâu
lồng đứt mũi.
Xuống
đến Tú Lệ cũng đến bữa. Bọn mình dừng lại, đang ngơ ngáo tìm chỗ ăn thì thấy Lan
rú lên như bị chọc tiết.
Lan
là một cô gái khá xinh, vợ chưa cưới của Tiến. Lan tốt nghiệp trung cấp kế toán,
giờ đang làm kế toán viên cho một công ty tư nhân. Tiến công tác ở Viện Thủy lợi.
Đôi này yêu nhau dễ đến năm bảy năm nhưng chưa cưới vì gia đình Tiến ngăn cản. Chuyến
đi này cũng là cơ hội để đôi trai gái được gần gũi dài ngày, điều mà ở Hà Nội họ
không thể làm được.
“Ới
giời ơi! Có cái túi mà không giữ được thì giữ được cái gì cho đời hở thằng kia?”.
Tiếng oán hờn của Lan rít lên, đập vào vách núi, lan xuống thung lũng òa òa nghe
rất khiếp.
Mình
vội quay xe lại. Lan xổ tóc như kẻ điên, mắt long sòng sọc, hai tay giơ lên trời,
chân giậm bành bạch theo nhịp hét. Mọi người trong đoàn vây quanh can ngăn nhưng
nghe chừng Lan chưa hạ hỏa. Tiến ngồi bệt xuống bãi cỏ bên kia đường, nhìn Lan nhưng
không nói gì, chỉ cười cười ngượng nghịu.
Thấy
mình tiến lại gần, Lan hô lên: “Tôi chết đây. Sống làm gì nữa”. Nói rồi Lan nhào
về phía bờ vực. Mọi người xúm vào người tóm tay, kẻ tóm chân không cho Lan chết.
Mình hỏi: “Chuyện gì thế con kia?”. Lan vừa khóc hờ hờ, vừa nói: “Sáng nay đã dặn
rồi… hờ hờ… Bảo đường xấu cẩn thận không rơi túi… hờ hờ… cuối cùng vẫn rơi mất một
cái túi”. Mình hỏi: “Có tiền nong, giấy tờ quan trọng gì không?”. Lan vỗ vỗ vào
bụng: “Tiền để đây rồi, nhưng trong ấy có cái chứng minh thư”. Mình bảo: “Giờ quay
lại tìm cũng không còn đâu. Chứng minh thư về làm lại được”. Lan rú lên: “Nhưng
em phải chết cho thằng vô dụng kia nó ân hận cả đời”. Dứt lời Lan lao về phía vực
như một mũi tên. Mọi người thấy mình đến thì đã giãn ra xa nên không ai kịp phản
ứng.
Mình
cũng nhoài theo, nhưng vẫn chậm.
Đến
sát mép vực, thấy tay chân vẫn được tự do nên Lan dừng lại một nhịp… đợi mình theo
kịp. Khi biết chắc đã giữ được Lan, mình khẽ ẩn về phía vực, Lan gồng cứng lại,
miệng vẫn tru lên: “Buông tôi ra để tôi chết”. Lúc này mọi người cũng ào tới, mỗi
người mỗi tay bê Lan trở lại. Lan giãy giụa rất kinh, vẫn luôn miệng xin được chết.
Tiến
vẫn ngồi bên kia đường, lấy thuốc ra rít liên hồi. Mặt đờ đờ ngường ngượng.
Mình bảo: “Thôi, mày chết làm gì. Chết là thằng Tiến nó lấy
vợ mới đấy”. Lan vẫn khóc: “Em hiện hồn về vặn cổ nó chết… hờ hờ… chứ lấy vợ mà
được với em à?”. Mình quay sang bảo mọi người: “Có mỗi hàng xôi gà thôi. Nếp Tú
Lệ nổi tiếng đấy. Vào chén đi”.
Lan
nhất định không chịu vào ăn, chỉ đứng ngoài đường khóc. Mọi người vừa ăn vừa trông
chừng. Tiến vẫn không nói gì, cắm cúi ăn hết một chõ xôi với nửa con gà.
Tiếp
tục khởi hành, Lan nhất định ở lại, mình đành bảo mọi người đi trước, rồi nói với
Tiến: “Em cứ đi đi. Nó đang điên. Để nó sang anh đèo”. Tiến gật đầu, khẽ nói: “Vâng”.
Đợi
đoàn xe đi khuất, mình bảo Lan: “Giờ chỉ còn mình tao thôi. Một mình tao không giữ
nổi mày đâu. Mày muốn chết thì nhảy xuống vực đi”. Lan liếc mình một cái, vẫn ti
tỉ khóc. Mình lại bảo: “Nếu không định chết nữa thì lên xe. Đi không muộn”. Lan
lúc cúc nghe lời mình.
Tâm
trạng mình đang vui phơi phới, cảnh sắc hữu tình, non nước mây trời lồng lộng, mình
kéo ga cho kịp đoàn thì đằng sau lại vút lên: “Tiên sư thằng khốn nạn… Sao đời tao
nó khổ thế này? Tao đã bảo mày cẩn thận rồi mà mày không chịu nghe”.
Mình
kéo sụp kính che mặt của mũ bảo hiểm xuống tránh những ánh mắt thương cảm của người
đi đường cho kẻ tội đồ là mình. Rồi như có vẻ đã quá mệt với những tiếng hú, Lan
rút gọn: “Tiên sư thằng khốn nạn”. Cứ năm phút một lần, điệp khúc ấy lại được gào
lên giữa bốn bề núi rừng trùng điệp.
Mình
nghĩ, cứ như thế này thì mình cũng sẽ điên mất, phải tìm ra một trò gì để tự giải
trí thôi. Khi Lan bắt đầu cất giọng, thì mình cũng đồng thanh: “Tiên sư thằng khốn
nạn”.
Lần
thứ nhất như thế. Lan không phản ứng gì. Còn mình thấy hay hay, rõ ràng trò giải
trí này khá thú vị.
Lần thứ hai cũng lại như vậy. Lan không phản ứng gì. Mình
thấy hứng khởi hơn với tiếng chửi của mình.
Đến
lần thứ ba, khi câu chửi vừa dứt. Lan hắng giọng: “Này ông kia, thằng ấy nó làm
đếch gì ông mà ông chửi nó?”. Mình bảo: “Tao chửi hộ mày thôi, cho nhanh hết”. Lan
sửng cồ: “Đếch được, chỉ tôi mới được chửi”. Và cái điệp khúc ấy lại được ngân nga
cất lên, vang vang dội vào vách núi.
Tối
hôm ấy nghỉ ở Văn Chấn, mình bảo Tiến: “Tao không ủng hộ bạo lực gia đình đâu, nhưng
trường hợp này thì…”. Tiến ngắt lời: “Em cũng đấm nó suốt đấy. Nhưng nó bảo: Thế
mới là… yêu”.
Chương 16. Dòng máu anh hùng
Nhinh
học trước mình đâu chừng vài khóa. Nhưng cùng một típ người dị mọ ưa chuyện nhắng
nhít thành ra chơi thân với nhau. Mình quen Nhinh vào năm 87, lúc ấy Nhinh đã là
sinh viên năm thứ hai còn mình mới học lớp mười hai khối chuyên của trường nhưng
nổi tiếng về nghịch bậy.
Vào
một đêm hè, buồn tình vì trời nóng khó ngủ, mình táy máy giội nửa bát nước mắm lên
đầu một đôi tình nhân đang hôn nhau đắm đuối dưới tầng. Ngỡ rằng sau đó sẽ có một
trận nhẹ thì đấu khẩu, nặng thì đấu võ, nên mình xách cái điếu cày thủ thế. Một
thanh niên to khỏe, mũi khoằm mỏ quạ, mắt xếch tóc húi cua, nồng nặc mùi mắm mậu
dịch pha nước lã, lệt xệt đôi dép tông lào tiến lại gần mình. Chàng thanh niên ấy
chính là Nhinh.
Nhinh
không cáu, cũng chẳng nổi khùng, nhìn nhìn mình rồi bảo: “Cho tớ mượn cái điếu làm
một bi”. Sau khi ngửa cổ nhả mù mịt khói lên trần nhà, nấc nấc mấy cái Nhinh mới
thủng thẳng: “Được đấy, các cậu chơi được đấy”.
Thế
là bọn mình thành bạn, vui với nhau đến tận bây giờ.
Nhinh
này thực ra là biệt danh. Trong trường có một thanh niên nổi tiếng tám vía tên là
Nhinh. Cái tên nghe là lạ, con người của Nhinh thật cũng lạ lạ, ẽo ợt như đàn bà.
Thế là bạn mình đi tán gái toàn tự giới thiệu anh là Nhinh đây, lâu rồi thành tên
như thật.
Nhinh
rất thông minh, bằng chứng là Nhinh có cách nói chuyện hài hước khiến mình cười
được. Số ấy mình gặp trong đời không nhiều. Thế nhưng đường học hành của Nhinh lại
lận đận lắm.
Năm
89, ở bộ đội mình được đi tranh thủ. Về đến nhà là vọt đi tìm bạn ngay. Nhà Nhinh
trên phố Thợ Nhuộm. Hàng xóm bảo Nhinh đi làm, ở trường tiểu học X, gần đó.
Lúc
ấy khoảng hai giờ chiều, trời nắng như đổ lửa. Nhinh ngồi trên chiếc ghế gỗ mốc
meo, xẹo xọ, núp dưới bóng cây xà cừ tránh nắng, dựa đầu vào gốc cây ngủ ngon lành.
Tay Nhinh vẫn cầm cái dùi trống. Mình vỗ vỗ vào vai, Nhinh bật dậy, ngơ ngác: “Đến
giờ rồi à?”. Rồi chợt nhận ra mình, Nhinh cười: “Tưởng đến giờ đánh trống”, vừa
nói vừa làm động tác rung rung cái dùi như thể đánh trống thật. Mình hỏi: “Sao lại
thế này?”. Bạn cười rất vô tư: “Thì không tốt nghiệp được thì phải đi làm bảo vệ”.
Nói rồi nhưng vẫn sợ mình chưa tin, Nhinh giải thích: “Nắng thế này, đếch ai đi
thi tốt nghiệp”.
Mình
tưởng bạn nói đùa, hóa ra đó là sự thật. Có bốn môn thi tốt nghiệp chia làm hai
ngày. Nhinh đi một buổi rồi ở nhà vì… nắng quá. Thật là kỳ lạ!
Năm
92, Nhinh sang Nga làm ăn, rồi cưới một cô tóc vàng mắt xanh bên ấy, sinh được hai
đứa con một trai một gái.
Năm
2004, mình quay lại Nga chơi. Lũ bạn cũ thuê một ngôi biệt thự ở vùng ngoại ô tụ
tập đàn đúm ôn chuyện xưa. Lúc này Nhinh đã ly dị. Cô vợ đi lấy chồng khác, gửi
hai đứa con về cho mẹ đẻ ở tận Vongagrad. Quá bận bịu với mưu sinh, cũng lâu lắm
rồi Nhinh chưa về thăm con. Nhân tiện có đợt vui này Nhinh đón hai đứa lên nghỉ
cùng để hâm nóng tình phụ tử.
Mình
với Nhinh nằm phơi nắng ngoài sân. Hai đứa trẻ con thơ thẩn chơi quanh đấy. Thiếu
cả bố lẫn mẹ, trông chúng tội vô cùng.
Mình
hỏi: “Ông có dạy tiếng Việt cho chúng nó không?”.
Nhinh
bảo: “Chúng nó ở với bà ngoại, ai dạy!?”.
Mình
nhìn hai đứa, chẳng có một chút gì cho dù chỉ là phảng phất dấu ấn Á Đông. Mình
đùa: “Này, liệu có phải thằng ăn ốc, thằng đổ vỏ không?”.
Nhinh
im lặng, bứt một cọng cỏ cho lên miệng nhai rồi thổi phù phù.
Thằng
bé quanh quẩn một hồi, không có trò gì thú vị, nó co chân sút một phát như đá phạt.
Con mèo bay vút, ngoao một tiếng đau đớn mới rơi xuống đất rồi chạy mất hút.
Nhinh
bật dậy, mừng rỡ: “Ông thấy không, thấy không? Dòng máu Việt Nam chảy trong người
nó đấy. Tây đếch ai làm thế bao giờ”.
Nói
rồi bạn lại nằm xuống phơi nắng, khuôn mặt giãn nở đầy vẻ tự mãn của kẻ chiến thắng.
Chuong 17. Miếng bánh nướng
Lâu
rồi mình không ăn bánh Trung thu. Đơn giản là không thấy ngon.
Bọn
trẻ nhà mình cũng ít ăn, vì có nhiều thứ trong tủ lạnh ngon hơn.
Đêm
qua mình xách về một túi bánh Trung thu người ta biếu. Đặt dưới bếp, nghĩ: “Để cho
ô sin nào thích thì ăn”. Hôm nay đi làm về, bọn trẻ nhao nhao bảo: “Bánh ngon quá
bố ạ”. Con bé vừa nói, vừa bẻ một miếng bằng đầu ngón tay cái nhét vào mồm mình:
“Ăn đi, ăn đi”.
Nó
hỏi: “Ngon không?”.
Mình
trả lời: “Ngon”.
Thực
tình mình thấy ngon bởi các con thấy ngon. Chứ bánh Trung thu, cụ thể là bánh nướng,
mình chỉ thấy ngon có một lần. Đó là dịp Trung thu năm 1977.
***
Khu
tập thể của nhà mình đâu khoảng năm, sáu dãy nhà vách đất, mái lợp nứa đập dập trong
một trường đại học. Trẻ con sàn sàn tuổi mình khá đông, hầu như gia đình nào cũng
có.
Đầu
hồi dãy nhà mình là căng tin, được xây bằng tường gạch và lợp mái ngói. Gọi là căng
tin, nhưng thực ra nó là một cửa hàng mậu dịch nội bộ của trường, là nơi cấp phát
lương thực và nhu yếu phẩm cho các hộ gia đình trong trường. Căng tin chỉ có một
gian hàng kê chiếc tủ quầy bằng gỗ mốc thếch, mặt bằng kính ố vàng và luôn luôn
trống trơn, mạng nhện chăng dày. Phần còn lại của dãy nhà căng tin là kho, lúc nào
cũng tối om và bốc lên mùi ẩm mốc rêu phong. Bên trong kho hay có một ít gạo hẩm,
mấy bao tải sữa bột đồ viện trợ trông như bao tải xi măng. Hình như đấy là lương
thực dự trữ dành cho những lúc cứu đói cán bộ.
Cửa
kho được cài bằng một cái then sắt to bằng ngón tay cái, lủng lẳng chiếc khóa to
đùng như thể khẳng định một thế giới khác đằng sau cánh cửa ấy. Trẻ con bọn mình
tối nào cũng đếm xem còn bao nhiêu ngày thì đến Trung thu.
Ngày
nào đi học về ngang qua căng tin, mình cũng nhìn cái cánh cửa ấy với hy vọng chiếc
khóa đã được mở. Và rồi nó cũng được mở, đúng bảy ngày trước rằm. Mình chạy như
bay về nhà, vừa chạy vừa reo: “Bánh về, bánh về rồi chúng mày ơi”.
Lũ
trẻ con túa ra đường, chạy rầm rập ra căng tin, chỉ để kiểm chứng xem bánh đã về
thật chưa. Trong góc kho xuất hiện hai bao tải sợi gai mới, màu nâu, căng phồng.
Lũ trẻ tìm cách chui vào để kiểm tra, nhưng cô thủ kho cảnh giác vội đóng cửa lại
mắc cái khóa to đùng lên, bấm đến tách một tiếng khô khan, đuổi quầy quậy: “Về đi,
về đi, đến rằm khắc có bánh”.
Chẳng
đứa nào chịu về, đứa nào cũng cố gí mũi vào khe cửa, hít một hơi thật sâu xem có
mùi bánh không? Lẫn vào mùi mốc đúng là có mùi gì thơm thơm, ngọt ngọt rất khó tả.
Chúng nó đoán: “Chắc là một bao bánh nướng, một bao bánh dẻo”.
Còn
sáu ngày nữa.
Còn
năm ngày nữa.
Còn
bốn ngày nữa.
…
Chỉ
còn chịu đựng nốt ngày mai thôi. Tối ngày kia là rằm. Mà chiều mai là chia bánh
về cho các nhà rồi. Đứa nào cũng tính thầm như thế.
Sáng
hôm sau, mới sáu giờ, mình đã thấy người lớn nháo nhác chạy đi chạy lại rầm rập.
Mình nhỏm dậy, chia bánh rồi!
Mình
lao ra sân căng tin, đã thấy một lũ trẻ con đứng ở đấy, đang khóc. Có cả bóng dáng
của các chú công an áo vàng.
Đêm
qua kẻ trộm đã dỡ ngói chui vào kho, bê mất hai bao tải bánh. Thấy có người nói:
“Hay là mấy thằng con mấy bà cấp dưỡng?”. Chú công an bảo: “Người lớn, để lại dấu
giày bata trên tường cỡ 41. Nhóm này có khoảng ba người”.
Mình
cũng khóc, ngồi bệt xuống vỉa hè.
Trộm
chỉ lấy hai bao tải bánh, không lấy gạo hẩm, không lấy sữa bột, không lấy bất cứ
cái gì khác.
Hình
như chúng còn ngồi liên hoan bánh Trung thu trước khi khênh đi. Công an bảo thế
vì thấy có vụn bánh rơi vãi chỗ chúng ngồi.
Mình
ngồi ngoài hè khóc, nhưng vẫn bị ám ảnh bởi mùi thơm của bánh nướng. Đúng là thơm
thật, rất gần, lượn lờ rồi chui tọt vào lỗ mũi mình.
Một
miếng bánh nướng to bằng ngón chân cái, nằm dưới chân cột, kiến bâu đầy. Mình nhỏm
dậy, hết khóc, dỗ dỗ xoa xoa cho bớt kiến, nhìn thấy cả hai vết răng cửa cào vào
miếng bánh. Mình đoán thằng trộm nào ăn chán rồi ném ra đây. Có hề chi, miếng bánh
chui tọt vào mồm. Thơm lừng, béo ngậy, ngọt lịm.
Bọn
trẻ cũng phát hiện ra việc ấy, chúng nó lồng lên đi tìm xem còn miếng nào nữa không?
Không đứa nào có vận may như mình.
Tết
Trung thu năm ấy không có bánh ăn. Bọn trẻ con đốt dây bưởi khô, cầm đèn ông sao
chạy một vòng rồi về đi ngủ với cái miệng nhạt thếch.
Mình
đẩy cái đèn quay quay dán bóng kính xanh đỏ, nghĩ về miếng bánh nhặt dưới chân cột,
vẫn còn thấy ngọt, thấy béo, thấy thơm trong miệng.
***
Mình
kể chuyện này cho bọn trẻ con nghe, chúng nó bảo: “Chuyện của bố chán bỏ xừ”.
Trên
bàn còn vứt chỏng chơ một miếng bánh to bằng ngón chân cái mà chúng nó ăn thừa.
Chương 17. Miếng ăn
Mình thường ăn cơm bụi ở cổng cơ quan, nhưng hôm nay
bạn già mệt mỏi vì công việc nên hai thằng kiếm một cái nhà hàng vừa ăn vừa tâm
sự chuyện đời. Cao lương mỹ vị bày la liệt, bốc mùi thơm nức mũi nhưng bạn già thờ
ơ, lấy cái đũa chọc chọc, gẩy gẩy rồi lại đặt đũa xuống thở dài.
Bạn
già mình đang tiến hành mua lại một dự án bất động sản. Công việc đang hanh thông
thì có kẻ phá ngang. Vào vòng đàm phán, ngay màn mở đầu đã ăn chưởng phủ đầu của
đối thủ. Hắn lẳng cái cặp lên bàn đến rầm một cái ra vẻ bất cần, lấy chân kéo cái
ghế xành xạch, ngồi xuống, bảo: “Tôi có ba ngàn tỉ tiền thịt, đếch phải vay mượn
ai, các ông biến mẹ nó đi cho nhanh”.
Thái
độ ấy khiến bạn mình sôi điên, nhưng vẫn phải nhịn.
Bạn
mình gắp một cọng rau, đưa lên miệng nhằn nhằn, bảo: “Chẳng biết là kiếm tiền để
làm gì nhỉ? Ăn uống chi tiêu thì cũng chỉ đến thế. Vô nghĩa quá”.
Mình
lại bảo: “Thì tiền bạc phù du thật, nhưng không có không được. Tôi cứ vừa kiếm vừa
chơi thong dong cũng sắp hết đời rồi”.
Bạn
mình bảo: “Nhiều thịt quá”, rồi quay sang gọi đám nhân viên: “Em ơi, kiếm cho anh
quả cà bát muối”.
Cà
muối cũng là món mình thích.
Nhưng
với bạn già, nó còn là kỷ niệm thơ ấu. Mỗi lần cha bạn đi công tác xa, dặn dò: “Con
ở nhà ngoan, nhớ nghe lời mẹ, về bố mua quà”. Quà chính là những quả cà muối mặn
chát gói trong mớ lá chuối héo.
Bạn
ăn cà, thực ra là đang muốn nhấm nháp lại một thời đói khổ vô lo.
Mình
đưa một miếng thịt bò Kobe lên nhai. Thịt mềm, vị ngọt ngấm vào từng kẽ răng như
thịt gái đẹp. Nghe nói bò Kobe chỉ nuôi bằng sữa, nghe nhạc Moza và được mát xa
hằng ngày cho mỡ quyện vào từng thớ thịt. Quy trình nuôi cũng giống hệt các tiểu
thư con nhà quyền quý bây giờ.
Mình
bảo bạn: “Tôi được ăn thịt bò lần đầu lúc sáu tuổi”. Mình ngừng lại một lát, đưa
miếng thịt bò khác vào mồm. Thật thơm, thật ngọt, thật ngậy. Và câu chuyện về miếng
thịt bò hồi ấy lại được trải dài lên bàn tiệc.
***
Những
năm 70, nhà mình cũng chạy ăn từng bữa như hàng vạn các gia đình công chức khác.
Một hôm mẹ mình mua được một chiếc sọ bò trắng ởn vì đã được cạo sạch hết thịt.
Một vài chỗ hõm vẫn bám một chút màu hồng của thịt vì lưỡi dao không lách vào được
để nạo vét.
Mẹ
mình bảo: “Mua cái sọ này để lấy não. Não ngon lắm”. Nói rồi bà nhảy phốc lên chiếc
xe đạp guồng mải miết sợ muộn giờ làm việc.
Bố mình không hài lòng. Việc ông không hài lòng với mọi thứ
xung quanh đã quá quen với bọn mình.
Mấy
chị em mình đều háo hức muốn thử não bò ngon ra sao, nhưng vẫn không giấu được nét
lo âu cố hữu mỗi khi bố được giao một việc nhà gì đó. Ông nhìn cái sọ bò, giọng
rin rít khe khẽ: “Mua cái của nợ này làm gì để bắt tội nhau”.
Bắt
tội nhau là ông phải bửa nó ra để lấy được não. Ông vốn ghét những việc nhem nhuốc
tay chân như này.
Bố
mình lấy cái dao phay, chặt chặt mấy cái. Cái sọ vẫn cứ nhe răng nhăn nhở như trêu
ngươi, lưỡi dao mẻ mất một miếng bằng móng tay. Ông ném cái dao đánh xoảng vào góc
bếp, lầm rầm: “Của nợ, của nợ…”.
Mình
ngồi bên cạnh, đưa ra giải pháp khác: “Búa tạ, búa tạ được đấy”. Bố mình gườm gườm
nhìn nhưng không nói gì. Mình hiểu, như thế có nghĩa là đồng ý. Mình chạy lon ton
đi mượn và kéo xềnh xệch về.
Bố
mình mặc quần đùi, cởi trần, một tay xách búa tạ, tay kia cắp nách sọ bò dẫn ba
đứa bọn mình ra bể nước công cộng. Đang giờ đi làm nên bể nước vắng tanh, chỉ có
mấy bố con.
Bố
mình đặt cái sọ lên nền bể nước, ngắm nghía tính toán sao cho nhát búa thật chính
xác. Bọn mình nín thở vì căng thẳng. Ông vặn mình lấy đà quai một nhát như trời
giáng. Trúng rồi, hình như mình có hét lên như thế. Cái sọ bắn vụt đi xa năm sáu
mét, lăn lông lốc, bê bết đất cát.
Sọ
bò vẫn chưa vỡ. Bố mình quát lên một tiếng: “Nhặt”. Mình chợt tỉnh, lao như tên
bắn, bê cái sọ bò về đặt ngay ngắn trên nền bể.
Lần
thứ hai không đợi bố quát mình đã lao đi như thể đỡ lấy cái đầu bò vừa văng ra từ
nhát búa kia. Chiếc sọ vẫn không chịu vỡ. Bố mình thở hồng hộc. Ông chống cái búa
xuống nền gạch, chân giạng ra, hai mắt long lên, mồm không tiếc lời nguyền rủa những
người liên quan đến chiếc sọ bò này.
Lũ
trẻ chúng mình sợ rúm ró, cầu khấn trời phật phù hộ cho bố đập vỡ được sọ bò.
Ông
lấy mũi bàn chân phải gẩy gẩy, chỉnh chỉnh cái sọ bò cho ngay ngắn, rồi lùi lại
tầm một mét, uốn người lấy đà.
Đầu
búa tạo thành hình một vòng cung tuyệt đẹp trước khi tới đích. Chiếc sọ bò khẽ nẩy
lên, một vết vỡ bằng cái bát ăn cơm đỏ quạch màu gạch non xuất hiện tức thì bên
cạnh chiếc sọ, gạch vụn bắn vù vù như đạn trận. Bố mình quăng cái búa ra xa, bỏ
về, ném lại một câu: “Vứt mẹ nó đi”.
Mình
kéo búa đi trả, lòng nặng hơn búa.
Mình
rửa sọ bò cho sạch, bê về giấu góc bếp đợi chiều về trả cho mẹ.
Mẹ
cãi nhau với bố một chập, tiếc của, bỏ chiếc sọ vào nồi ninh suốt đêm lấy nước.
Sáng hôm sau mẹ gọi bọn mình xuống bếp. Nồi sọ bò bốc hơi nghi ngút, nước màu trắng
đục. Chiếc đầu bò chuyển màu sậm hơn. Mẹ lấy móng tay cạo cạo những bụi thịt bám
lấm tấm ở những hốc xương cho mình mút. Một vị gây gây xộc lên mũi, bám lấy cổ họng
lờ lợ khiến mình ọe khan. May mà lúc ấy trong bụng không có gì.
Mẹ
ninh cái đầu bò ấy thêm một ngày nữa với hy vọng nước có thể len lỏi qua những bọt
xương, chui vào ổ sọ rút hết chất bổ cho đỡ phí của. Nước ninh đem nấu mỳ sợi. Mẹ
bảo: “Ngọt lắm, bổ lắm, bổ bằng mấy cân thịt đấy”. Mình không ăn được và sợ thịt
bò từ đó.
Gần
mười năm sau, khi mình bắt đầu trổ giò, luôn trong trạng thái đói mèm thì mình ăn
được thịt bò. Lạ là lúc ấy không thấy gây nữa.
Gần
chục năm sau nữa, khi ngoài hai mươi, mình đã trở thành một người đàn ông thực thụ
với một con bò Tây. Thật may rằng trong buổi đánh chén ấy mình không phải vác theo
cái búa tạ như năm xưa.
***
Đấy
là hai câu chuyện hoài cổ của hai lão sắp già kể cho nhau nghe, vào một buổi trưa
trong cái nhà hàng có đầu bếp ngoại quốc.
Bạn
già cho một miếng cà vào mồm, nhai rồm rộp. Mình hỏi: “Vẫn chiến chứ?”. Bạn đặt
đôi đũa xuống bàn, chém tay vào không khí đến vù một cái: “Chiến!”.
Mình
bảo: “Rốt cuộc mỗi thằng cũng chỉ cần hai thước đất là đủ. Sao phải khổ thế!?”.
Bên
ngoài gió nàng Bân thổi ù ù.

