Một mình ở châu Âu - Chương 04
Berlin, ngày…
Oma trong
tiếng Đức có nghĩa là “bà”. Oma Marta là người quen của gia đình chồng tôi; hồi
Sơn còn làm việc ở Đức, anh đã sống với oma Marta một thời gian.
Bây giờ là 8
giờ 57 phút sáng. Phòng khách của oma Marta lúc này không một tiếng động và
được thắp sáng bởi một ngọn đèn bàn nhỏ. Tuy thế, ngoài vườn có nắng; có thể
nhìn xuyên qua rèm cửa sổ để thấy những cây phong đầy lá và hàng rào dài bằng
những bụi gai. Không nghe thấy gì nhưng tôi mường tượng được tiếng xào xạc của
lá phong trong gió. Hôm nay là đầu tháng Chín, tức là bắt đầu mùa thu rồi. Tôi
nhớ đến Omaha
và những sáng mùa thu khi tôi mới đến Mỹ; đã tám năm. Trời cũng nắng nhạt như
thế này, nhiều gió như thế này; ngày nào tôi cũng dậy sớm, đi xuyên qua công
viên đầy những cây phong xào xạc trong gió khô, luôn luôn trong tình trạng lâng
lâng vì cái quang cảnh như trong truyện cổ tích: những thảm cỏ xanh tỉa gọn
ghẽ, những luống hoa cúc đủ màu trồng theo mùa, những con quạ đen chí chóe và
lũ sóc với thỏ chạy đầy trong công viên.
Oma Marta đã
dậy từ sớm và lúc này đang làm gì đó trong vườn. Gần 7 giờ sáng, khi tôi dậy đi
toilet đã thấy oma dậy rồi. Nghe tiếng tôi, bà từ ngoài vườn đi vào hỏi tôi có
uống cà phê không. Bà nói tiếng Đức, tôi không hiểu một từ tiếng Đức nào nhưng
bà chỉ vào lọ cà phê cho tôi. Tôi cảm ơn bà và nói rằng tôi muốn ngủ thêm –
bằng cách đặt hai bàn tay xuống dưới đầu và nghiêng đầu nhắm mắt. Oma Marta
hiểu ra. Bà đi vào trong phòng khách kéo rèm cửa xuống cho tôi vì từ lúc 7 giờ
sáng, rèm cửa tự động được kéo lên. Sau đó, bà ra ngoài, đóng cửa phòng lại và
bây giờ chắc đang làm gì đó trong vườn hoặc ngồi sưởi nắng trên xích đu trước
hiên nhà với con chó Andrew. Vài phút nữa tôi sẽ ra xem oma đang làm gì và
chúng tôi sẽ uống trà. Nhưng bây giờ thì chưa. Bây giờ, tôi nằm trên sofa viết
những dòng này bởi vì it feels so damn good. Tôi muốn cố gắng sống trong giây
phút này càng lâu càng tốt.
Một ý nghĩ vừa
khiến tôi ngồi hẳn dậy để viết. Cái ý nghĩ đó là thế này: giao tiếp không lời.
Oma Marta không biết tiếng Anh và tôi không biết tiếng Đức; tất cả những gì
chúng tôi có chỉ là rất nhiều cử chỉ và những nụ cười. Đôi khi, tôi phá ra cười
vì tình trạng kì cục của hai chúng tôi: Oma đã ngoài tám mươi nên thường xuyên
quên rằng tôi không nói tiếng Đức, vậy là oma cứ nói một tràng dài gì đó, khuôn
mặt rất hào hứng chờ tôi trả lời, còn tôi thì hoàn toàn không hiểu; vậy là tôi
phải nói lại gì đó bằng tiếng Anh để có thể đoán… và khi những nỗ lực phỏng
đoán của chúng tôi đều thất bại thì tôi phá ra cười.
Ý nghĩ thứ hai
khiến tôi ngồi dậy viết những dòng này cũng liên quan đến giao tiếp và ngôn
ngữ. Cho đến nay, sau gần mười ngày ở châu Âu, có lẽ những khoảnh khắc đáng nhớ
nhất trong chuyến đi này lại là những khoảng lặng yên. Tôi chắc sẽ cần phải xem
lại ảnh và tra cứu sách mới nhớ ra các dữ kiện về các công trình kiến trúc ở
Rome, ở Berlin, ở Copenhagen, nhưng tôi chẳng cần bất cứ phương tiện trung gian
nào để nhớ lại lúc tôi nằm trên bờ bồn nước lớn ở khu trung tâm Đông Berlin cũ,
nhìn trời và thỉnh thoảng liếc trộm một đôi tình nhân đang hôn nhau say sưa.
Lúc ấy, tôi thấy hạnh phúc cho họ và hạnh phúc cho cả thế giới nữa. Cứ như thể
cả vũ trụ đang mỉm cười (giống tôi) khi thấy đôi tình nhân trẻ hôn nhau. Hay
như lúc tôi ngắm mặt trời lặn trên biển Baltic từ trong khoang tàu Scandlines
từ Copenhagen
trở lại Đức. Và như lúc này… trong phòng khách của oma Marta, nhìn ra khu vườn
đầy lá của bà, nghe nhạc một chút trước khi trở dậy ra sân bay đi Paris.
Tối hôm đó,
khi tôi từ Rostock
lên, đã muộn rồi nhưng oma vẫn làm salad cho tôi ăn tối. Bà làm rất nhanh; chỉ
có hành tây và đỗ đũa xanh đóng hộp trộn với dầu ăn, một chút muối, một chút
hạt tiêu và gia vị gì đó – nhưng rất ngon. Sau khi ăn xong, bà chỉ lên đồng hồ
và xòe ngón tay đếm bằng tiếng Đức, rồi nói “taxi” và “Schonefeld”. Ý bà nhắc
tôi là 11 giờ sáng mai, taxi sẽ đến đưa tôi ra sân bay Schonefeld đi Paris. Paris! Phải rồi, 8 giờ
tối nay tôi sẽ có mặt ở Paris
rồi. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài xem oma đang làm gì.
10:45 sáng:
Vừa ăn sáng với oma. Tôi không muốn ăn sáng và tôi nhắc đi nhắc lại “No, no”,
đồng thời lắc đầu để oma hiểu… nhưng bà lấy hết thứ này đến thứ khác khỏi tủ
lạnh và liên tục nói tiếng Đức với tôi với một vẻ mặt vô cùng hớn hở vì sẽ được
cho tôi ăn. Bà bày ra ba loại salami khác nhau, thịt lợn xông khói, mứt quả,
rồi bơ, bánh mỳ, nước quả… Khi tôi nhận ra rằng đồng ý ăn sáng còn dễ hơn là
giải thích với oma rằng tôi không muốn ăn, và việc tôi ăn sáng sẽ làm oma vui
lòng hơn nhiều lần sự lười biếng của tôi. Tôi cười, nói “yes, yes, yes” với tất
cả những thứ oma đưa cho tôi xem. Rốt cuộc, trên khay ăn sáng của tôi có đủ ba
loại Salami, thịt nguội, mứt, bơ, hai lát bánh mỳ nướng và sữa. Tôi mang khay
ra ngoài phòng sưởi nắng ngồi ăn. Còn oma, sau khi thuyết phục được tôi ăn sáng
thì vô cùng mãn nguyện đi ra ngoài vườn; bà không quên khép cửa lại. Mấy phút
sau, tôi nghe có tiếng động khe khẽ. Hóa ra oma đang cắt cỏ.
Bà di chuyển
chậm chạp; cổ tay buộc một dải băng, hình như cổ tay bà bị sưng. Tôi đi lại
gần, nói với oma để tôi cắt giùm bà – bằng cách chỉ vào tôi, rồi chỉ vào máy
cắt cỏ và ra hiệu đẩy đẩy. Nhưng oma cười, lắc đầu, chỉ xuống cỏ, rồi xuống
chân và ống quần, rồi đẩy tôi vào trong nhà. Ý oma nói cỏ ướt, tôi sẽ bị bẩn
quần và chân, bà có thể hiểu được và tôi nên lo ăn sáng đi. Tôi biết là không
thể thuyết phục được một người Đức, nhất là một người đã sống qua Thế chiến và
Chiến tranh Lạnh, đã làm chủ một cửa hàng và sống một mình nhiều năm như oma,
nên tôi quay vào bàn ăn.
Trên bàn có
một tờ báo dày có chữ Berlin, tôi đoán chắc là
thời báo Berlin…
trang đầu tiên có một tấm ảnh vệ tinh chụp cơn bão Gustav. Tôi cố gắng thử đọc
xem có hiểu gì không nhưng chỉ nhận ra vài từ như “Kubas” và “New Orleans” còn
lại thì chịu. Vừa lúc đó, oma mở cửa đi vào, tay cầm mấy bông hoa cúc trắng nhỏ
xíu. Bà lấy một bình hoa bằng xứ trắng cũng nhỏ xíu, bỏ mấy bông hoa vào rồi
đặt lên bàn ăn cho tôi. Vừa bất ngờ vừa cảm động, và vẫn còn đủ minh mẫn để nhớ
rằng mình không biết tiếng Đức, tôi làm hành động rất kỳ quặc: tôi đứng lên vỗ
tay và cười toe toét như một đứa bé. Giờ viết lại và tưởng tượng bản thân lúc
đó, tôi cũng buồn cười.
Oma Marta mỉm
cười, nói một câu gì đó có mấy từ nghe giống như “good good [13]” trong tiếng
Anh, đồng thời chỉ ra vườn. Tôi đoán bà nói rằng hoa này bà ngắt trong vườn;
tôi bất giác nói “beautiful, pretty [14]”… rồi khi nhận ra oma không hiểu, tôi
đặt tay lên tim. Hành động này thì oma hiểu; bà cười rạng rỡ.
[13] Tốt,
tốt.
[14] Đẹp
quá.
Oma Marta đã
ngồi xuống ghế, với tay bật radio rồi bắt đầu nói chuyện với tôi – bà lại quên
là tôi không nói được tiếng Đức rồi. Nhưng hình như ngay cả sau khi nhớ ra tôi
không nói tiếng Đức thì oma cũng không phiền lòng – bà chỉ cần một người để
nghe chứ không cần một người để hiểu. Bà chỉ ra cửa sổ rồi đưa tay lên xuống
nhiều lần. Tôi tưởng oma nhắc đến cái rèm cửa sổ hôm trước bị gãy rơi xuống,
nhưng rồi bà với tờ báo trên bàn và chỉ cho tôi một bức ảnh nhỏ bên dưới. Đấy
là ảnh một đám mây có mưa và chữ Berlin
với con số 23 độ C bên cạnh. Tôi nói “vâng, mưa”. Rồi bà giở sang trang sau,
nói “Paris” và
chỉ vào một bức ảnh khác. Ngày hôm nay Paris
sẽ nắng, nhiệt độ khoảng 21 độ. Tôi nói “vâng, vâng….Paris good… Paris có nắng.” Oma mỉm
cười, nói “Paris
good good.”
Trên radio lúc
đó, một giọng ca nam đang hát một bài tiếng Đức. Oma bắt đầu lẩm nhẩm theo và
nói tên của ca sĩ. Tôi không bắt được tên đầu tiên, nhưng họ thì nghe giống như
“Bjork”. Oma giải thích rằng đây là “oma musik”, nhạc của thế hệ bà, rằng bà
không nghe được cái “tekno musik” bây giờ, nó làm bà váng đầu (chỉ vào đầu),
đau cả tai (chỉ vào tai) và toàn “chat xình chát chát bùm”. Tôi cười, nói với
oma rằng đến tôi cũng còn đau đầu khi nghe “tekno music”.
Thế rồi đột
nhiên giọng Elvis Presley vang lên trên radio. Tôi không nhận ra bài hát nhưng
lập tức nhận ra giọng Elvis. Tôi nói “Elvis Presley”. Trời ơi, mặt oma sáng lên
và bà đặt một tay lên tim, nói “Elvis Presley”. Trong lúc tôi đang nghĩ ra cách
để nói rằng Elvis rất nổi tiếng ở Mỹ thì oma đã đứng dậy và bắt đầu nói rất
nhanh, hai má hồng lên, mắt lấp loáng, miệng mỉm cười. Bà nói và làm bộ cho tôi
hiểu rằng Elvis Presley rất nổi tiếng ở Đức vì từng đến đây đóng quân thời
chiến tranh và thế hệ của oma đã lớn lên trong “Elvis music” và thần tượng
Elvis.
Và rồi, trong
lúc liên tục nói tiếng Đức, oma bất thần hất đầu vừa lắc hông, xoay đầu gối và
khua tay giống hệt như các động tác lắc hông nổi tiếng một thời của Elvis. Trời
ơi, tôi không thể nhịn được cười. Tôi cười đến nỗi trượt khỏi ghế, loạng choạng
ngã xuống sàn nhà. Thật không thể tưởng tượng được: oma Marta bắt chước Elvis
Presley! Và bà nhảy đẹp! My oma, she got the moves! Lúc còn trẻ, oma hẳn là một
cô gái rất năng động và đẹp lắm. Ngay lúc này, bất chấp làn da mồi và cổ tay bị
sưng, trông bà giống như một cô gái trẻ đang swing theo nhạc Elvis, vừa cười
vừa nói tiếng Đức với tôi.
Ăn sáng xong,
tôi mang khay vào trong bếp, bỏ các đồ ăn còn lại vào tủ lạnh. Khi tôi đi ra,
oma đang đứng trong phòng với hai cuốn sách rất dày. Bà đưa cho tôi và ra hiệu
rằng bà muốn tặng tôi. Đó là hai cuốn Illiad và Odyssey – bìa cứng, bằng tiếng
Đức và Hy Lạp cổ. Bà biết tôi viết truyện và tối hôm qua đã khoe với tôi tủ
sách nhỏ của bà trên gác xép – trên đó có Cuốn Theo Chiều Gió và một ít thơ. Bà
bảo hồi Sơn sống với bà ở Berlin,
anh ở trên cái gác xép này và thường đọc sách đến khuya.
“Cậu ấy rất
hiền”, oma nói với tôi. “Lúc nào cũng đọc sách và rất ít nói. Giờ cậu ấy còn
hay đọc sách không?”
Tôi nói có,
Sơn vẫn hay đọc sách khuya. Buổi tối chúng tôi hay nằm đọc sách cạnh nhau, và
nói những chuyện vớ vẩn như:
“Anh ơi, Lao
Tsu là Lão tử, Sun Tzu làTôn tử, còn Lieh Tzu là gì nhỉ?”
(Nghĩ một lúc)
“Không biết, chắc là Lợn tử.”
Bao giờ tôi
cũng bật cười vì những câu như thế; Sơn luôn nghĩ ra những điều kỳ dị và bang
bổ nhất để nói về bất cứ ai, không chừa bất cứ một ai. Có lần tôi cười, bảo
Sơn, “Sống với anh cứ như là sống dưới một loa phóng thanh mà 24/24 toàn nghe
thấy tin xấu”. Sơn thì bảo tôi ngây thơ, nhìn cuộc đời toàn màu hồng. Hai chúng
tôi thực sự là hai thái cực. Nhưng tôi có thể tưởng tượng Sơn nằm trên cái gác
xép này đọc sách hồi anh mới hai mấy tuổi - và “rất hiền”.
Cái gì có thể
xảy ra khiến cho những con người hai mươi trở thành những con người ngoài ba
mươi nhìn cuộc đời và con người như thể không còn bất cứ cái gì thiêng liêng,
không còn bất cứ cái gì đáng tin, mọi thứ đều có thể báng bổ và “nhổ toẹt vào”?
Bernard Shaw nói “Nếu anh không theo chủ nghĩa cộng sản ở tuổi hai mươi, anh
không có tim. Nếu anh không theo chủ nghĩa tư bản ở tuổi ba mươi, anh không có
óc”. Hay những xung đột giữa tôi với Sơn đơn giản chỉ là như thế? Chúng tôi lấy
nhau khi tôi đang giữa tuổi hai mươi còn anh đã sang đến ngưỡng ba mươi? Và bây
giờ, khi tôi bắt đầu sang tuổi ba mươi, Sơn đã ở chỗ nào đó tôi không bắt kịp
còn anh thì không thể nhớ lại và thông cảm?
Tôi rất muốn
nhận sách của oma nhưng tôi còn phải đi nhiều trong ba tuần tới, mà hai cuốn
sách to và nặng. Vậy là tôi buộc phải nói với oma “danke schoen” nhưng tôi
không thể mang chúng theo lần này, có thể khi nào quay lại Berlin tôi sẽ lấy. Tôi nói bằng cách ra hiệu
tôi đang kéo va li và thở nặng nhọc, rồi xoa hai vai tôi và cúi xuống như thể
bị hai cuốn sách kéo. Oma hiểu ý; trông bà thật buồn… Oma bảo tôi cất hai cuốn
sách lên trên gác xép cho bà.
Khi tôi từ
trên gác xép xuống, taxi đã đợi bên ngoài. Ở cổng, tôi hôn vào hai má của oma
rồi lên xe. Xe đã chạy đến cuối đường mà oma vẫn còn đứng ở cổng nhìn theo. Tạm
biệt oma Marta. Tôi không biết có còn gặp lại bà hay không. Năm nay bà đã hơn
tám mươi và tôi thì không bao giờ muốn trở lại Đức. Danke schone, oma [15]!
Chúc oma mọi điều tốt lành, dù bà ở đâu, trong cuộc sống này hay cuộc sống
khác, dưới mặt đất hay trên thiên đường.
[15] Cảm
ơn (tiếng Đức).
Paris, ngày thứ nhất…
Bây giờ là nửa
đêm và tôi đang viết từ trong phòng ăn của khách sạn. Tôi đang ở Paris. Phải rồi, tôi đang
ở Paris. Tôi
vẫn không thể tin được. Cuối cùng tôi cũng đã đến Paris.
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Chiều nay, máy
bay xuống sân bay Orly
lúc 6 giờ rưỡi. Từ trên cao nhìn xuống, lúc đầu, chỉ thấy những tòa nhà cao của
khu hành chính ở ngoại ô Paris, tôi đã nghĩ đến New York, Boston hay Chicago và hơi thất vọng.
Nhưng rồi máy bay đột nhiên đảo cánh và khi máy bay lấy lại thăng bằng thì,
voilà, sông Seine đột nhiên hiện ra bên dưới
cánh máy bay. Màu xanh thủy tinh non của mặt nước và cái cách mà dòng nước uốn
khúc lững lờ quanh các khu nhà mái xám và những bóng cây dẻ… nghe thì sáo mòn
nhưng quả đúng là một giấc mơ.
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Xuống sân bay,
tôi lấy hành lí, rồi ra quầy “Information” để lấy bản đồ và hỏi cách đi tàu
điện ngầm về khách sạn ở quận Bốn. Hướng dẫn tôi là một thanh niên Pháp còn
trẻ, tóc hạt dẻ hơi xoăn, khuôn mặt thanh tú, nói tiếng anh với cách phát âm
Pháp.
“Ồ, grất dễ,
grất dễ thôi mà”, anh ta mỉm cười kết luận.
Còn tôi thì
thầm kết luận rằng anh ta “grất xinh, grất xinh”. Ước gì anh ta cứ nói nhiều
nữa vào để tôi được nghe cái cách phát âm Pháp đó nhưng anh ta đã lại mỉm cười,
kết thúc cuộc nói chuyện bằng một câu quen thuộc:
“Bienvenue à Paris!” [16]
[16] Chào
mừng tới Paris.
That’s right,
bébé! Tôi đã ở Paris.
Theo chỉ dẫn,
tôi bắt tàu Orlyval chạy từ sân bay tới ga Antony thì chuyển sang tàu RER B đi tới trạm
Châtelex, lại chuyển sang tàu đỏ chạy tới ga Gare de Lyon, rồi chuyển sang tàu
vàng chạy tới trạm Thánh Paul thì xuống [17].
[17] Sau
này tôi mới nhận ra là tôi đã đi lòng vòng rất không cần thiết.
Kéo va li lên
khỏi bến Thánh Paul, tôi thấy mình đứng trên vỉa hè phố Rue de Rivoli lúc này
tràn ngập ánh hoàng hôn cuối hè. Con phố không lớn nhưng vỉa hè rất rộng, lát
đá xám cổ. Hai bên phố là những căn nhà quét vôi vàng nhạt, cửa chính và cửa sổ
cao với những cửa sổ gác mái van vát. Ánh nắng cuối ngày thắp sáng những cửa
hàng bánh mỳ, tiệm cà phê, nhà hàng san sát dọc phố, sáng choang, thơm nức và dòng
người đi bộ như một dòng sông không ngừng, trong tình trạng chuếnh choáng, tôi
mất hết phương hướng, không biết mình nên rẽ phải hay rẽ trái để đi về khách
sạn. Nhìn quanh, tôi thấy một ông già đang đứng dựa vào một chiếc ghế dài đặt
dọc vỉa hè. Nhìn ông già, tôi lập tức nhớ tới một cụm từ mà Victor Hugo dùng
trong cuốn Những Người Khốn Khổ “một vị tư sản già sống bằng lợi tức thường
niên” - tức là một quần kaki, sơ mi trắng bên trong, áo vest thô bên ngoài, đội
một chiếc mũ bê-rê của những người già Paris, và chống một cây ba toong màu
vàng. Vì trông ông có vẻ không phải làm gì ngoài thưởng thức buổi chiều tối mùa
hè Paris, tôi
tiến tới lễ phép nói:
“Bonsoir
monsieur [18]…”
[18] Chào
ông.
Tôi mới nói
đến đây thì “vị tư sản già sống bằng lợi tức thường niên” đã lập tức nhăn mặt
và quả quyết xua tay:
“Non! Non!”
Phải. Tất cả
các sách du lịch đều đã cảnh báo tôi rằng người Paris, nhất là người già, không
ưa gì khách du lịch, nhất là khách Mỹ [19]; nhưng mà tôi rõ ràng không phải da
trắng, cũng không mặc quần soóc, áo phông, đi giày thể thao, bụng không có mỡ
chảy xệ, và tôi cũng không có “chỉ trỏ cười nói thô bỉ” như nhiều du khách Mỹ.
Tôi sốc đến nỗi thành thật là tôi đã rơm rớm nước mắt, đồng thời muốn thụi cho
vị tư sản già một quả vào bụng. Sao mà tôi lại ngu xuẩn và ngây thơ đến mức tin
rằng tôi có thể đến Paris
một mình và đinh ninh rằng thành phố này có một chỗ dành cho tôi. Có lẽ Paris mà tôi mơ tưởng, Paris của Hugo đã chết từ lâu rồi. Nghĩ thế,
tôi lùi ra một quãng và cố thở đều để lấy lại tinh thần rồi giở bản đồ với
quyết tâm sẽ tự tìm lấy đường về khách sạn thay vì trông chờ vào lòng tốt của
dân Paris hoa
hòe hoa sói.
[19] Cũng
không thể trách họ vì mỗi năm, Paris đón tới hơn 40 triệu khách du lịch, khiến
cho thành phố trở nên quá chật chội bởi khách du lịch.
Chắc trông tôi
loay hoay với cái bản đồ rất tội nghiệp và hẳn đã thấy tôi rơm rớm nước mắt nên
Bụt lập tức hiện ra – dĩ nhiên là dưới vỏ bọc một quý bà Paris ngoài sáu mươi tuổi, vô cùng thanh
lịch. Đây hẳn là người phụ nữ đẹp lão nhất mà tôi từng gặp: nước da bà trắng
mịn, khuôn mặt thanh tú, tóc bạch kim, vấn cao, bà mặc bộ Chanel cổ điển màu
sữa, tay đeo một cái túi da màu đen, quấn khăn hoa nhỏ quanh cổ và mang nước
hoa rất nhẹ. Bà đã đi ngang qua tôi, rồi được vài bước bà quay lại, nói bằng
tiếng Anh:
“Mademoiselle,
cô tìm gì?”
Rút kinh
nghiệm từ vị tư sản già, tôi lập tức “merci beaucoup” trước và trình bày rằng
thưa madam, cháu cần phải về khách sạn trên phố Rue des Barres. Nói thật là lúc
đó tôi nghĩ đến khách sạn thì ít mà ngỡ ngàng vì lần đầu đối diện với “vẻ đẹp
phụ nữ Paris”
thì nhiều. Trong lúc tôi ngỡ ngàng vì bà (tôi xin gọi là Grand Dame cho dễ) thì
bà cũng ngỡ ngàng không biết Rue des Barres nằm ở đâu. Tôi lại “merci beaucoup”
và chờ Grand Dame trả lại tờ giấy đặt khách sạn cho tôi nhưng, Chúa phù hộ bà,
bà đã bước lại phía vị tư sản già lúc nãy để trao đổi gì đó bằng tiếng Pháp.
Nhìn bộ dạng thì rõ ràng vị tư sản già cũng không biết phố Rue dei Barres ở đâu
và cũng không niềm nở gì với Grand Dame của tôi. Không nản lòng, Grand Dame lại
đi hẳn vào trong tiệm bánh ngọt gần đó để hỏi (Trời phật phù hộ cho bà và các
con cháu chín đời của bà!) Hai phút sau, bà quay lại với khuôn mặt thất vọng.
“Sorry
mademoiselle,” bà nói, “không ai biết phố Rue des Barres ở đâu cả.”
Thật may là
lúc ở sân bay, tôi đã tìm ra phố này trên bản đồ, tôi chỉ không biết nó nằm bên
trái hay bên phải chỗ tôi đứng. Vậy là tôi chỉ nó cho Grand Dame trên bản đồ.
“Voilà!” bà
mỉm cười rạng rỡ. “Thế thì tôi biết rồi.”
Bà bảo tôi đi
về phía bên trái, cứ dọc theo Rue de Rivoli cho tới khi gặp Rue Louis Phillipe
thì rẽ trái.
Cuối cùng thì
tôi cũng tìm tới Rue des Barres. Trời ơi, thật không thể tin; con phố chỉ dài
chừng 100 mét, nằm giữa Rue Miron và một đại lộ dài chạy phía bên kia. Phải,
người ta đã nói Paris là thành phố đi bộ; và tôi
đã thuộc cả những trang mô tả các ngõ nhỏ Paris
lúc Giăng Van Giăng đưa Cô-dét chạy trốn Gia-ve, nhưng mà những đường phố của Paris thực sự có thể nhỏ
và đẹp đến mức này thì không ngờ.
Ở sân bay
Schonefeld, chuẩn bị đi Pari, tôi đã tra và tìm ra phố Rue des Barres trên bản
đồ.
Sau khi check
in, tôi đi một cái thang máy bé tí xíu lên phòng của tôi ở tầng ba. Tầng nhà ở
đây đánh số từ 0 nên thực chất là tôi ở độ cao của tầng bốn. Căn phòng tôi ở là
phòng cho bốn người; chỉ chừng hai mươi mét vuông với hai giường tầng, một bồn
rửa và nhà tắm nhỏ… và lúc đó chưa có ai. Tôi bỏ va li vào trong hốc tường, lựa
một cái giường tầng trên rồi mở cửa sổ ra và phải cố gắng lắm mới không hét lên…
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Ngay ngoài cửa
sổ, cách khoảng ba mét, là tháp chuông một nhà thơ Gothic cổ kính; tưởng như
chỉ cần với tay ra là chạm được vào những cái đầu thú. Thắng từ cửa sổ phòng
xuống mặt đất là một khoảng sân rộng lát gạch cổ theo vòng tròn, ở đó các bàn
cà phê lúc này chật người ngồi ăn tối. Tôi có thể nghe rõ tiếng trò chuyện
giọng Pháp, tiếng thìa dĩa chạm vào nhau và tiếng lanh canh của các ly rượu.
Nhìn ra xa, các nóc nhà Paris thấp đều nhau, kiến trúc Pháp đặc trưng, mái xám,
những cửa sổ cao, tường sơn vàng nhạt, tầng gác mái hơi vát… và xa hơn nữa là một
cái tháp nhọn quen thuộc, cộng với một mái vòm tròn khả nghi. Có lẽ nào tôi
đang nhìn thấy tháp nhọn phía sau của nhà thờ Đức Bà và mái vòm của đền
Pantheon? Không thể như thế được… nhưng mà rõ ràng…
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Tôi cuống
cuồng tắm gội, thay quần áo để ra ngoài ăn tối vì sợ rằng các nhà hàng sẽ đóng
cửa sau 10 giờ như ở Mỹ. Ra khỏi khách sạn 9 giờ 45 phút tối, tôi rẽ trái đi về
phía có tháp nhọn khả nghi, cũng là phía có mấy nhà hàng mà tôi nhìn thấy từ
trên cửa số. Đi mấy bước chân đã tới con đường dài chạy dọc một bờ tường và
phía bên kia là một cái cầu bê tông hơi vòng lên. Nhưng mà cầu bắc qua cái gì?
Sông Seine? Không đời nào?
Không cưỡng
được tò mò, và quên cả nhiệm vụ đi tìm bữa tối, tôi băng qua đường để tiến tới
gần. Vừa qua khỏi đường, tôi vội đưa mắt nhìn xuống phía dưới.
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Đúng là sông Seine!
La Seine!
Thật không thể
tin mình đang ở Paris, đang đứng đây mà nhìn
xuống sông Seine. Paris đang vào đêm sâu. Mặt nước trong bóng
tối lấp lánh ánh đèn vàng của những căn nhà hai bên sông và những đèn ánh sáng
chạy dọc con đường đi bộ sát mép nước. Trong cái tĩnh lặng của buổi đêm, có cảm
giác sông Seine đang chảy cho một mình tôi, để
chào mừng tôi. Những hàng dương liễu dưới sông thì thầm rằng chúng đã luôn chờ
tôi tới.
Tôi đừng đó
không biết bao lâu mà tim vẫn đập thình thịch và không ngừng lẩm bẩm “Xin chào,
xin chào, tôi đây, tôi đây!”
Thật không thể
tin được.
Nhưng sau
cùng, những thói quen sống cũng tóm được tôi và chúng bảo tôi phải nhanh chân
tìm chỗ ăn tối trước khi các nhà hàng đóng cửa và tôi phải đi ngủ đói. Vậy là
tôi băng ngược trở lại bên kia, đi theo con đường dọc sông. Chỉ cách vài bước
chân, tòa nhà Hôtel de Ville [20] sừng sững hiện ra. Trước quảng trường nhỏ của
Hôtel de Ville, tôi nhìn sang bên trái và lại thấy một cái tháp khả nghi mà tôi
đã thấy ở cửa sổ. Tôi rất muốn tới xem có phải Nhà thờ Đức Bà không; nhưng rồi
tự nhủ rằng tối hôm nay tôi đã thấy quá nhiều. Vậy là tôi rẽ vào một quán Nhật,
gọi bữa tối đầu tiên ở Paris
gồm có sáu miếng sushi cá hồi và nấm xào thịt nướng với pho mát. Sau đó, tôi đi
bộ trở lại khách sạn.
[20] Tòa
Thị chính Paris.
Đã gần nửa đêm
nhưng các nhà hàng dọc đường về và cả hai cái nhà hàng ở khoảng sân cạnh khách
sạn vẫn đông người ngồi ăn như thể buổi tối chỉ mới bắt đầu và Paris sẽ không bao giờ đi ngủ. Trong phòng
khách sạn, người bạn cùng phòng đầu tiên của tôi đã tới: một cô gái trọc đầu
đang nằm ngủ sấp mặt trên giường tầng phía đối diện tôi: chăn đắp ngang lưng,
chỉ để hở hai cánh tay và phần gáy có rất nhiều hình xăm. Tôi rửa mặt, đánh
răng, thay quần áo, rồi xuống nhà. Lobby dưới tầng một tối đèn, chỉ có một
người lễ tân da đen đang ngủ ngồi trên ghế bành sau quầy (và ngáy rất to). Mặc
dù tôi đi rất khẽ, anh ta vẫn tỉnh dậy “bon soir”. Tôi không nhịn được mà hỏi
cái tháp chuông… cái tháp chuông phía bên kia sông Senie…, anh ta nói “Oui, the
Notre Dame [21]”, rồi cười toe toét khi thấy tôi nhảy cẫng lên.
[21] Đúng
rồi, Nhà thờ Đức Bà.

