Gia tộc ma cà rồng (Tập 4) - Chương 05 - 06
Chương Năm
Mimi
Bước vào tiềm thức của người khác cũng giống như việc khám phá ra một
hành tinh mới vậy. Thế giới nội tâm của mỗi người là khác nhau và duy nhất. Một
số thì ồn ào, chật chội với những bí mật đen tối, lập dị choáng đầy tâm trí họ,
như những thứ đồ lót bẩn thỉu và những chiếc còng tay được giấu giếm ở góc
trong cùng của căn buồng nhỏ. Một số khác lại tinh khôi và trong sáng như đồng
cỏ xuân; những chú thỏ nhảy nhót tinh nghịch và những bông tuyết nhẹ rơi. Những
người như vậy rất hiếm. Tâm hồn của gã đàn ông này khá chuẩn mực, Mimi đã chọn
một môi trường trung gian để chất vấn hắn ta – ngôi nhà thời thơ ấu của hắn. Một
căn bếp ngoại ô: nền gạch trắng, bàn phooc-mi-ca – tất cả đều sạch sẽ, ngăn nắp
và bình thường.
Kingsley kéo chiếc ghế đẩu về phía đối diện anh chàng tự coi mình là
trung tâm của vũ trụ.
- Tại sao anh lại nói dối chúng tôi? – Anh ta hỏi. Trong thế giới trí
tâm thuật trông anh chàng Thợ săn vô cùng điển trai. Trí tâm thuật gom tạo ra
điều đó cho ma cà rồng: làm cho họ trở nên đẹp hơn cả vẻ đẹp vốn có của họ.
- Anh đang nói về chuyện gì vậy? – Hắn ta hỏi với vẻ bối rối trên khuôn
mặt.
- Cho anh ta biết đi.
Mimi tìm trong bộ nhớ và chiếu nó lên chiếc ti vi được đặt trên kệ bếp.
- Anh còn nhớ đêm hôm đó chứ? – Kingsley hỏi trong khi họ quan sát hình
ảnh anh ta bước ra ngoài ban công khách sạn và theo dõi người đàn ông cao lớn
đang vác một cái bao to bằng một đứa trẻ ra khỏi cổng khách sạn.
- Anh còn nhớ người đàn ông này không?
Jordan Llewellyn đã mất tích hơn một năm nay. Cô bé mười một tuổi bị bắt
cóc trong phòng khách sạn của mình cùng lúc những kẻ Máu Bạc tàn sát Hội Kín
trong một bữa tiệc.
Nhóm Thợ săn đã kiểm tra kí ức của tất cả những người đã ở trong khách
sạn đó vào cái đêm cô bé biến mất – tất cả khách trọ, mọi nhân viên, từ những
người bảo vệ an ninh đến những người phục vụ phòng – nhưng chẳng có manh mối
gì. Gia đình Llewellyn đã quá đau đớn nên không thể giúp được gì nhiều. Đó là
điều có thể hiểu được, nhưng vẫn là vô ích. Không ai biết bất cứ chuyện gì,
không ai nhớ bất cứ điều gì đã xảy ra. Ngoại trừ anh chàng đang ngồi trước mặt
họ đây.
- Anh đã nói với chúng tôi là anh nhìn thấy điều gì đó. Anh nói rằng đã
nhìn thấy người đàn ông ấy khi bước ra ngoài hút điếu thuốc vào đêm hôm đó –
Kingsley nói – Người đàn ông đó không hề tồn tại. Anh đã nói dối chúng tôi.
- Nhưng tôi không hút thuốc – Anh ta biện minh – Tôi không nhớ chút gì về
những việc đó cả. Chuyện gì thế này? Anh là ai? - Ở quán rượu, Mimi có thể thấy
anh ta bắt đầu bị kích động. Họ không có nhiều thời gian.
- Tại sao anh lại nói dối chúng tôi. Trả lời mau!- Kingsley quát.
Trong nhiều tháng nay họ đã theo dõi và bắt tất cả những người đàn ông ở
lại trong khách sạn trùng khớp với sự miêu tả của nhân chứng này. Họ đã theo
dõi các chuyên viên marketing, các thương gia đang tận hưởng kì nghỉ, du khách
và dân địa phương. Nhưng không có gì đáng chú ý cả. Sau hơn nửa năm, họ bắt đầu
băn khoăn liệu có phải họ đang săn lùng một bóng ma, một ảo ánh, một sản phẩm của
trí tưởng tượng. Cả đội đều nản chí và bực bội. Chỉ mới hôm qua Hội Kín đã yêu
cầu họ dừng nhiệm vụ và quay trở về New York. Jordan đã chết, vụ việc khép lại.
Nhưng Kingsley quyết định họ cần phải quay lại gặp nhân chứng lần nữa.
- Để tôi nhắc lại nhé: Ai đã bảo anh nói dối chúng tôi? – Kingsley hỏi.
- Không ai cả... Tôi không hiểu các anh muốn tôi phải nói gì. Tôi không
nhớ chút gì về đêm đó. Thậm chí tôi cũng không nhớ các anh. Các anh là ai? Các
người đang làm gì trong căn bếp của mẹ tôi?
- Tại sao anh lại ở Rio? – Ted Lennox ôn tồn hỏi, đóng vai trò một
thanh tra tốt bụng.
- Một người bạn của tôi chuẩn bị kết hôn... – Hắn ta lắp bắp nói – Tôi ở
đó vì bữa tiệc của hội độc thân.
- Anh trải qua từng ấy quãng đường để đến Rio chỉ vì một bữa tiệc của hội
độc thân ư? Thật vậy sao? – Mimi vừa giễu cợt vừa ngó ra ngoài thế giới thực,
nhìn xuống gã đàn ông với tư thế nằm úp mặt trên chiếc bàn. Trông hắn ta như thể
nơi xa nhất mà hắn từng đến là 7-Eleven[14].
[14] Hệ thống các cửa
hàng tiện lời được đặt tại mười tám nước trên thế giới, trong đó trụ sở chính đặt
tại Texas – Mỹ, sở dĩ có tên gọi này vì ban đầu các cửa hàng chỉ mở cửa từ 7 giờ
- 11 giờ.
- Ôi, tôi mới sống ở New York cách đây không lâu. Tôi từng là nhân viên
ngân hàng. Chúng tôi thường đi đây đi đó mỗi khi có người bạn sắp sửa kết hôn.
Thái Lan. Vegas. Punta Cac. Nhưng sau đó tôi bị mất việc và phải trở về sống với
cha mẹ. Đừng có căm ghét tôi như vậy.
- Bị cho thôi việc? – Sam Lennox hỏi.
- Không... chỉ là... Tôi cũng không còn nhớ rõ. Tôi đã xin phép nghỉ và
không quay trở lại nữa. Có vấn đề gì trong chuyện này sao? – Hắn ta gõ đầu mình
và nói với vẻ mặt lo lắng.
Xem xét lại việc này, có một cái gì đó dường như rất kì lạ ở nhân chứng.
Mimi nhớ anh chàng kiêu căng họ bắt được trước đó khác hẳn. Gã trai mà họ đã
tra khảo một năm trước đây nói năng lưu loát, nhanh nhẹn hoạt bát hơn nhiều, và
cũng tự kiêu hơn. Cô nhận thấy điều kì lạ ở chỗ họ đã bắt được hắn ta ở một
vùng ngoại ô hoang sơ. Cô cho rằng tất cả những người đã trọ ở cái khách sạn lộng
lẫy ấy ắt phải đến từ những nơi sang trọng.
- Hắn ta không nói dối đâu – Sam nói – Hãy nhìn võ não trước của hắn ta
kìa. Nó trống rỗng.
- Hắn ta không nhớ chút gì về đêm đó cả - Ted tán đồng.
- Quay lại một lần nữa đi – Kingsley yêu cầu – Điều đó chưa có nghĩa lí
gì.
Mimi cho chạy lại ở phần kí ức đó lần thứ hai. Bốn người họ quan sát một
cách chăm chú. Nhưng vẫn y như vậy: một người đàn ông cao lớn, cái bọc, điếu
thuốc lá. Nhưng Sam nói đúng – vỏ não trước của hắn ta chứng tỏ rằng gã đàn ông
đã không nói dối khi nói anh ta không nhớ chút gì về những chuyện đã xảy ra.
- Ôi lạy Chúa. Tại sao chúng ta lại để lỡ mất điều này nhỉ? Hãy nhìn
này. Force! Lennox! Nhìn xem! - Kingsley nói và phóng to phía mép hình ảnh lên.
Sau đó họ nhìn thấy thứ mà Kingsley đã thấy: có một vết rách ở cạnh
biên trí nhớ của anh ta. Nó giống như một đường nối đã được sửa chữa. Nó rất ổn
và được làm rất tốt, bạn sẽ chẳng bao giờ chú ý tới nó. Dù ai đã thực hiện điều
này thì quả thật rất giỏi. Bạn cần phải rất giỏi trong trí tâm thuật mới có thể
thực hiện được điều này. Những kí ức hư cấu đã đan xen với những kí ức thực một
cách chuyên nghiệp, đủ để lừa gạt nhóm Thợ săn Venator trong suốt hơn nửa năm
qua. Việc gắn kí ức giả vào các Máu Đỏ là một việc hết sức nguy hiểm. Nó có thể
gây rối loạn con người: biến họ trở thành kẻ mất trí điên cuồng, không thể phân
biệt hư thực. Hoặc là biến một nhân viên ngân hàng ở thành phố lớn trở thành kẻ
lười nhác ăn bám cha mẹ.
- Thả hắn ta đi – Kingsley nói một cách mệt mỏi.
Mimi gật đầu. Cô thoát ra khỏi bộ não của anh ta và bốn người họ bước
ra ngoài thế giới thực. Nhân chứng của họ đang nằm gục trên bàn và ngáy.
Không còn nghi ngờ gì cả.
Anh ta chỉ là một nạn nhân.
Chương Sáu
Bliss
Mỗi ngày kể từ buổi sáng
trên đỉnh núi ở trung tâm của Corcovado – dãy núi cao - Bliss đã phải tự hỏi
mình ba câu hỏi quan trọng. Tôi là ai? Tôi đang ở đâu? Chuyện gì đã xảy ra với
tôi?
Cô bắt đầu luyện tập vào một
ngày không lâu trước đây, khi cô thức dậy và nhận ra rằng không nhớ tại sao cô
lại buồn đến vậy. Rồi đến ngày hôm sau, cô lại không thể nhớ ra liệu mình có phải
là con một hay không. Nhưng điều thật sự khiến cô sợ hãi là cái ngày cô nhìn
vào gương và nghĩ rằng cô đang nhìn thấy một người xa lạ. Cô chẳng hề biết cô
gái với mái tóc đỏ kia là ai.
Và đó là khi cô nảy ra ý
nghĩa phải tự đặt cho mình ba câu hỏi vào mỗi buổi sáng.
Nếu cô không dành thời gian
để nhớ ra mình là ai, thì vị khách sẽ nắm quyền kiểm soát hoàn toàn. Bliss
Llewellyn thực sự, cô gái đã từng một lần bị trượt trong lần thi lấy bằng lái
trên chiếc xe Cadillac cũ từ những năm 1950, sẽ không còn tồn tại. Thậm chí phần
kí ức đã phai mờ một nửa của cô cũng sẽ chẳng còn lại dù chỉ ở một góc nhỏ
trong tâm trí cô.
Vậy là, họ đang ở Hamptons.
Bây giờ là buổi sáng. Cô thức dậy và chuẩn bị ăn bữa sáng, người hầu đang gọi
cô. Không, không phải là người hầu – là bố cô. “Người hầu” là cách vị khách gọi
ông Forsyth chứ không phải là cô. Đôi lúc điều đó vẫn xảy ra. Đôi khi cô thấy
mình có thể nghe được giọng nói của vị khách rất rõ ràng. Nhưng sau đó cánh cửa
đóng sầm lại, và cô sẽ ở phía bên kia, chìm trong bóng tối một lần nữa. Vị
khách đã xâm nhập vào quá khứ của cô, toàn bộ cuộc sống của cô, nhưng cô thì
không làm được điều ngược lại với ông ta. Cuộc nói chuyện của ông ta với
Forsyth đang diễn ra đằng sau chiếc cửa đóng chặt, còn những suy nghĩ của ông
ta thì được ẩn giấu nơi bóng tối.
Cô cũng cảm thấy nhẹ nhõm phần
nào vì vị khách không còn nói chuyện với cô nữa. Cô nhớ mang máng đã từng một lần
diễn ra cuộc nói chuyện ngắn giữa họ nhưng những chuyện đó không còn tái diễn nữa.
Giờ đây chỉ còn lại sự yên lặng, Cô hiểu đó là vì ông ta không còn cần phải
giao tiếp với cô để nắm quyền kiểm soát nữa. Ông ta đã từng nắm quyền kiểm soát
trong thời gian cô chìm trong cơn mê sảng, nhưng bây giờ ông ta không cần đến
những lúc cô hôn mê để làm những gì ông ta muốn nữa. Ông ta đã ngồi ở vị trí của
người điều khiển.
Dù vậy, điều đó cũng chưa hẳn
là cô đã bị gạt sang một bên. Cô đã trả lời thành công câu hỏi thứ nhất kia mà,
chẳng phải vậy sao?
Cô là Bliss Llewellyn. Con
gái của Thượng nghị sĩ Forsyth Llewellyn và là con chồng của người phụ nữa Bobi
Anne Shepherd đã mất. Cô đã lớn lên ở Houston cho đến khi gia đình cô chuyển đến
Manhattan ngay sau sinh nhật lần thứ mười lăm của cô. Cô đã từng là học sinh
trường Duchesne ở phố E.96th, và những sở thích của cô, không theo một
trình tự đặc biệt nào cả là: cổ động, mua sắm và làm người mẫu thời trang. Ôi
Chúa ơi, tôi là một đứa con gái chơi bời, Bliss nghĩ. Còn nhiều những điều như
thế về cô.
Bắt đầu lại nào. Được rồi.
Tên của cô là Bliss Llewellyn, cô lớn lên trong một ngôi nhà to lớn, đồ sộ ở
vùng River Oaks thuộc thành phố Houston, nhưng địa điểm ưa thích ở Texas của cô
là nông trại Pop=pop, nơi cô có thể cưỡi ngựa qua những đồng cỏ xanh mơn mởn
tràn đầy hoa dại. Môn học ưa thích của cô ở trường là môn Nghệ thuật Nhân văn,
cô hi vọng ngày nào đó có thể mở một phòng triển lãm nghệ thuật của riêng mình,
hoặc là, trở thành người quản lí của Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan.
Cô là Bliss Llewellyn, bây
giờ cô đang ở Hamptons. Một khu dân cư ven biển đã được nâng cấp, phải mất hai
giờ đồng hồ để đến đấy nếu đi từ Manhatta còn tùy thuộc vào tình hình giao
thông, nơi những người dân thành phố đến để “trốn tránh tất cả mọi thứ,” chỉ để
thấy chính mình ở trung tâm của mọi thứ. Tháng tám ở Hamptons cũng náo nhiệt
như tháng chín ở New York. Trước đây, khi cô vẫn chỉ đơn thuần là Bliss chứ
không phải là vỏ bọc cho một con quỷ (hay viết tắt là V.F.E, như cách cô nghĩ về
tình cảnh của mình mỗi khi cô muốn mỉm cười thay vì khóc), bà mẹ kế của cô đã
lôi họ tới đây vì đó là “việc cần làm.”
Bobi Anne đã nhấn mạnh vào cụm
từ “việc cần làm,’’ đã soạn ra một danh sách dài những điều nên làm và những điều
nên tránh – bạn có thể nghĩ rằng kiếp trước bà ấy hẳn phải là một biên tập viên
tạp chí. Điều đáng buồn về Bobi Anne là bà ấy luôn cố gắng hết sức để trở nên
thời thượng nhưng rồi kết quả lại luôn là những điều hoàn toàn ngược lại.
Hình ảnh về mùa hè đúng
nghĩa vừa qua ở Hamptons của Bliss bắt đầu ùa về trong tâm trí cô. Cô vốn là một
cô gái yêu thích thể thao, cô đã dành ba tháng để cưỡi ngựa, chèo thuyền, chơi
tennis và tập lướt sóng. Năm ngoái cô lại bị thương ở cổ tay phải. Ba lần đầu
là do chơi thể thao: trượt tuyết, chèo thuyền và chơi tennis. Lần này cô bị gãy
tay vì một lí do ngu ngốc kiểu Hamptons. Cô vấp ngã trên đôi giày cao gót
Louboutin và đè lên cổ tay mình.
Bây giờ cô đã trả lời câu hỏi
thứ nhất và thứ hai một cách chi tiết, không còn sự lựa chọn nào khác, phải đến
với câu hỏi thứ ba. Đó luôn là câu hỏi khó trả lời nhất.
Chuyện gì đã xảy ra với tôi?
Những điều tồi tệ. Những điều
khủng khiếp. Bliss cảm thấy ớn lạnh. Thật nực cười khi cô vẫn có thể cảm
thấy những điều đó, làm sao mà kí ức quái quỷ về cuộc sống và cảm nhận của cô
qua các giác quan còn kéo dài lâu đến thế. Cô có thể cảm nhận được tứ chi ma
quái của mình, và khi cô chìm vào giấc ngủ, cô mơ thấy mình vẫn sống một cuộc sống
bình thường: ăn socola, dắt chó đi dạo, lắng nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên
mái nhà và cảm nhận sự mềm mại của chiếc gối bông áp lên má.
Nhưng cô không thể níu giũ cảm giác đó lâu. Ngay lúc này đây, có những
điều cô không muốn nhớ lại một chút nào, nhưng cô buộc phải nhớ.
Cô nhớ căn hộ của họ ở thành phố, nhớ cái cách người gác cổng đeo găng
tay trắng gọi cô là “quý cô” và luôn đảm bảo rằng những túi đồ của cô sẽ được
xách lên một cách nhanh chóng. Cô nhớ đã kết thân với những người bạn ở trường:
Mimi Force, người đã từng bảo vệ cô và cũng là người đã cười nhạo chiếc túi
xách màu trắng bằng da thuộc của cô. Mimi vừa kiêu căng vừa đáng sợ. Nhưng cô
còn có những người bạn khác nữa, phải không? Đúng, chắc chắn là cô có. Đó là
Schuyler Van Alen, người bạn thân thiết nhất của cô, một cô gái ngọt ngào nhưng
chẳng ai biết được cô ấy mạnh mẽ - hay xinh đẹp đến nhường nào – và Oliver
Hazard-Perry, chàng trai với khiếu hài hước có phần châm biếm và những bộ trang
phục không chê vào đâu được.
Cô nhớ cái đêm trong quán rượu, hút chung điếu thuốc trong căn hẻm... với
một chàng trai. Cô đã gặp một chàng trai. Một chàng trai với mái tóc đen đang nằm
trong vòng tay cô. Dylan Ward. Cô chết lặng. Dylan đã chết. Bây giờ thì cô đã
nhớ ra mọi chuyện. Chuyện gì đã xảy ra ở Rio. Tất cả mọi thứ. Vụ giết người.
Lawrence. Chạy xuống ngọn đồi, trốn khỏi. Schuyler và Oliver vì cô không muốn họ
nhìn thấy gương mặt của cô – nhìn thấy con người thật của cô.
Dòng giống Máu Bạc.
Cô đã trở về New York với bố Forsyth để lo cho đám tang của Bobi Anne.
Thực ra chỉ là một lễ tưởng niệm, vì cũng giống như những thành viên đã khuất của
Hội Kín, chẳng có thứ gì còn lại để chôn cả. Không còn bất cứ dấu vết nào của
Bobi Anne còn sót lại – thậm chị là một lọn tóc trên mái tóc nhuộm hightlight của
bà. Một bức ảnh được phóng to đẹp đẽ đặt trên giá để thế chỗ cho chiếc quan tài
ở trước bàn thờ. Bức ảnh ghi lại hình ảnh đẹp nhất của mẹ kế của cô, khi bà ấy
được đăng trên một tạp chí dành cho giới thượng lưu.
Đám tang rất đông người. Toàn bộ cộng đồng Máu Xanh đã đến để thể hiện
sự ủng hộ với những người chống lại Máu Bạc. Mimi cũng đã ở đó với người anh
sinh đôi, Jack. Họ đã dành cho cô những lời an ủi và dỗ dành.
Nếu mà họ biết.
Trong lễ tang, Bliss vẫn nhận thức được toàn bộ những gì diễn ra xung
quanh. Cô nghe thấy Forsyth nói với cô (nhưng không phải với cô; ông ấy nói
chuyện với vị khách, bây giờ thì cô đã hiểu ra điều đó): đừng quá lo lắng...
Jordan đã không còn là vấn đề nữa rồi.
Lo lắng về cái gì? Vấn đề gì vậy? Ồ. Phải rồi. Suýt nữa cô quên mất. Em
gái của cô. Jordan biết. Phải mang một vị khách trong mình. Jordan đã từng cố gắng
giết cô.
Việc luyện tập thế là kết thúc. Cô đã nhớ ra mình là ai, đang ở đâu và
chuyện gì đã xảy ra với cô. Cô là Bliss Llewellyn, cô đang ở Hamptons, và cô
đang mang linh hồn của Lucifer trong mình.
Đó là câu chuyện của cô.
Ngày hôm sau cô sẽ lại phải
nhớ lại tất cả những điều đó một lần nữa.
CUỘC ĐIỀU TRA
Kẻ đã giết Lawrence. Kẻ đã
giết ông cô. Được rồi, vậy là Quan tòa đã không ra mặt để nói điều đó... không,
không gì tệ bằng điều ấy. Nhưng ông ta đã ám chỉ đủ rồi. Những nghi hoặc về câu
chuyện của cô đủ sức để ông ta có thể gắn cho cô những lời buộc tội đặt trước
trán.
Cô không hề nghĩ nó lại xảy
ra. Cô vẫn còn sốc vì quá đau đớn vì mất ông Lawrence... mà sau đó quên mất việc
phải tự bảo vệ mình trước Ủy ban. Cô đã cố gắng hết sức để giải thích với họ điều
gì đã xảy ra mà chẳng hề để tâm đến khả năng họ sẽ chẳng tin cô.
- Cô Van Alen, cho phép tôi
dẫn lại những lời khai của cô. Theo như những gì cô nhớ lại về các sự việc ở
Corcovado, một chàng trai đã biến hình thành Lucifer. Ông cô đã yêu cầu cô giết
hắn ta, nhưng cô đã thất bại. Sau đó, ông Lawrence đánh một đòn chí tử, nhưng lại
không may giết nhầm người vô tội và mở khóa nhà giam Leviatham, thả tự do cho
con quỷ. Con quỷ sau đó đã giết chết ông ấy. Tất cả những điều đó vẫn đúng cho
đến giờ phút này chứ?
- Vâng – Cô khẽ trả lời.
Vị quan tòa xem xét lại bản
ghi chép của ông ta một lúc. Schuyler đã từng một lần gặp ông ta trước đây khi
ông cô tiếp đãi một số thành viên của Hội Kín ở nhà. Tên ông ta là Josiab
Archibald, ông ta đã nghỉ hưu và rút khỏi Hội Kín từ nhiều năm trước. Các cô
cháu gái của ông ta là bạn học của cô ở trường Duchesne. Nhưng nếu như ông ta
có một chút đồng cảm nào với cảnh ngộ của cô thì ông ta đã che giấu điều đó rất
tốt.
- Hắn ta ở ngay trước mặt
cô, có phải vậy chăng? Một anh chàng à? – Vị quan tòa ngước lên hỏi.
- Đúng vậy.
- Và cô nói rằng cô đang cầm
thanh kiếm của mẹ cô trong tay?
- Đúng vậy.
Ông ta khụt khịt mũi, nhìn về
phía Trưởng lão, những người sau đó dựa về phía trước hay ngồi không yên ở chỗ
của mình. Thành viên thực sự duy nhất còn sống sót trong Hội Kín là Forsyth
Llewellyn, người đang ngồi phía sau với đầu bị băng bó và mắt trái sưng húp. Những
người còn lại đều là những thành viên đã về hưu giống như quan tòa. Họ ngồi
quây lại thành nửa vòng tròn, trông như một nhóm những yêu tinh nhỏ bé. Chỉ còn
lại rất ít người trong số họ: cụ ông Abe Tompkins vừa mới trở về từ ngôi nhà
mùa hè của ông ấy ở Block Island; Minerva Morgan, một trong những người bạn già
nhất của bà Cordelia và là cựu nữ chủ tịch của Hội Làm Vườn New York, đang ngồi
thủ thế trong bộ vét bằng len dạ của mình; Ambrose Barlow trông có vẻ như ông
ta vừa ngủ dậy.
- Thanh kiếm của Gabrielle
đã biến mất từ rất, rất nhiều năm nay – Vị quan tòa nói – Cô nói mẹ cô đã xuất
hiện... Bất thình lình! Chẳng biết từ đâu xuất hiện, và đưa nó cho cô. Chỉ như
vậy. Rồi biến mất. Để quay trở lại giường của bà ấy trong bệnh viện, có thể là
như thế. Giọng ông ta đầy mỉa mai.
Schuyler cử động một cách
không thoải mái trên ghế của mình. Điều đó có vẻ thần kì, đáng kinh ngạc... và
phi thực tế. Nhưng nó thực sự đã xảy ra. Giống những gì cô đã miêu tả.
- Đúng thế... Tôi không biết
bằng cách nào, nhưng đúng là như vậy.
Giọng của quan tòa trầm xuống.
- Hãy cho chúng tôi biết,
bây giờ thanh kiếm đang ở đâu?
- Tôi không biết – Cô thực sự
không biết. Sau cuộc hỗn chiến đó, thanh kiếm dường như đã biến mất cùng với
Leviathan, cô đã kể với họ như vậy.
- Cô biết gì về thanh kiếm của
Gabrielle? – Vị quan tòa hỏi.
- Không gì cả. Thậm chí tôi
còn không biết mẹ tôi sở hữu một thanh kiếm.
- Đó là một thanh kiếm thực
sự. Nó mang một sức mạnh đặc biệt. Nó đã được tôi luyện để luôn đánh trúng mục
tiêu của mình – Ông ta gào lên, như thể sự thiếu hiểu biết của cô là dấu hiệu của
tội lỗi này.
- Tôi không biết ông đang
nói đến điều gì.
Vị quan tòa nói một cách chậm
rãi và cẩn trọng.
- Cô nói rằng cô đã mang
thanh kiếm của mẹ cô. Một thanh kiếm đã biến mất nhiều thế kỉ và chưa bao giờ
thất bại trong việc tấn công kẻ thù trong suốt thời gian tồn tại của nó. Và còn
nữa... cô đã gây ra điều đó. Cô đã thất bại. Nếu cô thật sự có thanh kiếm của
Gabrielle trong tay, làm sao cô có thể thất bại được?
- Ông đang nói rằng tôi đã cố
ý thất bại phải không? – Cô hỏi với vẻ hoài nghi.
- Tôi không nói điều đó...
cô đã nói.
Schuyler cảm thấy choáng
váng. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Chuyện gì đây?
Vị quan tòa quay về phía những
người nghe xử án.
- Thưa toàn thể quý ông, quý
bà của Hội Kín, đây quả là một tình huống thú vị. Sự thật của vấn đề là đây.
Ông Lawrence Van Alen đã chết. Người cháu gái của ông ý muốn chúng ta tin vào một
câu chuyện khá li kì, rằng Leviathan, một con ác quỷ đã bị chính tay ông
Lawrence chôn dưới đá một thiên niên kỉ trước, đã được phóng thích, và cũng
chính con quỷ đó đã giết chết ông ấy.
- Đó là sự thật – Schuyler lẩm
bẩm.
- Cô Van Alen, cô chưa hề gặp
ông của mình cho đến vài tháng trước đây, điều đó đúng không?
- Đúng vậy.
- Cô chỉ biết ông ấy từ một
người lạ gặp trên phố.
- Tôi không hề nói điều đó.
Ông cháu tôi đã trở nên rất gần gũi chỉ trong một thời gian ngắn.
- Nhưng cô lại khiến cho ông
mình đau lòng, phải không? Sau tất cả, cô đã chọn sống với người anh trai đã từ
bỏ dòng họ của mẹ cô, chứ không phải ông Lawrence.
- Tôi chẳng hề chọn cái gì cả!
Chúng tôi đã chiến đấu chống lại việc nhận nuôi đó. Tôi không muốn sống với
Charles Force và gia đình ông ấy!
- Cô nói vậy.
- Tại sao tôi lại muốn giết
ông mình cơ chứ? Cô gần như hét lên. Điều này thật điên rồ. Một phiên bản nực
cười, một trò chơi đố chữ, một trò hề nhại công lí. Chẳng hề có công lí nào được
thực hiện ở đây cả.
- Có thể cô không cố ý giết
ông ấy. Có thể, như cô nói với chúng tôi trước đây, đó chỉ là một tai nạn – Vị
quan tòa mỉm cười, giống như một con cá mập.
Schuyler ngồi sụp xuống ghế
của mình, đầu hàng. Dù với lí do gì đi chăng nữa, quan tòa cũng không tin câu
chuyện của cô, và rõ ràng những thành viên còn lại của Hội Kín cũng vậy. Một
Máu Bạc giấu mặt trong hàng ngũ của họ đã bị phát hiện – Nan Cutler đã chết
trong hỏa hoạn ở Almeida. Ít nhất thì Hội Kín cũng tin điều đó. Họ đã chấp nhận
nó. Forsyth Llewellyn đã là nạn nhận của Giám sát viên Cutler phản bội và đã
đưa ra được chứng cứ.
Nhưng hội đồng thẩm định lại
không muốn chấp nhận thực tế về sự trở lại của Leviathan. Chấp nhận lời khai của
một vị trưởng lão trong hội là một chuyện, còn lấy lời khai của một đứa con lai
lại là chuyện khác. Họ thà tin rằng Schuyler đã cố ý giết ông Lawrence hơn là
tin một tên ác quỷ lại đang lộng hành trên trái đất một lần nữa.
Không có nhân chứng nào khác
ủng hộ cô ngoại trừ Oliver, nhưng lời khai của một Conduit không được chấp nhận
trong cuộc điều tra của Ủy ban. Những con người đơn giản không được đếm xỉa đến,
đó đã là truyền thống.
Vậy là cái đêm trước khi Hội
Kín đưa ra phán xét và quyết định phải làm gì với cô, cô và Oliver đã bay khỏi
đất nước.

