Bảy năm sau - Phần 02 Chương 28-29
28
Thở không ra hơi và mồ
hôi nhỏ tong tong, Sebastian bước vào sảnh Gran Hôtel dưới ánh mắt sững sờ của
cô nhân viên lễ tân. Với cái mũi bê bết máu, chân đi đất và áo khoác rách tơi
tả, anh lạc lõng giữa sảnh khách sạn sang trọng.
- Xảy ra chuyện gì với
ông vậy, ông Larabee?
- Tôi… gặp tại nạn.
Vẻ lo lắng, cô ta nhấc
điện thoại.
- Tôi sẽ gọi bác sĩ.
- Không cần đâu.
- Thật sao?
- Tôi ổn mà, đảm bảo với
cô đấy, anh nói thêm với vẻ kiên quyết.
- Tùy ông vậy. Tôi sẽ
tìm bông băng và cồn sát trùng giúp ông. Nếu ông cần thêm thứ gì, cứ cho tôi
biết.
- Cảm ơn cô.
Cho dù đang mệt đứt hơi
còn cơ bụng thì đau xé, anh vẫn muốn leo cầu thang bộ hơn là đợi thang máy.
Khi anh bước vào, căn
phòng không một bóng người. Nhạc chuông Rolling Stones đang réo rắt ở âm lượng
rất lớn, nhưng Nikki vẫn mất tăm. Anh ghé vào phòng tắm thì thấy người vợ cũ
đang nằm dài trong bồn, mặt chìm dưới nước, mắt nhắm nghiền.
Hoảng hốt, anh túm tóc
cô lôi ra khỏi đó. Bị bất ngờ, cô hét lên một tiếng.
- Này! Làm sao thế hả đồ
điên! Anh suýt lột cả da đầu tôi ra rồi đấy! Cô vừa nói vừa che ngực.
- Tôi tưởng cô bị chết
đuối. Chết tiệt thật, cô đang chơi trò gì thế? Trò nàng tiên cá không còn hợp
với tuổi cô nữa đâu!
Trong khi nhìn anh bằng
ánh mắt tối sẩm, cô nhận ra những vết thương trên mặt anh.
- Anh đánh nhau à? Cô lo
lắng hỏi.
- Người ta đánh tôi thì
hợp lý hơn đấy, anh bực bội đáp trả.
- Anh quay lại đi, tôi
ra khỏi bồn tắm đây. Mà đừng có lợi dụng nhìn trộm đấy nhé!
- Tôi từng thấy cô khỏa
thân rồi, cô nên nhớ thế.
- Phải, trong một cuộc
đời khác.
Anh ngoảnh đi rồi chìa
cho cô chiếc áo choàng tắm. Cô mặc nó vào khi bước ra khỏi bồn tắm và quấn một
chiếc khăn tắm quanh đầu.
- Anh ngồi xuống đi, tôi
sẽ kiểm tra giúp anh.
Trong khi cô lau rửa các
vết thương bằng nước xà phòng, anh kể lại cho cô nghe chuyện đen đủi ở Barbès.
Đến lượt mình, cô cũng cho anh biết về hai cú điện thoại cô đã nhận được: một
của Santos và một cuộc gọi bí ẩn từ Công ty du thuyền Paris.
- Ái! Anh kêu lên đau
đớn khi cô bôi thuốc sát trùng lên vết thương.
- Anh thôi õng ẹo đi!
Tôi ghét kiểu đó!
- Nhưng rát lắm!
- Phải, nó hơi rát khi
người ta ba hay bốn tuổi, còn anh thì tôi nghĩ đã lớn rồi.
Anh đang tìm kiếm lời
đáp trả thật chua cay thì nghe thấy tiếng gõ cửa.
- Phục vụ tầng đây, một
giọng nói vọng vào từ phía cửa.
Nikki định bước ra khỏi
phòng tắm, nhưng anh kéo tay áo choàng tắm của cô lại.
- Cô sẽ không ra mở cửa
trong bộ dạng này chứ?
- Bộ dạng này làm sao?
- Cô gần như đang khỏa
thân đấy!
Cô ngước mắt lên trời
ngao ngán.
- Đúng là cô vẫn chẳng
thay đổi gì hết, anh trách móc cô rồi ra mở cửa.
- Anh cũng thế thôi! Cô
vừa hét vừa sập cánh cửa phòng tắm lại.
Một người phục vụ diện
chiếc mũ ca lô màu đỏ và bộ com lê đính khuy vàng xuất hiện. Dáng người mảnh
khảnh, ông ta gần như bị khuất sau đám hộp dán mác những thương hiệu sang trọng:
Yves Saint Laurent, Christian Dior, Zegna, Jimmy Choo…
- Chúng tôi đến giao
những hộp này theo yêu cầu của ông, thưa ông.
- Chắc là có nhầm lẫn gì
đó, chúng tôi không đặt hàng gì cả.
- Tôi xin phép được nhấn
mạnh, thưa ông: đơn hàng này chính xác là theo tên ông.
Vẻ nghi hoặc, Sebastian
tránh đường để ông ta mang các hộp, gói kia vào phòng. Khi người phục vụ trở
ra, Sebastian lục tìm trong túi xem có tiền để boa cho ông ta không thì mới nhớ
ra anh vừa bị trấn lột. Nikki đã đến ứng cứu kịp thời bằng cách đưa cho người
phục vụ tờ năm đô la, rồi đóng cửa lại.
- Anh đi buôn đấy à, anh
yêu? Cô vừa mở các gói hàng vừa giễu cợt.
Vô cùng hiếu kỳ, anh
cũng phụ giúp cô bóc các món hàng trên giường. Có tất cả sáu túi giấy đựng các
trang phục dạ hội: một bộ com lê, một chiếc đầm, một đôi giày cao gót…
- Giờ thì tôi chẳng hiểu
thông điệp là gì nữa.
- Một bộ trang phục nữ,
một bộ trang phục nam, Nikki nhận xét trong khi nhớ lại điều mà nhân viên lễ
tân của Công ty du thuyền Paris đã nói với cô về chuyện nhất thiết phải mặc đồ
dạ hội.
- Nhưng tại sao chúng
lại muốn chúng ta mặc chính xác loại quần áo này?
- Có thể chúng được gắn
thiết bị theo dõi? Một thiết bị phát tín hiệu có thể giúp định vị chúng ta…
Anh suy ngẫm về lý lẽ
đó. Nghe có vẻ lô gic. Thậm chí còn là lẽ hiển nhiên. Anh vơ đại chiếc áo vest
rồi bắt đầu sờ nắn một lượt, nhưng chỉ mất công thôi: thời nay, loại máy móc đó
hẳn là phải siêu nhỏ. Với lại, tại sao phải cố gỡ bỏ nó nếu nó có thể giúp hai
người liên lạc được với những kẻ bắt cóc con trai họ?
- Tôi nghĩ chúng ta chỉ
còn cách thay đồ thôi, Nikki nói.
Sebastian đồng ý.
Anh đi tắm trước, vẫn
còn đủ thời gian cho anh đứng dưới những tia nước nóng bỏng, xoa xà phòng từ
đầu đến chân như để tẩy rửa cơ thể khỏi kinh nghiệm nhục nhã ở Barbès.
Rồi anh thay bộ đồ mới.
Ngay lập tức anh cảm thấy thật thoải mái. Chiếc áo sơ mi trắng vừa khít người
anh và được may rất khéo, bộ com lê theo kiểu cổ điển mà vẫn sang trọng, chiếc
cà vạt bản nhỏ, đôi giày loại cao cấp, nhưng không phải quá lố. Những trang
phục mà anh hẳn sẽ chọn cho chính mình.
Khi anh quay trở ra,
bóng tối đã buông xuống. Trong ánh ngày tàn, anh nhận ra dáng người Nikki trong
chiếc đầm dạ hội màu đỏ khoét sâu ở lưng với phần cổ rất trễ viền ngọc trai.
- Anh giúp tôi được
không?
Anh im lặng đi ra phía
sau cô và, như anh đã từng làm việc này trong bao nhiêu năm, khéo léo cài những
khuy bằng ngọc trai tinh tế. Những ngón tay của Sebastian lướt trên vai khiến
Nikki thấy nổi da gà. Như bị thôi miên, Sebastian cố hết sức rời mắt khỏi làn
da mềm mượt trắng nhợt của vợ cũ. Đột nhiên, anh đặt tay lên bả vai cô, bắt đầu
ve vuốt. Anh ngước mắt nhìn lên phía tấm gương hình bầu dục phản chiếu tới anh
bức ảnh trên bìa một tạp chí. Trong hình phản chiếu là vợ chồng anh đang tán
tỉnh nhau.
Nikki mở miệng định nói
gì đó thì một cơn gió thổi đến sập mạnh cánh cửa sổ. Phép bùa chú bị gián đoạn.
Để xua đi cơn bối rối,
cô vùng thoát ra rồi xỏ chân vào đôi giày cao gót, hoàn thiện phục trang của
mình. Để lấy lại vẻ điềm đạm, Sebastian đút tay vào túi quần. Có một miếng mác
nhỏ để trong túi quần bên phải. Anh rút ra định ném vào sọt rác nhưng đến
khoảnh khắc cuối cùng lại dừng phắt lại.
- Nhìn này!
Đó không phải là mác
quần áo.
Mà là một mảnh giấy được
gấp tư.
Một mã mở tủ gửi đồ.
Ở Ga Bắc.
29
Quận XIX.
Không được dân Paris để
ý lắm, khu phố người Mỹ xưa kia là nơi trú ngụ của dân làm nghề khai thác thạch
cao và đá silic. Khu phố đó mang tên một tín ngưỡng theo đó chữ “Đá thạch cao”
mà người ta khai thác từ công trường này dường như được dùng để chế tác ra bức
tượng Nữ thần Tự do và xây dựng Nhà trắng. Điều đó hoàn toàn không đúng, nhưng
truyền thuyết lúc nào cũng đẹp.
Trong suốt Ba Mươi Năm
Vàng Son, phần lớn các khu ngoại ô đã bị san bằng để nhường đường cho công cuộc
“Hiện đại hóa”. Những khối nhà cao tầng buồn thảm và những ngọn tháp gớm guốc
đang bóp méo khung cảnh phía Bắc ngôi làng Belleville trước đây. Nằm giữa công
viên Buttes – Chaumont và đại lộ vành đai, phố Mouzaïa chính là tàn tích cuối
cùng của một thời đại đã qua. Dài hơn ba trăm mét, con đường này chạy qua các ngõ
cụt lát gạch với hai bên là hai hàng đèn cùng những ngôi nhà có vườn nhỏ xinh.
Tại số nhà 23 bis trên
phố này, trong một ngôi nhà gạch nhỏ có mặt tiền màu đỏ, tiếng chuông điện
thoại reo vào hư không đến lần thứ ba trong vòng chưa đến mười phút.
Tuy nhiên Constance
Lagrange đang ở đó, nằm dài trên chiếc phô tơi tròn trong phòng khách. Nhưng
nửa chai whisky đã nốc hồi đêm vẫn khiến cô say sưa không biết trời đất gì nữa.
Ba tháng trước, vào ngày
sinh nhật ba mươi bảy tuổi, Constance nhận được ba tin: hai tin tốt, một tin
xấu.
Khi đến chỗ làm, vào
sáng 25 tháng Bảy đó, cấp trên của cô, thiếu tá Sorbier đã thông báo rằng cô
được thăng hàm đại úy ở Đội cảnh sát truy nã quốc gia đầy danh giá.
Đến trưa, cô nhận được
một cú điện thoại từ ông chủ ngân hàng cho cô biết rằng khoản vay của cô vừa
được chấp nhận, giúp cô rút cuộc cũng có thể thực hiện dự án bất động sản của
mình: mua một ngôi nhà theo đúng mơ ước, trên phố Mouzaïa, trong khu phố mà cô
vô cùng yêu thích.
Khi ấy Constance tự nhủ
đó là ngày may mắn của mình. Nhưng đến cuối buổi chiều, bác sĩ của cô đã báo
tin rằng kết quả chiếu chụp của cô vừa thực hiện cho thấy cô có một khối u
trong não. Một khối u ác tính giai đoạn bốn. Loại nặng nhất trong các loại ung
thư. Ác tính, tốc độ phát triển nhanh và không thể phẫu thuật. Người ta cho
biết cô còn bốn tháng.
Lại một lần nữa, điện
thoại rung trên sàn nhà.
Lần này, tiếng chuông mở
được một con đường xuyên vào giấc ngủ mê man của cô vốn đang chồng chất những
hình ảnh tối tăm về các tế bào ung thư. Constance mở mắt rồi lau những giọt mồ
hôi rịn ra trên trán. Cô vẫn lịm đi một lúc lâu nữa, người nôn nao, chờ đợi
tiếng chuông tiếp theo để với tay xuống sàn nhà. Cô nhìn số điện thoại hiện
trên màn hình. Là số của Sorbier, sếp cũ của cô. Constance nghe máy, nhưng để mặc
ông ta nói.
- Cô đang làm cái quái
gì thế, Lagrange? Ông ta quát nạt cô. Tôi gọi cho cô suốt nửa tiếng rồi đấy!
- Tôi nhắc lại với ông
là tôi đã nộp đơn thôi việc, thưa sếp, cô vừa dụi mắt vừa trả lời.
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Cô uống rượu à? Nghe giọng cô nồng nặc mùi rượu đấy!
- Ông đừng nói vớ vẩn
nữa. Chúng ta đang nói chuyện điện thoại cơ mà…
- Thì sao chứ. Cô đã say
mèm ra rồi và mùi rượu còn bay cả đến đây!
- Được rồi, ông muốn gì
nào? Cô vừa hỏi vừa khó nhọc đứng dậy.
- Chúng ta phải tiến
hành một vụ ủy thác xét xử từ giới chức New York. Tôi cần bắt ngay hai người
Mỹ. Một người đàn ông và vợ cũ của hắn. Vụ này nặng đấy: buôn lậu ma túy, giết
hai người, tội danh bỏ trốn…
- Tại sao cảnh sát không
yêu cầu cảnh sát tư pháp Paris làm vụ này?
- Tôi hoàn toàn chẳng
biết gì hết và tôi cũng cóc cần. Tất cả những gì tôi biết đó là chúng ta phải
làm vụ này.
Constance lắc đầu.
- Là các vị thôi. Tôi
giờ không còn trong đội nữa.
- Thôi, đủ rồi đấy,
Lagrange, viên thiếu tá nổi giận. Cô làm tôi cáu với cái chuyện thôi việc của
cô rồi đấy. Cô có vài vấn đề riêng tư đúng không? Được lắm: tôi để cô được yên
trong hai tuần, nhưng giờ thì thôi mấy trò ngu ngốc kia đi.
Constance thở dài. Cô
thoáng do dự định thổ lộ mọi chuyện với sếp: căn bệnh ung thư đang ăn mòn não
cô, việc cô chỉ còn lại vài tuần để sống, việc xích lại gần cái chết khiến cô
sợ hãi. Nhưng cô từ bỏ ý định. Sorbier là quân sư của cô, một trong những cảnh
sát vĩ đại “kiểu cũ” cuối cùng còn sót lại, một trong những người rất được
ngưỡng mộ. Cô không chấp nhận nổi ý nghĩ lôi kéo lòng thương hại của ông hoặc
khiến ông rơi vào tình huống khó xử. Vả lại, cô cũng không hề muốn khóc lóc
trong vòng tay ông.
- Ông điều người khác
đi. Tại sao ông không cử trung úy Botsaris ấy?
- Không có chuyện đó
đâu! Cô thừa biết là dính đến người Mỹ thì luôn phải khéo léo. Tôi không muốn
gặp vấn đề gì với bên đại sứ quán. Cô sẽ tìm ra hai kẻ đó và bắt giam trước
ngày mai cho tôi, đồng ý nhé?
- Tôi đã nói với ông là
không rồi cơ mà!
Sorbier làm như không
nghe thấy gì.
- Tôi đã chuyển hồ sơ
cho Botsaris, nhưng tôi muốn chính cô là người giám sát quá trình điều tra. Tôi
đang gửi một bản sao tới máy của cô đây.
- Ông cút đi! Constance
gào lên rồi tắt máy.
Cô lê lết tới tận phòng
tắm để nôn vào trong bồn cầu một tia mật. Cô không ăn gì từ bao giờ rồi? Dù thế
nào đi nữa cũng phải hơn một ngày. Tối hôm trước, cô dìm nỗi sợ hãi của mình
trong men rượu, cô tính không ăn gì để cảm nhận được cơn say ngay từ những ly
rượu đầu tiên. Một cơn “say nhanh” đưa cô vào cõi mơ mộng trong suốt mười lăm
giờ tiếp đó.
Phòng khách chìm trong
làn ánh sáng cuối chiều thu tuyệt đẹp. Constance đã chuyển đến ngôi nhà này
được ba tuần, nhưng cô chưa hề gỡ bất cứ thùng đồ đạc nào. Vẫn còn nguyên băng
dính, các thùng các tông chuyển nhà vẫn chất chồng rải rác khắp căn nhà trống.
Giờ thì còn để làm gì
chứ?
Trong một ngăn tủ, cô
tìm thấy gói bích quy Granola bóc dở. Cô vớ lấy gói bánh, ngồi xuống chiếc ghế
đầu ở quầy bar bé xíu trong bếp rồi cố nhấm nháp vài chiếc.
Giết thời gian như thế
nào đây trong khi chờ đợi thời gian giết chết chúng ta?
Câu này đã được ai nói
ra nhỉ? Sartre? Beauvoir? Aragon? Trí nhớ của cô có vấn đề. Vả lại, đó chính là
điều thúc đẩy cô đi khám bệnh. Đầu tiên, cô thấy một vài dấu hiệu báo trước:
buồn nôn, nôn, đau đầu, nhưng có ai chưa từng gặp phải những triệu chứng này
chứ? Lối sống của cô không phải không có gì đáng chê trách nên cô không lấy thế
làm lo. Dần dần, cô thấy mình hay quên, giảm trí nhớ, điều đó xảy ra thường
xuyên đến mức gây khó khăn cho cô trong công việc. Cô trở nên bốc đồng, dần dần
cũng mất khả năng kiểm soát cảm xúc. Rồi những cơn chóng mặt xuất hiện, khiến
cô quyết định đi khám bác sĩ.
Chẩn đoán đưa ra vừa
nhanh mà cũng vừa phũ phàng.
Trên mặt quầy bar bằng
gỗ chình ình một tập hồ sơ y học rất dày. Những góp nhặt sống động về căn bệnh
cô mắc phải. Constance đã mở nó đến lần thứ n và hoảng sợ nhìn hình ảnh bộ não
của mình được chụp X-quang. Trên phim chụp, cô thấy rõ rành rành một khối u to
tướng và các vùng di căn của tế bào ung thư, chúng đã xâm chiếm sang phần trái
của thùy trước. Nguyên nhân căn bệnh này vẫn còn chưa được xác định rõ và không
ai có thể nói được tại sao cơ chế phân chia tế bào lại đột nhiên trở nên hỗn
loạn và sinh sôi vô số tổ chức trong não cô.
Mặt mũi tái nhợt, cô đặt
phim chụp vào tập hồ sơ, khoác chiếc áo da lên người rồi bước ra vườn.
Trời vẫn dễ chịu. Một
làn gió mát nhẹ xào xạc trong đám lá cây. Cô kéo khóa áo khoác da lên, ngồi
xuống một chiếc ghế tựa, rồi vắt tréo hai bàn chân lên chiếc bàn cũ kỹ bằng gỗ
tếch đã bạt màu. Cô vừa hút thuốc lá vừa ngắm nhìn mặt tiền sặc sỡ của ngôi
nhà. Với mái che bằng sắt rèn vươn cao phía trên bậc thềm, ngôi nhà có nét
giống với những ngôi nhà búp bê.
Constance cảm thấy nước
mắt dâng trào. Cô yêu xiết bao khu vườn này với cây vả, cây mận, hàng rào đinh
hương, những cây liên kiều và những cành đậu tía. Ngay từ những giây phút đầu
tiên của chuyến đi xem nhà cùng nhân viên môi giới nhà đất, thậm chí trước cả
khi bước vào trong, cô đã biết rằng đây chính là nơi cô muốn sống… và có thể
một ngày nào đó sẽ là nơi cô nuôi dạy một đứa con. Cô sẽ biến nó thành nơi trú
ngụ của mình, một chốn tránh khỏi ô nhiễm, bê tông và cơn điên cuồng của con
người.
Bị hoàn cảnh trớ trêu
dày vò, cô bật khóc nức nở. Cô hoài công tự nhủ rằng cái chết là điều không thể
tránh được và rằng đó là một phần của cuộc đời, không được buông xuôi trong sợ
hãi.
Đừng sớm như vậy chứ,
khốn nạn thật!
Không phải là lúc này…
Cô bị sặc khói thuốc.
Cô sẽ chết trong cô độc.
Như một con chó đi hoang. Không có ai nắm lấy bàn tay cô.
Hoàn cảnh lúc này với cô
dường như không có thật. Người ta thậm chí còn chưa cho cô nhập viện. Người ta
chỉ nói với cô: “Hết cách rồi. Không thể làm gì được nữa. Không hóa trị cũng
không xạ trị.” Chỉ các loại thuốc giảm đau và lời đề nghị nhập viện. Cô đã đáp
lại rằng mình sẵn sàng chiến đấu, nhưng người ta lại khiến cô hiểu ra rằng cuộc
chiến này sẽ sớm thất bại thôi. “Giờ chỉ còn là vấn đề bao nhiêu tuần thôi,
thưa cô.”
Lời chẩn đoán dứt khoát.
Không một viễn cảnh
thuyên giảm bệnh tình.
Một buổi sáng, hai tuần
trước, cô thức dậy mà thấy tê cứng đến nửa người. Thị lực giảm kèm hoa mắt, cổ
họng nghẹn lại. Cô hiểu ra rằng mình sẽ không thể dối mình trong công việc được
nữa và đã đệ đơn thôi việc.
Ngày hôm đó, cô đã thật
sự biết thế nào là sợ hãi. Từ đó, thể trạng cô thay đổi liên tục. Có lúc cả người
tê cứng hoàn toàn và cô không thể phối hợp các cử động được nữa; có lúc chứng
tê liệt bớt hành hạ giúp cô được nghỉ ngơi đôi chút mà cô biết chắc rằng đó chỉ
là ảo tưởng.
Điện thoại rung lên báo
một loạt email vừa tới hòm thư của cô. Sorbier quyết không để cô yên. Ông khăng
khăng muốn gửi cho cô hồ sơ về hai người Mỹ kia. Gần như vô thức, Constance mở
các tập tin đính kèm rồi bắt đầu đọc tài liệu. Kẻ trốn chạy tên là Sebastian
Larabee. Vợ cũ của hắn là Nikki Nikovski. Cô mất mười lăm phút chìm đắm trong bảng
tường thuật vắn tắt về hai kẻ trốn chạy rồi ngẩng phắt lên nhìn điện thoại. Như
thể bị bắt quả tang. Chẳng lẽ cô không có việc gì quan trọng hơn để làm ư?
Chẳng lẽ cô không thể tranh thủ chút thời gian ít ỏi còn lại với cô để sắp xếp
đồ đạc, thăm nom lần cuối cùng những người thân thích hoặc xem xét lại ý nghĩa
cuộc đời cô ư?
Nhảm nhí!
Cũng như nhiều cảnh sát
khác, cô rất gắn bó với nghề. Về cơ bản, căn bệnh này chẳng ảnh hưởng gì mấy
tới công việc của cô. Cô cần một liều adrênalin cuối cùng. Nhất là cô đang tìm
kiếm lối thoát khỏi nỗi sợ hãi đang bủa vây cô tứ phía.
Cô dụi điếu thuốc rồi
bước vào nhà đầy cả quyết. Mở ngăn kéo, cô cầm lấy khẩu súng công vụ vẫn chưa
trả lại, một khẩu Sig-Sauer theo đúng quy chế của Cảnh sát quốc gia. Trong khi
vuốt phần báng bằng polymer của khẩu súng lục bán tự động, cô tìm lại được cảm
giác thân thuộc và an tâm. Cô đút súng vào bao đeo, nhét thêm một băng đạn dự
phòng rồi bước ra phố.
Tuy đã trả lại xe công
vụ, nhưng cô vẫn còn chiếc xe thể thao RCZ. Chiếc siêu xe với những đường cong
sắc nét và mui hai múi cong cong đã ngốn phần lớn gia tài thừa kế từ bà cô. Khi
ngồi trước tay lại, Constance cảm thấy vô cùng do dự. Liệu cô có thể thực hiện
được một cuộc điều tra cuối cùng này không? Cô sẽ trụ vững hay sẽ suy sụp khi còn
cách đích một trăm mét, bị nỗi mệt mỏi và chứng tê liệt đánh gục? Cô nhắm mắt
lại một lúc, hít thật sâu. Rồi cô khởi động chiếc xe 200 mã lực và những nghi
ngờ của cô tan biến dần.