00. Phần mở đầu
Phần mở đầu
Mặc dù rận là một loài côn trùng chẳng lấy gì làm tốt đẹp,
nhưng cái việc “bắt rận” mà được viết trên mặt giấy thì lại được coi là một thứ
nghệ thuật hết sức tao nhã. Điều này cũng rất đỗi tự nhiên như chuyện Vương Cảnh
Lược nói đến bắt rận mà cứ thản nhiên như không. Thành thử dùng ẩn ý này để đưa
vào tên sách lại khiến người ta có cái cảm giác thú vị như Lý Bạch say sưa uống
rượu họa thơ vậy.
Nhưng nghĩ kỹ lại ở đời loài rận cũng chẳng phải hoàn toàn
“vô duyên” như thế. Một ngày mùa đông của hơn bốn mươi năm trước, khi tôi cùng
với một đoàn quân kéo về từ phương Bắc, trên người chẳng có gì chỉ còn sót lại
những con rận từ ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang và An Huy theo về, nếu cộng thêm
một loạt học sinh, sinh viên từ các tỉnh khác, ngoại trừ đảo Đài Loan, thì các
dân tộc rận từ hai mươi chín tỉnh thành và các khu tự trị có thể đã tề tựu đông
đủ một nhà. Nhưng không hiểu sao lúc ấy chúng tôi lại không hề cảm thấy có cái
gì đó ngứa ngáy, khó chịu, có lẽ do lũ rận đông đúc lúc này còn bận bịu tranh
vương tranh tước với nhau, chẳng còn để ý tới những việc khác, hoặc cũng có thể
do “tư tưởng đấu tranh giai cấp” trong chúng tôi lúc đó đã đạt đến độ nghiêm chỉnh,
lại đúng vào thời khắc tâm hồn nhạy cảm đang “xúc động” khiến cho da thịt tê dại
đến cực độ, chẳng còn biết đến cảm giác gì khác nữa. Nhưng khi vừa bước tới cổng
nhà, mẹ tôi ngay lập tức bắt lột hết quần áo đang mặc trên người xuống, sau đó
đun mấy nồi nước sôi lớn, nhúng đi nhúng lại quần áo vào nồi nước sôi sùng sục
trên bếp tới mấy lần, lúc này chỉ thấy hàng ngàn, hàng vạn con rận trôi nổi
trên mặt nước bỏng rẫy, thuận theo dòng nước mà chìm xuống, họ hàng nhà rận từ
hai mươi chín tỉnh thành và các khu tự trị đã cùng sinh cùng tử với nhau như thế.
Giờ ngẫm lại những kỷ niệm hồi đó vẫn thấy có nhiều điều tiếc nuối: Mặc dù sống
chung với rận suốt một thời gian dài, vậy mà tôi lại bỏ lỡ cái duyên “bắt rận
làm vui”, quả thực là đáng tiếc!
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Cho nên, hai chữ “bắt rận” ở đây chỉ là mượn cái ý vị trong
câu “bắt rận nói hổ khách” của Vương tiên sinh từ hàng ngàn năm về trước để
trang điểm cho vẻ bề ngoài của câu chữ, thực chất hoàn toàn chỉ là nói chuyện
phiếm mà thôi.
Ý nghĩa thực ở đây là “nói chuyện ma”. Nhưng “nói chuyện ma”
lại là việc “nói thì dễ mà làm thì khó”! Tô Đông Pha khi bị lưu đày ở Hoàng
Châu[1] thích nhất là nói chuyện ma, chính những câu chuyện ma quỷ ấy lại chất
chứa trong đó bao nhân tình thế thái, bao sự đời được phản ánh một cách gián tiếp
mà sâu sắc. Trong một tác phẩm của mình, Tô Đông Pha viết: Bắc khách nhược
lai hưu vấn sự, tây hồ tuy hảo mạc ngâm thi. Trong bài thơ tặng Quách công
phụ có đoạn: Mạc hướng giang biên lộng minh nguyệt, dạ thâm vô số thải châu
nhân. Thơ viết ra không phải để ngâm, trăng trên cao không phải để thưởng,
không gian tĩnh mịch như vậy không phải để nói chuyện ma thì nói chuyện gì?
Nhưng vào thời đó vẫn chưa thịnh hành lối nói chuyện ma quỷ, chưa có chuyện xây
lên những “ô đài quỷ ám”. Nói chuyện ma quỷ cũng chỉ là những ẩn ý sâu xa, chỉ
là những gợi nhắc thoáng qua mà thôi. Nhưng từ những gợi nhắc sơ sài, qua quýt
trong gần một ngàn năm trước ấy, đến thế kỷ XX lại trở thành một đề tài hấp dẫn
được viết thành truyện.
[1] Hoàng Châu: một địa
danh ở tỉnh Hồ Bắc.
Những trò cấm ma bài quỷ trong những năm 50 của thế kỷ trước,
chỉ là những mê tín dị đoan thuần túy, chứ tuyệt đối không có chút dụng ý sâu xa
nào khác, những suy nghĩ hồi đó cũng chỉ là những tình cảm tốt đẹp theo hình thức
“yêu ghét kiểu trẻ con”. Tôi còn nhớ như in một kỷ niệm hồi nhỏ khi xem kịch Cửu
canh thiên, vở kịch dọa cho tôi sợ đến nỗi cả đêm không ngủ được, chỉ cần
nhắm mắt lại là hình ảnh con ma không đầu lại hiện lên, chạy đến kêu oan. Vì vậy,
để đưa ra quyết định cấm đoán những hình thức mê tín mù quáng kiểu như thế này,
người ta cũng phải suy đi tính lại đến đau đầu bạc tóc cả rồi, mục đích là để hạn
chế những nỗi sợ hãi đến mất hết lý trí như vậy. Nhưng đến năm 1957, thời kỳ “hữu
khuynh”, trên sân khấu lại xuất hiện Họa bì, một câu chuyện ma đầy tính
xác giới theo kiểu Liêu trai chí dị, biết bao bộ phim như thế xuất hiện
cùng một thời điểm, trong các rạp chiếu phim toàn là những phim câu khách kiểu
như vậy (số còn lại thuộc kiểu phim hài không được ăn khách cho lắm). Sau khi
xem xong, đêm về hễ cứ nhắm mắt lại là những con yêu quái “mặt xanh nanh dài” lại
hiện lên, so với con quỷ không đầu lần trước còn đáng sợ hơn nhiều. Nhưng hình ảnh
ác quỷ giả dạng mỹ nhân là ám chỉ những “phần tử hữu khuynh”, rất có thể từ sự
ám ảnh, sợ hãi mà chúng ta lại càng hiểu hơn về sự tàn nhẫn trong tư tưởng của
phần tử phái hữu này. Việc mượn chuyện ma quỷ để gửi gắm những ẩn ý sâu xa từ
đây lại trở thành một “bút pháp độc đáo” trong nghệ thuật, đó chính là một sự dụng
tâm sâu sắc: Đừng nghĩ rằng tôi nói chuyện ma quỷ là chỉ để nói tới ma quỷ, mà
qua chuyện ma quỷ tôi muốn nói tới chuyện con người, lấy ma quỷ để răn đe con
người. Nhưng làm thế nào để biết người ta đang mượn chuyện ma để nói chuyện người?
Đến năm 1959, để công kích lại phái phản động trong và ngoài nước, một loạt những
câu chuyện cổ vũ cho tinh thần “bài trừ ma quỷ” đã đồng loạt xuất hiện trên các
diễn đàn. Cùng lúc đó, tư tưởng “mỗi người một dạ” của các phần tử trí thức có
cơ hội được bộc lộ rõ ràng, vì thế những vở kịch như Lý Tuệ Nương, Tạ
Dao Hoàn lại có cơ hội được trình diễn. Trong vở kịch, Lý Tuệ Nương đã nguyền
rủa Giả Tự Đạo, qua đó chỉ trích quốc vương Hải Thụy. Nhưng có vở kịch lại cổ
xúy cho tư tưởng ca ngợi “loài ma quỷ vô hại”. Điều này chẳng phải là công
nhiên đề xướng tư tưởng dùng ma quỷ để “chống đối Đảng” sao? Thì ra khi nói tới
chuyện ma quỷ, người nói đều có mục đích sâu xa cả. Và người cầm cờ khởi xướng
là tác giả của một tác phẩm ký tên Lương Bích Huy được đăng trên Báo văn hối
của Thượng Hải, chủ đề ma quỷ vốn cấm kỵ,
đến nay chính thức bắt đầu được thừa nhận, lúc đó là vào năm 1963. Có người cho
rằng đây là một cuộc “đại cách mạng trong văn hóa nghệ thuật” mà trước nay chưa
từng có, góp một tiếng nói “tước ngôi Hải Thụy” trong vở kịch trước đây. Điều
đó cho thấy chủ đề “ma quỷ” đã chiếm giữ vị trí quan trọng như thế nào trong cuộc
đấu tranh tư tưởng, có lẽ đó cũng là điều hi hữu từ xưa tới nay.
Cho đến khi “kết thúc thời kỳ thái bình thịnh trị”, nhà vua
vô cùng phẫn nộ, lệnh cấm ma quỷ bỗng trở nên nghiêm ngặt hơn. Nhưng có lẽ lệnh
cấm đó đã không còn hữu hiệu, vì ngay cả người có quyền lực cách mạng tối cao,
trên thực tế đối với những nhu cầu cơ bản về vật chất và tinh thần của người
dân cũng không sao đảm bảo được, vì vậy quyền lực bị mất đi hoặc xoay chuyển
cũng là điều dễ thấy. Sau năm 68, tôi về sống ở nông thôn. Ban ngày tôi chuyên
tâm làm công việc phê bình, buổi tối lại chuyên tâm viết truyện ma quỷ, hai
công việc chẳng có liên quan gì đến nhau nhưng lại cùng chung một bối cảnh của
công cuộc Đại cách mạng văn hóa. Những người dân sống quanh tôi, họ hoàn toàn
chẳng hiểu gì về chuyện hồn ma và “cách mạng văn hóa” (Ngược lại, họ chẳng sợ
cái gì cả, thậm chí họ còn tỏ rõ thái độ khinh miệt, một tinh thần mới, nói một
cách khác, họ cho những việc tôi làm chẳng khác nào là “chuyện rỗi hơi”). Nhưng
những đề xuất nông cạn của tôi lại gặp gỡ họ ở cái “nhu cầu tâm linh” huyền bí.
Đương nhiên tôi không thể có cái tài làm cho ma quỷ sống lại, càng không có
năng khiếu dùng chuyện ma mà lấp đầy cái bụng trống rỗng của họ, chỉ là tích
góp mỗi ngày một chút ít kinh nghiệm từ trời đất, làm một trận đại phê bình và
với người cũng thích đấu tranh, nhưng ngược lại không đạt được cảm giác thích
thú như mong đợi. Thế thì nói chuyện ma quỷ để tìm cảm giác gì ở trong đó,
không chỉ là thú vị, kích thích, mà còn có cảm giác không thể có trong thực tế,
cảm giác khiến người ta vừa sợ hãi lại vừa thích thú đến mê hoặc. Nhưng cũng
không thể không đề cập tới tác động không nhỏ của Cách mạng văn hóa, trong đó
cũng khó tránh khỏi một bộ phận không thích thú, thậm chí là sợ hãi, như những
oan hồn phục thù hoặc một số loại tương tự.
Mở lối cho những lệnh cấm nói chuyện ma quỷ, tất nhiên phải
đến sau thời kỳ Cách mạng văn hóa, thậm chí nếu công khai nói chuyện ma quỷ thì
còn phải đợi đến một thời gian sau nữa. Trong ký ức của tôi, có lẽ phải đợi tới
gần mười năm sau, Phùng Ký Tài tiên sinh mới viết một cuốn tùy bút đưa ra một đề
xuất mang tính thăm dò: Có nên đi sâu nghiên cứu về vấn đề “văn hóa nói chuyện
ma quỷ”? Sau này, nhà xuất bản ở Thượng Hải đã xuất bản một cuốn tiểu thuyết dịch
có tên là Văn hóa ma quỷ. Mặc dù “văn hóa u minh” của Trung Quốc và “văn
hóa ma quỷ” của phương Tây là hai phạm trù hoàn toàn khác biệt, nhưng đã tạo điều
kiện cho những phong bế cấm kỵ nghiêm ngặt trước đây được dịp mở cửa hoàn toàn.
Từ đó đến nay, những lệnh cấm đoán nói chuyện ma quỷ đương nhiên không còn tồn
tại, chỉ cần lên mạng và tra cứu dòng chữ “liên bồng quỷ thoại” là có thể thấy
ngay tư tưởng đã được khai mở đến mức nào.
Từ nhỏ tôi đã thích nghe kể chuyện ma, vừa nghe vừa sợ,
nhưng càng sợ lại càng muốn nghe, đến khi tôi biết đọc, biết viết, tôi liền tự
tìm đến những cuốn sách ma để xem. Bây giờ có thể tự tin đọc được văn ngôn cũng
chính là kết quả của thời niên thiếu ham thích những cuốn sách kiểu Liêu
trai chí dị. Đọc nhiều truyện ma quỷ cũng giúp ta có thêm nhiều hiểu biết về
thế giới u minh của người Trung Quốc, những câu chuyện xét về một khía cạnh nào
đó còn là biểu hiện cho quan niệm về một thế giới cô hồn, thế giới của người chết
theo phong tục lâu đời trong dân gian. Vì những điều đó, mỗi tác phẩm như vậy
ra đời không chỉ là sản phẩm của cá nhân mà bao hàm trong đó là sự phản ánh nhiều
kiểu quan niệm, suy nghĩ phức tạp về con người và thế giới, qua đó cũng có thể
định hướng một cách thống nhất giữa những quan điểm rối ren, phức tạp và đầy
mâu thuẫn. Cái chung nhất có thể cảm nhận được chính là cảm giác trải qua nỗi sợ
hãi sau mỗi câu chuyện ma thú vị, nỗi sợ hãi ám ảnh khác hẳn với cái sợ sệt vẫn
thấy trong cuộc sống hằng ngày. Nói một cách hình ảnh hơn thì chính những câu
chuyện ma quỷ ấy lại có thể giúp người ta có được sự thú vị sâu sắc tận trong
tâm hồn. Do đã đến cái tuổi nhàn rỗi đến nhàm chán, cho nên đã nảy sinh cái thú
nói chuyện ma quỷ làm vui.
Mặc dù vậy nhưng để có được một cuốn truyện ma được đăng
trên tập san quả thực cũng không phải chuyện dễ dàng, đó còn chưa kể đến lệnh cấm
nghiêm ngặt kể trên. Nhưng điều thôi thúc tôi đến với những câu chuyên ma nhất
chính là cảm giác kỳ ảo, ma quái, không thể nói thành lời toát lên từ mỗi trang
truyện. Quả thực có những thứ thực sự khó lý giải mà người ta chỉ có thể tìm thấy
tính hợp lý của nó ở trong những câu chuyện hấp dẫn này. Vì thế, khi tôi thử đặt
bút viết cuốn sách này, trong lòng cũng có nhiều điều e sợ, sợ sẽ mang rắc rối
đến cho người biên tập, càng sợ sẽ gây thêm phiền phức cho gia đình. Cho nên
khi gửi bản thảo đi rồi mà nghe tin bị gửi trả lại hay một thông tin gì đó
tương tự, tôi không hề cảm thấy bất ngờ chút nào. Nhưng điều nằm ngoài sự mong
đợi của tôi là tạp chí Vạn tượng không những mạnh dạn chấp nhận mà còn
hào phóng đề nghị mở một chuyên mục kể chuyện ma trên báo. Nhờ có sự khích lệ
đó mà chỉ trong vòng hai, ba năm tôi đã nỗ lực không ngừng để có được một số lượng
lớn các câu chuyện ma. Trong thời gian kể trên, bên cạnh sự hỗ trợ đắc lực của
tạp chí Vạn tượng, tôi còn nhận được sự quan tâm, động viên không nhỏ của
các độc giả, những người trẻ tuổi luôn yêu mến và cổ vũ tôi để tôi có được nỗ lực
và quyết tâm hoàn thành cuốn sách như ngày hôm nay. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất!
Hiện nay, nhà xuất bản Văn học và Nghệ thuật Thượng Hải đang
có ý định tập hợp những câu chuyện kể về ma này với những sáng tác có cùng chủ
đề nói chuyện ma của những người bạn của tôi để xuất bản thành một bộ sách. Đây
thực sự là một niềm vinh dự lớn đối với tôi. Như vậy, những câu chuyện tản mạn
về ma của tôi trong suốt hai, ba năm bao gồm cả những sáng tác chưa một lần
đăng tải trên tạp chí Vạn tượng, cũng được tập hợp và sắp xếp ấn định
theo thời gian sáng tác, trong mỗi trang truyện có những câu từ còn chưa thực sự
hoàn hảo, khi xem lại tôi đã có sự điều chỉnh đôi chút ở bên dưới, sau này có
thể cắt gọt bớt đi cho hàm súc. Đồng thời, trong quá trình viết truyện, khi viết
xong mỗi chương đoạn tôi đều tạm thời dừng lại, sau khi lắng nghe mọi ý kiến
đóng góp của bạn đọc rồi mới quyết định nên hay không nên viết tiếp, và nên lựa
chọn viết như thế nào.
LOAN BẢO QUẦN - Một ngày mùa thu năm 2009