Một mình ở châu Âu - Chương 05

“Oh man, tôi
không thể tin được.”

“Tin đi,
mademoiselle,” anh ta cười to, rồi lấy bản đồ chỉ cho tôi thấy. Phải, phải, tôi
chỉ ở cách bảo tàng Louvre chừng mười lăm phút đi bộ, cứ đi dọc Rivoli là tới,
vườn Tuileries thì ở kế bên bảo tàng và ngay đó là khu Coocotes đại lộ Champs –
Elysees và Khải Hoàn Môn; còn Pompidou ngay phía bên kia phố Rivoli; khu Latin
thì cứ đi bộ dọc đại lộ thánh Michel là tới… đền Pantheon thì ở ngay gần vườn
Luxembourg… “Phải rồi, mademoiselle, vườn Luxembourg… mademoiselle,
mademoiselle, cô có nghe thấy tôi nói không?”

Tôi trả 2 euro
để vào internet được hai mươi lăm phút từ cái máy tính dưới quầy và e-mail cho
Sơn. Em đã đến Paris.
Mọi việc đều ổn.

Paris, ngày…

Suốt cả đêm
qua tôi đã để cửa sổ mở để lấy không khí bên ngoài và nằm mơ màng nghe những tiếng
giày vọng lên từ dưới phố. Sáng nay, khi mở mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, những nóc
nhà xám của Paris và đám lá thường xuân mướt mát
xòa từ tường nhà vào bậu cửa lại một lần nữa làm tôi chuếnh choáng, và không
sao nhập được vào đầu cái ý nghĩ tôi đang ở Paris. Nhưng rồi, tiếng thở nặng nhọc của cô
bạn đầu trọc ở giường dưới đã giúp tôi có được niềm tin này. Hé đầu nhìn ra,
tôi thấy cô ấy vẫn nằm úp sấp đúng tư thế đêm hôm qua và đúng chỗ cũ, không xê
dịch một xăng-ti-met; hình như cô ấy không trở mình cả đêm, dù chỉ một lần. Hẳn
là người bạn cùng phòng của tôi vừa đi một chuyến rất xa và mệt. Đêm qua, khi
nhìn thấy người bạn đầu trọc người đầy hình xăm này, tôi có hơi lo lắng. Tôi đã
đi ngủ với ý nghĩ: trời ơi nhỡ cô gái này là sát thủ giết người hàng loạt, nửa
đêm cô ta sẽ chồm dậy, dí dao vào cổ mình thì sao? Hoặc cô ta là dạng psycho
đang bỏ nhà đi bụi, cô ta cũng sẽ chồm dậy… Nếu phải chết vào đêm đầu tiên ở Paris thì thật là…

Nhưng giờ, tôi
vẫn còn nguyên đây và người bạn cùng phòng vẫn đang úp mặt ngủ. Tôi sẽ để cho
cô ấy ngủ tiếp, còn tôi thì phải xuống nhà ăn sáng để còn ra ngoài Paris.

Qua cửa sổ,
sáng nay Paris
nhiều mây xám, trông như sắp mưa. Gió thổi mạnh, lay những hàng cây dọc sông Seine và khiến những người đi bộ bên ngoài đều dựng cổ
áo, rảo bước. Nhìn họ, tôi cũng muốn nhanh chóng ăn xong bữa sáng để ra ngoài.
Khách sạn này cho mỗi người một bữa sáng miễn phí gồm một cái croissant, nửa
cái bánh mì dài baguette, một cốc nước cam, một phần bơ, một phần mứt quả, và
một cốc nước để rót cà phê hoặc chocolate nóng. Tôi chọn chocolate nóng, bỏ lại
cái baguette. Mặc dù không có thói quen ăn sáng, nhưng biết hôm nay sẽ đi bộ
nhiều nên tôi cũng cố ăn hết cái croissant và uống cạn cốc chocolate.

Tôi cẩn thận
đội mũ, quấn khăn, và mang theo một chiếc ô nhỏ. Ở quầy tiếp tân, anh chàng da
đen trực đêm tối qua nhận ra tôi nên toe toét cười:

“Bonjour,
mademoiselle. Hôm nay cô sẽ đi đâu?”

“Nhà Victor
Hugo,” Tôi nói.

“Trés bien…
chúc cô một ngày tốt lành.”

Trong rất
nhiều ý nghĩa, Paris
với tôi trước hết là thành phố Victor Hugo và có Victor Hugo. Trước khi tới Paris tôi đã dự định sẽ dành buổi sáng đầu tiên ở Paris để đi đến căn nhà
mà Hugo đã sống cùng vợ trong mười sáu năm. Căn nhà nằm ở khu Place de Vosges
tại quận Bốn, cách khách sạn không xa.

Nhưng tôi ra
khỏi cửa được vài bước, tôi đứng lại, rồi cứ từ từ quay đầu hướng về phía Nhà
thờ Đức Bà Paris. Tôi đã không thể cưỡng lại, như thể có một bàn tay vô hình
nào đó dẫn dắt. Vậy là tôi đi dọc con đường bờ sông, băng qua cây cầu trước cửa
Hôtel de Ville để tới Nhà thờ Đức Bà.

Từ bên ngoài
và từ đằng trước, Nhà thờ Đức Bà không mấy ấn tượng. Hai tháp chuông và mặt
tiền của nhà thờ có một vẻ trần trụi không ăn khớp với tưởng tượng của tôi; do
thế trông lại khang trang, sáng sủa đáng thất vọng do màu vôi sáng. Thêm vào
đó, từ sớm và trời tuy lất phất mưa nhưng rất nhiều khách du lịch đã xếp hàng
và ngồi khắp quảng trường phía trước nhà thờ - tất cả đều toach toách làm dáng
để chụp ảnh khiến cho toàn bộ tưởng tượng mấy chục năm nay của tôi về Nhà thờ
Đức Bà cứ bị những cái chớp máy ảnh và những nụ cười nhiếp ảnh xé nát.

Trong nhà thờ
hơi tối. Ánh sáng dường như chủ yếu có mục đích làm nền cho hàng cửa sổ kính
màu ở trên cao, còn bên dưới, những khuôn mặt làm người chìm vào bóng tối và sự
chờn vờn của những ánh nến thắp dọc hành lang. Đột nhiên, Paris bên ngoài không còn tồn tại. Xung
quanh, những người khách du lịch đi lại rón rén; một số khác gục xuống những
hàng ghế cầu nguyện; tiếng thì thầm của khách và những tiếng cầu nguyện cùng
với tiếng bước chân ầm ầm dưới những mái vòm cao khiến cả nhà thờ có không khí
của một nhà nguyện Trung cổ. Tôi ngồi xuống một hàng ghế gần một cây cao. Càng
ngồi, tôi càng chìm dần vào một cảm giác quen thuộc như thể tôi không phải
khách du lịch ở đây; tôi là một người quen ghé lại căn nhà cũ, nơi người chú mà
tôi từng thân thiết đã chuyển đi từ lâu nhưng cũng có thể bất thình lình ghé
lại ngồi xuống cạnh tôi: “Xin chào, đã lâu quá rồi phải không?”.

Sáng nay, khi
đi ngang cây cầu phía trước Hôtel de Ville và nhìn sông Seine lần đầu dưới ánh
sáng ban ngày, tôi cũng có cảm giác đúng như thế. Rằng bất thần, khi tôi đứng
nhìn Paris trong thời tiết xe lạnh và hơi xám, với những ngôi nhà trầm mặc đứng
dọc hai bên bờ sông và những hàng liễu rủ dưới kè sông, có thể nhà cách mạng
già trong Chín mươi ba, hay một thanh niên Sorbonne trong nhóm bạn ABC, mà cũng
có thể người đàn ông cầm ô mặc áo vest đen trong bức “Paris trời mưa” của
Gustave Caillebotte [22] sẽ đến đứng gần tôi mà thì thầm “ Xin chào, đã lâu quá
rồi phải không?”

Phải, đã lâu
quá rồi.

[22] Họa sĩ
người Pháp, thuộc trường phái ấn tượng
.

Rời khỏi Nhà
thờ Đức Bà, tôi đi dọc con đường chạy ngang mặt nhà thờ, băng qua đại lộ chạy
dọc bên kia sông Seine, rẽ trái, và bắt đầu lạc vào một mê lộ những con đường
nhỏ mang không khí phố cổ Hà Nội, chỉ có điều là kiến trúc Pháp hoàn toàn sạch,
đẹp hơn nhiều. Tôi cố gắng nhớ tên Rue nọ Rue kia để xem tôi đã đọc thấy chúng
trong sách chưa, nhưng nhanh chóng đầu hàng vì quá nhiều đường phải nhớ, quá
nhiều thứ phải nhìn… Sau một lúc, tôi hoàn toàn lạc đường, nhưng hoàn toàn hạnh
phúc. Tôi đang ở trong khu Latin – khu vực bao quanh Đại học Sorbonne ngày xưa,
trung tâm của Paris
cổ. Khắp nơi tôi nhìn, những quán cà phê san sát, những cái bàn nhỏ và ghế đặt
từng đôi dọc vỉa hè, và khách ngồi ngập các quán, uống cà phê trong những cái
chén nhỏ xíu khác hẳn ở Mỹ, và hút thuốc và nói chuyện như thể họ có tất cả
thời gian trên đời. Và tôi phải công nhận, người Paris đẹp, ít nhất là ở khu Latin này.

Bây giờ thì
tôi đang ngồi trong nhà hàng của vườn Luxembourg, gần lối vào từ đại lộ
Thánh Michel. Nhà hàng ở ngoài trời, hầu hết bàn được đặt dưới những bóng cây,
có dù che nhưng lúc này các cây dù đều được cụp lại. Người bồi bàn vừa mang bữa
trưa của tôi ra. Bữa trưa có thịt bò bourguignon [23], mấy củ khoai tây luộc
còn để nguyên cả củ, và hai lát bánh mì trắng cùng một miếng bơ. Lúc này, mặt
trời đột nhiên ló ra sau những đám mây và một cơn gió nhẹ thổi xuyên qua những
hàng cây cổ thụ xanh lá, đuổi cát và lá khô chạy thành một cơn sóng dưới mặt
đất. Ánh nắng chiếu qua những tán lá rộng đung đưa, làm cho những bóng nắng
dưới đất liên tục nhảy múa. Một ngày mùa thu tuyệt vời. Tôi tháo khăn khỏi cổ,
và ngồi đó ăn bữa trưa đơn giản, một mình giữa những người Paris xa lạ mà hạnh phúc không sao tưởng nổi.
Tôi xắt những củ khoai tây mềm thành những miếng nhỏ, tưởng như đang xắn vào
những khối hạnh phúc, rồi nhúng chúng vào nước xốt thịt bò hầm và để cho những
miếng hạnh phúc tơi trong miệng thành triệu triệu hạt sung sướng.

[23] Thịt
bò hầm với rượu vang, một món truyền thống của Pháp.

Lúc này, trong
nhà hàng cũng như trong vườn có rất nhiều người. Một số ngồi trên những chiếc
ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sách (và nhìn bìa sách thì có thể đoán
chúng là sách triết học, khoa học, thơ, tiểu thuyết nghiêm túc chứ không phải
loại sách đọc giải trí mà người Mỹ hay mang ra công viên hoặc bãi biển đọc
trong lúc tắm nắng). Một số người đang hí hoáy viết trên những cuốn sổ nhỏ; một
số thì cưỡi lừa (không hiểu lừa ở đâu ra); một số chơi tennis hoặc cầu lông;
những ông già thì chơi cờ dưới một cái nhà bát giác có mái. Quanh bồn nước lớn,
những đứa trẻ nặn cát; nghịch nước, đua thuyền buồm; những người cha vừa ăn
trưa vừa tỉ tê nói chuyện với con; những đôi vợ chồng già thì ngồi yên lặng
cạnh nhau, mặt cùng hướng về mặt trời. Rất đông thanh niên trẻ, chắc từ trường
Đại học Sorbonne và các trường Đại học quanh đây – họ ngồi từng nhóm cười đùa,
nói chuyện và hút thuốc trong lúc mấy đứa trẻ cứ đạp vòng vòng quanh bồn nước…
như thể Paris đã tiếp diễn thế này từ thế kỷ XVIII, XIX… và thời gian cứ thế
trôi…

Sau bữa trưa,
tôi đi loanh quanh trong vườn, ghé chỗ này một tí, chỗ kia một tí, xem các ông
già ném bi sắt, nghe lỏm những câu chuyện tiếng Pháp tôi không hiểu chỉ để mà
nghe, ngắm những dáng người ngồi yên lặng trong vườn… rồi khi cảm thấy rằng tôi
cần để dành vườn Luxembourg cho những lần tới nữa thì tôi ra khỏi vườn bằng
cổng trên phố Rue de Vaugirard, tôi nghe lỏm được câu chuyện tiếng Anh của hai
phụ nữ Mỹ; họ vừa tra bản đồ vừa bàn nhau cách đi tới tháp Eiffel rồi bước đi
quả quyết. Vậy là tôi đi theo bọn họ, nhưng chẳng mấy chốc, tôi mất dấu vì họ
bước quá nhanh và cứ theo đúng chỉ dẫn mà đi, còn tôi thì cứ la cà nhìn hết cái
nọ cái kia trên phố… và ngẩn ngơ như một kẻ dở hơi.

Ở góc giữa
Boulevard Raspail và Rue de Babylone, tôi nhìn thấy một cô gái trẻ mảnh mai,
tóc hạt dẻ rối bời đang úp mặt vào tường, hai tay che mặt khóc nức nở một cách
hồn nhiên. Có cái gì đó rất Paris trong cảnh này
– một sự bồng bột, bốc đồng, và hồn nhiên Paris
mà tôi không nghĩ mình có thể gặp ở Mỹ, Đức hay Việt Nam. Những người Paris khác đi qua cô gái với vẻ thản nhiên
như thể họ thấy điều đó quá thường xuyên; trong khi đó tôi và hai người phụ nữ
Mỹ thì không sao thản nhiên được. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cùng bước lại
phía cô gái. Người già hơn trong số hai người kia hỏi cô gái bằng tiếng Pháp:

“Cô có làm sao
không? Chúng tôi có thể giúp gì cho cô không?”

Cô gái quay
lại nói: “Non non merci” nhưng liền đó tuôn ra một tràng dài tiếng Pháp. Cô
tiếp tục khoa tay và hồn nhiên kể qua hàng nước mắt một câu chuyện gì đó với
hai người phụ nữ kia; câu chuyện có vẻ liên quan đến một người bạn trai đã làm
cô đau lòng. Ngay cả trong lúc khóc nức nở, hai má đầm đìa nước, mặt hồng lên
vì kích động, và tóc tả tơi, trông cô gái Paris
này quá quyến rũ. Tôi không hiểu chàng trai nào làm cô đau lòng đến thế. Nếu
tôi là đàn ông, tôi sẽ ôm lấy cô mà an ủi. Thực ra lúc này tôi cũng muốn làm
việc như vậy nhưng tôi để phần đó cho hai người phụ nữ đứng tuổi.

Trên phố Rue
de Bac, tôi dừng lại mua một cái thẻ điện thoại, nhưng lý do lớn hơn là để
chiêm ngưỡng cái sạp báo và tạp chí nhỏ giữa đường; ở đó báo và tạp chí được
sắp xếp như một công trình nghệ thuật sắp đặt hoàn hảo; nhưng tuyệt nhất là cái
cách người đàn ông bán báo đứng tuổi ăn mặc chỉn chu, đeo cà vạt, xức nước hoa
trong lúc bán báo, và luôn miệng nói chuyện với những người khách ghé vào mua
báo như thể họ đã quen nhau lâu lắm rồi và câu chuyện họ nói là một câu chuyện
vĩnh cửu. Tôi đứng đó nghe cái dòng đối thoại liên tu bất tận mà tôi chỉ hiểu
vài chữ lõm bõm “Oui”, “D’accord”, “Voilà”, xen những tiếng cười và những cái
vung tay. Trên phố Rue de Varenne, tôi đứng lại ở những cửa hàng bánh ngọt đế
ngắm những cái bánh đẹp đến mức khó tưởng tượng là người ta nỡ ăn chúng, rồi
không dừng được mà mua một cái tiramisu và tiếp tục ngẩn ngơ nhìn người chủ cửa
hàng cẩn thận cho vào trong một hộp giấy nhỏ, thắt một chiếc nơ bên ngoài, rồi
bỏ vào một cái túi giấy cho tôi.

Chao ôi là sự
công phu và kiều diễm trong từng chi tiết của cái đời sống Paris. Cái tinh thần lãng mạn Paris không nằm
trong sự bay bổng của tình yêu hay trong nghệ thuật, mà mấu chốt của nó là ở
niềm tin chắc chắn của người Paris rằng cái đẹp cần thiết cho cuộc sống, và
người Paris theo đuổi cái đẹp ấy với sự kiện định như người Mỹ theo đuổi thực
dụng, hoặc người Việt Nam theo đuổi… thực sự thì tôi không chắc người Việt Nam
theo đuổi cái gì.

Tôi lại bắt
đầu lẫn đường. Tháp Eiffel có vẻ ngay trước mặt mà đi mãi không tới. Hai sinh
viên Mỹ đến từ Philadelphia
thấy tôi loay hoay giở bản đồ ra tra thì hỏi thăm và bảo với tôi rằng tôi đã đi
sai đường nhưng gần đây có bảo tàng Rodin. Vậy là tôi một lần nữa bỏ dở kế
hoạch tới tháp Eiffel để rẽ vào bảo tàng Rodin và một lần nữa, lại chuếnh
choáng say sưa vì tượng.

Rời khỏi bảo
tàng Rodin lúc 4 giờ chiều, tôi đi ra đại lộ Invalides. Ngày đang bắt đầu tàn;
tôi ngồi trên bờ tường thấp xung quanh điện Invalides ăn cái tiramisu dưới ánh
nắng ấm của ngày đầu thu. Trước mặt tôi là đường Tocqueville và sau lưng tôi là
điện Invalides – nơi chứa hài cốt của một số nhà cách mạng và những người anh
hùng đã hy sinh vì nước Pháp, bao gồm cả Napolêon. Tôi nghĩ đến cuốn Dân chủ
của Tocqueville và hiểu chính là ở Paris
chứ không ở đâu khác mới có thể khởi đầu cuộc đại cách mạng tư sản, mới có
những nhà triết học, nhà chính trị, nhà văn, và tư tưởng như Tocqueville, Hugo,
Zola… Paris cho
họ tinh thần để làm điều đó.

Thật may mắn
khi tôi được ở Paris
vào lúc này.

Vào lúc này
không có bất cứ thứ gì khác mà tôi cần làm ngoài việc nằm trên bờ tường thấp
này, nhìn lên trời, và để cho nắng cuối ngày, và những cơn gió nhẹ, và Paris, ngấm vào tôi.

Trở về phòng
sau ngày đầu tiên, tôi thấy cô gái đầu trọc vẫn đang nằm trên giường y như đêm
qua và sáng nay. Có điều, cô ấy không ngủ. Khi thấy tôi, cô ấy nói “Bon soir”,
rồi cười. Vậy là chúng tôi làm quen. Fracesca không nói tiếng Anh, còn tôi thì
không biết ngoại ngữ nào khác ngoài tiếng Anh. Cuộc nói chuyện lộn xộn tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý bồi của chúng tôi diễn ra thế này:

Fracesca: “You
name?”

Tôi: “Ruby
[24]. And you?”

[24] Nếu
bạn ở Mỹ lâu và đã chán việc cứ phải đánh vần tên tiếng Việt của bạn khi người
ta hỏi bạn tên gì, thì bạn cũng sẽ như tôi chọn một cái tên tiếng Anh để trả
lời những người xa lạ.

Fracesca:
“Francesca.”

Tôi: “You
work?”

Francesca:
“Nurse. You?”

Tôi:
“Etudiant.”

Francesca:
“Ah, where you from?”

Tôi: “America. Where
you from?”

Francesca: “Milan. You how old?”

Tôi: “30. You
how old?”

Francesca:
“33” (giơ ba ngón tay ra hai lần) [25]

Sau đó, chúng
tôi kể xem ngày hôm nay chúng tôi đã làm những gì.

[25] Tên
gì? Ruby, còn chị? Francesca. Chị làm gì? Y tá, còn chị? Sinh viên? À, chị từ
đâu tới? Mỹ, chị thì sao? Milan,
chị bao nhiêu tuổi? 30, còn chị? 33.

Francesca: “Me
go Montmartre. Where you go?”

Tôi: “Notre
Dame, Pantheon, Rodin
Museum, Invalides.”

Francesca:
“Ah, beaucoup. Bien.”

Tôi: “Yes,
beaucoup walking.”

Francesca:
“Huh?”

Tôi: “Beaucoup
walking… walking… đi bộ” (lấy hai ngón tay làm động tác đi bộ trên mặt bàn).

Francesca:
“Ah…”

Tôi: “Chị làm
gì… hừm… tôi, Notre Dame, Muser Rodin… nhìn, ngắm nhìn (mắt lơ láo nhìn lên
trần nhà và quanh phòng)… chị thì sao? Shopping?”

Francesca:
“Ah, non non… Tôi, nhà thờ Sacré-Coeur.”

Tôi: “Bảo tàng
Salvador Dali [26]?”

[26] Bảo
tàng trong cùng khu đồi Montmartre, cạnh nhà
thờ Sacré-Coeur.

Francesca:
“Non non… vẽ… vẽ chân dung… tôi chân dung…”

Tôi: “Chị chân
dung? Ở Montmatre?” (Tôi tưởng là chị ấy tới Montmartre
và để cho các nghệ sĩ đường phố vẽ chân dung.)

Francesca:
“Non, ở Italy…
tôi bức tranh.”

Tôi: “Chị bức
tranh?”

Francesca:
“Yes, tôi bức tranh.”

Khổ quá, ý
Francesca là ở Milan,
chị ấy cũng vẽ tranh. Chúng tôi tiếp tục nói chuyện theo cách đó – lẫn lộn
tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý bồi và rất nhiều cử chỉ. Thế nào mà chúng tôi
cũng kể được cho nhau nghe xem mình có mấy anh chị em (Francesca có một chị gái
đang có một đứa con chín tháng tuổi). Tôi hỏi Francesca chị đã ăn tối chưa (lấy
tay và vào miệng); Francesca nói ăn rồi và hỏi tôi ăn chưa. Tôi nói “non non,
no dinner”; chị mở túi đưa cho tôi hai cái bánh cam.

Chúng tôi đang
ăn bánh thì cửa phòng bật mở toang và một cô gái Hàn Quốc khệ nệ lôi hai cái va
li lớn vào phòng. Thấy chúng tôi, cô gái vừa cười vừa thả cho hai cái va li rơi
xuống sàn. Đấy là một cô gái Hàn quốc điển hình: tóc dài ép thẳng; mặt trang
điểm như sứ trắng, trông hiền lành. Cô gái ngồi phịch xuống một giường còn
trống, tự giới thiệu mình tên là Julia. Vậy là chúng tôi bắt đầu một cuộc nói
chuyện tay ba trong đó Francesca bập bõm tiếng Pháp, Julia nói một ít tiếng Anh
còn tôi nói tiếng Anh với một vài từ tiếng Pháp. Thế mà chúng tôi vẫn nói được
đủ thứ chuyện phiếm, như chuyện diễn viên và cầu thủ ưa thích. Francesca thích
Al Pacino và Robert de Niro. Julia thì thích Brad Pitt và Orlando Bloom. Tôi
tranh thủ nói với Francesca về sự hâm mộ của người Việt Nam một thời
với bóng đá Ý, nhất là Roberto Baggio.

Tôi: “Roberto
Baggio. World Cup. On television. Baggio đẹp trai. Vietnam like Baggio.”

Francesca:
“Baggio đẹp trai? No no. Baggio no đẹp trai.”

Tôi: “Baggio
no đẹp trai? Nhưng Baggio football bien. Très bien.”

Francesca:
“Oui, Baggio football bien. Nhưng I love you non Roberto Baggio. I love you non
noir hair (chỉ vào tóc). No Europe sud. No
Mediteranian.”

Ý Francesca là
Roberto Baggio đá bóng hay thật nhưng mà không đẹp trai; chị ấy không thích
Roberto Baggio; chị ấy không thích đàn ông tóc đen và bóng nhẫy như đàn ông Nam
Âu hay đàn ông ở vùng Địa Trung Hải. Tôi dịch lại cho Julia hiểu.

Julia (quay
sang Francesca): “What you like [27]?”

[27] Chị
thích kiểu gì?

Francesca: “Me
like hair blonde (chỉ vào tóc). Me like eye blue (chỉ vào mắt). Nord Europe,
Switzeland. Sweden.”

Vậy là
Francesca thích đàn ông Bắc Âu tóc vàng mắt xanh. Ví dụ đàn ông Thụy Sĩ hay
Thụy Điển. Đến đây, như mọi cuộc nói chuyện giữa các cô gái, câu chuyện quay về
tình yêu và hôn nhân.

Francesca (hỏi
tôi): “You boy [28]?”

[28] Em,
con trai?

Tôi: “Huh?”

Francesca:
“You boy?... hmm… boyfriend? You boyfriend? [29]”

[29] Em,
con trai? Hửm… bạn trai. Em, bạn trai? Có bạn trai?

Tôi: “Ah, boyfriend,
me no boyfriend. Me husband… Husband in America [30].”

[30] À,
bạn trai. Không, em không bạn trai. Em có chồng… chồng đang ở Mỹ.

Julia: “Wow…
You husband? You young [31].”

[31] Wow,
em có chồng? Em trẻ.

Tôi: “Me
young? No no, me no young. Me 30. Francesca 33. You how old?[32]”

[32] Em
trẻ? Không không, em không trẻ. Em 30. Francesca 33. Chị bao tuổi?

Julia (phá lên
cười, lấy tay che miệng): “No no, me not tell [33].”

[33] Không
không, chị không nói đâu.

Julia dứt
khoát không chịu nói tuổi (nhưng tôi đoán ít nhất cũng bằng Francesca).

Tôi hỏi
Francesca điều mà tôi tò mò từ hôm qua:

“You no hair
[34]?”

[34] Sao
chị không có tóc?

Đến đây thì
Francesca cười buồn buồn, nói rằng chị không có tóc vì đang phải hóa trị và xạ
trị bệnh ung thư vú. Đợt này chị đang có một quãng nghỉ giữa hai kỳ điều trị
nên tranh thủ đi du lịch; khi trở lại Milan,
chị sẽ lại phải tiếp tục một đợt điều trị mới. Chị không biết là còn sống được
bao lâu, có thể chị sẽ khỏi hẳn mà cũng có thể không; Francesca đã quyết định
là chừng nào còn có thể đi lại được thì sẽ đi thăm tất cả những nơi chị muốn,
đề phòng khả năng không còn nhiều thời gian.

Cả tôi và
Julia đều nói chúng tôi rất tiếc và chúc chị mọi điều tốt lành. Tôi nói, Francesca,
trông chị còn rất khỏe mạnh, da chị rất sáng và đẹp, không giống người ốm tí
nào. Francesca cười, nói rằng da đẹp phải như da của Julia. Julia nói trời ơi,
để có được làn da này vất vả lắm, giá mà chị có làn da trắng tự nhiên như
Francesca thì đã đỡ biết bao; chứ con gái Hàn Quốc phải học dưỡng da từ lúc
bốn, năm tuổi và mỗi tối trước khi đi ngủ phải mất cả tiếng để làm các thủ tục
dưỡng da. Chính vì thế mà mỗi lần đi du lịch, chị phải lôi theo cả đống va li
to đùng (chỉ vào hai cái va li trên sàn nhà). Julia mở cả va li cho chúng tôi
xem. Bên trong va li lỉnh kỉnh các loại hộp, chai, lọ, tuýp đựng các loại kem,
dầu, phấn dưỡng tóc, dưỡng da… cho từng bộ phận… kem riêng cho da cổ, vài loại
cho da mặt, vài loại cho mắt, cho vùng chữ T, cho môi, cho cả tai, kem làm
trắng da, kem chống nếp nhăn, kem giữ ẩm, kem giữ da săn, kem chống tàn nhang,
vân vân… Julia còn mang theo những lọ dầu gội và dầu xả to, cộng với sữa tắm,
thuốc xịt côn trùng và rệp; máy sấy tóc; năm, sáu đôi giày dùng cho các trang
phục khác nhau và ngồn ngộn quần ao. Tôi nói tôi chỉ có mỗi một cái va li nhỏ
và túi xách tay.

Julia không
tin, bắt tôi mở va li cho xem. Tôi mở ra: tôi chỉ có cả thảy ba cái quần bò,
vài cái sơ mi; hai đôi giày trong đó một đôi đang đi… Tôi chỉ mang một lọ dầu gội
đầu nhỏ mà tôi dùng luôn làm sữa tắm khi đi du lịch. Chỉ có thế thôi, chẳng có
gì khác cả.

“Thế túi mỹ
phẩm của em đâu?” Julia không tin nổi.

Tôi cho Julia
xem: tôi chỉ có một cái túi lớn hơn cái bao kính một chút, đựng một lọ kem
dưỡng ẩm nhỏ, một hộp phấn nền, một hộp phấn má nhỏ, một thỏi son môi, một cái
bút chì mắt, chấm hết. Julia liên tục “wow, wow” – tôi không biết chị ngưỡng mộ
hay sốc khi một cô gái có thể chỉ có từng ấy thứ đồ mỹ phẩm.

“Me nothing!”
Francesca nói. “No hair. No makeup. No care [35].”

[35] Tôi
chẳng có gì cả. Không tóc. Không mỹ phẩm. Không quan tâm.

Francesca đúng
rồi. Nếu tôi bị ung thư, tôi chắc cũng không quan tâm đến mỹ phẩm, thời trang
nữa. Sự hiện hữu của cái chết sẽ làm chúng ta nhận rõ cái gì thực sự cần, cái
gì không cần. Nhìn Francesca, tôi lại nghĩ, dường như quá nhiều người trong
chúng ta chỉ làm điều mà chúng ta thực sự muốn khi bị dồn vào bước đường cùng,
khi có một cái hạn cụ thể cho sự tồn tại. Còn bình thường, ta phó mặc cho những
ước mơ cứ thế chết dần chết mòn trong cái thường nhật và sự nhạt nhòa của thời
gian.

Báo cáo nội dung xấu