Một mình ở châu Âu - Chương 06
Paris, ngày…
Sáng nay, tôi
tỉnh dậy lúc 7 giờ rưỡi. Bên ngoài, trời sầm sì u ám. Kính cửa sổ phủ một lớp
hơi nước dày, không sao nhìn được ra ngoài. Julia đã ra khỏi giường, vừa lục
cục mở hành lý vừa thở nặng nề như người hen suyễn. Mũi và họng Julia chắc chắn
đã tắc. Tôi hỏi Julia có muốn tôi đánh cảm cho không, Julia đồng ý… nhưng tôi
chỉ mới bôi xong dầu cao và bắt đầu miết tay từ thái dương vào sống mũi thì
Fulia đã kêu “ái… ái…” và bảo tôi dừng lại vì đau. Tôi nói phải đau thì mới tốt
và tôi đang cố gắng trục khí độc ra khỏi Julia… À, nhưng Julia là một cô gái
Hàn Quốc mẫu mực, và giống tất cả các cô gái Hàn Quốc mẫu mực, chị cảm ơn tôi
đã có ý giúp đỡ nhưng Julia sẽ kiếm cách gì đó đỡ bạo lực hơn. Như ngủ chẳng
hạn. Vậy là Julia lên giường đi ngủ còn tôi đi bộ ra Nhà thờ Đức Bà để leo tháp
chuông.
Bên ngoài Paris không mưa và cũng
không lạnh nhưng ẩm ướt và nhiều mấy xám. Vừa băng qua con đường chạy dọc sông,
tôi lập tức phát hiện ra một điều: hóa ra những cái thùng lớn màu xanh lam đóng
kín đặt dọc sông Seine mà tôi tưởng là thùng
rác lại là các quầy bán sách và đồ lưu niệm. Hôm qua, vì trời mưa nên các “cửa
hàng” đều đóng cửa. Còn hôm nay, có một dãy quầy sách cũ mở ra ở ngay chỗ tôi
sang đường.
Tất cả sách
đều bằng tiếng Pháp. Có một số tên quen thuộc đập ngay vào mắt như Aragon,
Jean-Paul Sartre, Mallarmé và một hàng dài tác phẩm của André Malraw. Tôi đang
cố đoán tên một số cuốn và nhìn lướt để tìm xem có cuốn tranh mỏng nào về Rodin
không thì một monsieur khoảng ngoài sáu mươi tuổi bước lại. Monsieur cao dong
dỏng, mặc áo sơ mi trắng bên trong, áo gió xanh nhạt bên ngoài, thắt cà vạt,
đội một cái mũ Paris
và, tất nhiên, có mang nước hoa. Khuôn mặt monsieur có một vẻ hài hước và thân
thiện mà thoạt nhìn cũng nhận ra.
“Bonjour
petite mademoiselle [36],” monsieur mỉm cười.
[36] Chào
cô gái bé nhỏ.
“Bonjour,” tôi
đáp lại và chuẩn bị bỏ đi vì từ xưa tới nay những người bán hàng hầu như luôn
làm tôi sợ (hệ quả của thời bao cấp với các cô bán hàng mậu dịch mặt lạnh).
Nhưng tôi vừa
dứt tiếng “Bonjour” thì một suối tiếng Pháp lập tức thánh thót tuôn ra, cộng
với một cái khoát tay duyên dáng trên những cuốn sách, ra ý “Mademoiselle nhìn
xem, những cuốn sách mới đẹp làm sao” (tôi hoàn toàn đồng ý). Tôi lập tức đoán
monsieur là người bán sách nên giải thích với monsieur rằng tôi “non parle
Francais”, tôi chỉ xem thôi chứ không mua vì, vâng, một lần nữa, tôi “non parle
Francais”. Tôi tưởng là giống như những người bán hàng Mỹ, monsieur sẽ lịch sự
mỉm cười rồi lảng ra tìm khách hàng khác; nhưng không, monsieur vẫn mỉm cười và
nói một tràng dài đại ý mời mademoiselle cứ thoải mái xem đi, “pas de problème,
pas de problème”.
Cung kính
không bằng tuân mệnh. Tôi chiêm ngưỡng các cuốn sách thêm khoảng nửa phút cho
phải phép. Rồi khi ngẩng lên định “merci, au revoir” thì trước mặt tôi monsieur
đã đứng sừng sững, tay cầm một cuốn sách nhỏ, đồng thời ra hiệu cho tôi chờ.
Tôi kịp liếc bìa sách: một cuốn thơ của Paul Verlaine. Tôi đang đoán là
monsieur muốn gạ tôi mua cuốn thơ thì monsieur đã lật lật vài trang và ngoắc
tay cho tôi ghé lại gần. Tôi lại cung kính tuân mệnh. Lập tức bên tai tôi vang
lên những khổ đầu của một bài thơ có tiêu đề “Chanson l’automne [37]”:
[37] Khúc
hát mùa thu, hay còn được dịch là Thu ca.
Les sanglots
longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon
coeur
D’une lanheur
Monotone [38]
[38] Bài
thơ này từng được dịch là Thu ca: “Đàn ai nức nở. Nhạc thu ngân dài. Điệu buồn
buồn mãi. Lòng tôi ai hoài.” (Theo tham khảo trí nhớ một người bạn, không tìm
được tên dịch giả).
Tôi vừa mơ
màng thưởng thức những lời thơ du dương vừa nghĩ: “Bỏ bố!”
Quả thực là
tôi quá bất ngờ. Cái phần lãng mạn trong tôi thì lơ lửng trên mây; phần trẻ con
thì cười khúc khích; cái phần một phụ nữ Việt Nam đã lớn lên cùng những chương
trình “kể..ể..ể chuyện cảnh giác” vào các tối thứ Bảy hàng tuần suốt những năm
1980 thì ngồi phắt dậy nghe ngóng, trong khi cái phần lý tính và thực dụng mà
người Mỹ đã dạy cho tôi trong tám năm qua thì chống cằm “hừm, hừm, ông này muốn
gì ở mình?”. Các phần còn lại thì vẫn đang bất tỉnh nhân sự vì bất ngờ.
Tôi còn đang
chới với trong mớ hỗn độn các cảm giác thì nghe monsieur hỏi tôi có “cảm” được
đoạn thơ này không. Tôi định thần lại rồi trả lời rằng tôi chỉ “cảm” một số từ
thôi, ví dụ như “mon coeur” là “trái tim của tôi”, “mots” là “từ” (như trong
bài Michelle của The Beatles: “Michelle, ma belle, sont des mots qui vont très
bien ensemble”), “automne” thì chắc là “mùa thu” giống từ “autumn” trong tiếng
Anh, “monotone” là “đơn điệu” còn “violon” thì, chậc, là violon. Thế nhưng toàn
bộ khổ thơ nghĩa là gì thì tôi chịu. Monsieur bèn vui vẻ giải thích cho tôi
từng câu thơ bằng một thứ tiếng Pháp pha tiếng Anh bồi. Rốt cuộc thì tôi cũng
hiểu đại khái khổ thơ này nói rằng mùa thu réo rắt những cây violon của nó,
khiến cho trái tim người ta não nề.
“Toi chi muon
đọọc dững cau thơ nay choa iem,” monsieur nói.
Nhìn khuôn mặt
monsieur có vẻ rất thành thực thích thú việc đọc thơ này. “Wow, thì ra đây là
cái mà người ta gọi là sự lãng mạn Pháp”, tôi nghĩ thầm với một sự thán phục và
cảm động trong lúc phần lãng mạn thắng tuyệt đối phần cảnh giác. Nhưng vì cũng
không có ý định mua sách gì, tôi “merci, merci beaucoup” và nói rằng đã đến lúc
tôi phải đi.
Hoặc là
monsieur không hiểu tôi nói gì hoặc có hiểu mà tảng lờ vì tôi vừa dứt lời thì
monsieur yêu cầu “petite mademoiselle” hãy đọc lại bài thơ cho monsieur nghe.
Đến đây thì tôi lại không còn hiểu ra sao nữa. Tôi lại nói lại câu kinh điển:
xin lỗi monsieur, tôi “non parle Francais”.
“Khoong sao
đau,” monsieur nói. “Đọọc đi, đọọc đi.”
Không biết
phải làm thế nào với tình huống chưa có tiền lệ này và lại rất không biết nói
“Không” với người khác nên “petite mademoiselle” là tôi đành phải đọc bài thơ.
Dĩ nhiên là bằng một thứ tiếng Pháp bồi khủng khiếp. Khủng khiếp đến nỗi tôi
không nhịn được, cứ phá ra cười trong lúc chật vật phát âm từng từ. Monsieur
cũng cười hài lòng… và chỉnh lại phát âm cho tôi mỗi khi tôi phát âm sai.
Tôi đọc xong
thì lập tức cảm ơn monsieur lần nữa và nói rằng tôi phải đi.
Nhưng một lần
nữa, monsieur hoàn toàn tảng lờ việc tôi phải đi.
“Where you
from, mademoiselle?” Monsieur hỏi.
“Vietnam.”
“Ah, Vietnam. Chao
iem!” Monsieur nói tiếng Việt và chắp tay cúi đầu chào như… người Thái.
Trong lúc tai
tôi vẫn còn lùng bùng hai tiếng “”Chao iem” thì monsieur đã lại nói rất nhanh
rằng monsieur đã đến Việt Nam
sáu lần. Và rồi monsieur đột nhiên nhắc đến Hồ Chí Minh.
“Ho Chi Minh
gióng Charles de Gaulle,” monsieur nói.
“Ngươi Anh đen
Phap, Charles de Gaulle noi cút đi. Ngươi Phap đen Vietnam. Ho Chi Minh noi cút
đi. Gióng nhau, gióng nhau ca thoi.”
Liền đó
monsieur tuyên bố rằng monsieur đã luôn có ý định dịch mười hai cuốn tuyển tập
Hồ Chí Minh ra tiếng Pháp. Tôi không còn biết mình đang nói chuyện với một học
giả đội lốt người bán sách hay là người bán sách đội lốt học giả hay bán sách
kiêm học giả. Tôi đành cười và chúc monsieur thành công với dự định dịch sách
của mình để giúp cho tình đoàn kết giữa Pháp và Việt Nam thêm thắm thiết.
Thế rồi, bất
thình lình, câu hỏi sau đây bật ra rất rành rọt từ phía monsieur, bằng một thứ
tiếng Anh rất chuẩn như đã được tập luyện nhiều lần:
“Em đi ăn tối
với tôi nhé?”
“Bỏ cụ!” Tôi
nghĩ.
Tuy luống
cuống, tôi vẫn đủ tỉnh táo để biết rằng tôi không thể ăn tối với monsieur dù
monsieur có đọc thơ Verlaine cho tôi nghe. Tôi cố gắng tìm một cách lịch sự để
từ chối nhưng nghĩ mãi không ra cách gì, tôi sử dụng lý do kinh điển của các cô
gái:
“Merci, merci
monsieur nhưng bố mẹ tôi không cho tôi đi ăn tối với người lạ.”
“Oh lah lah…”
monsieur vung hai tay lên trời một cách thất vọng, nhưng vẫn mỉm cười, “Bo mẹ,
bo mẹ. Tại sao ngươi Vietnamien luc nao cung phai xin phep bo me?”
Câu hỏi này
quá vĩ mô và không có lợi gì cho tình huống cụ thể của tôi lúc đó nên tôi vừa
cười trừ vừa chỉ vào đồng hồ đeo tay:
“Merci
monsieur nhưng thật sự là tôi phải đi.”
Quan sát nét
mặt monsieur, tôi biết là tôi vừa mới đấm bị bông (Chúa phù hộ sự kiên nhẫn của
đàn ông Pháp với phụ nữ!) Để thể hiện sự quyết tâm và tự chủ, tôi tuôn ra một tràng
tiếng Anh rằng tôi có hẹn với bạn tôi, tôi nhất định phải đi nếu không tôi sẽ
bị muộn, rằng monsieur đã rất tốt bụng khi đọc thơ cho tôi nghe, tôi rất cảm
động nhưng tôi “thực sự, thực sự phải đi” và chúc monsieur bán được nhiều sách.
Tôi vừa nói vừa bắt đầu rảo bước. Monsieur cũng rảo bước đi cùng và hỏi tôi có
quay lại buổi chiều nay không, monsieur sẽ chờ tôi ở quán cà phê bên kia đường.
Tôi nói non non, tôi không quay lại đâu – và bước nhanh hơn. Monsieur lại nói
rằng ngày nào monsieur cũng đứng đây bán sách hoặc ngồi bên kia uống cà phê,
nếu tôi đổi ý định muốn ăn tối hay uống cà phê với monsieur thì cứ tới tìm bất
cứ lúc nào.
Tôi bước đi
khỏi một đoạn đã xa mà vẫn thấy đầu óc lùng nhùng vì không hiểu chuyện gì vừa
xảy ra. Một ví dụ nhỏ về sự lãng mạn Pháp hay chương một của một tiểu thuyết
trinh thám Mỹ mà đến chương hai thì người bán sách mê thơ Verlaine sẽ hiện
nguyên hình là sát thủ giết người hàng loạt?
Nhưng thở đều
một lúc, sự lãng mạn đã lại thắng thế. Nghĩ cho kỹ, rõ ràng monsieur không hề
có gì khả nghi và không làm gì hại tôi ngoài việc đọc thơ Verlaine cho tôi nghe
và mời tôi uống cà phê. Tôi kết luận rằng tôi không cần phải lo lắng; không nên
nghi ngờ oan cho monsieur mặc dù quả nhiên cách tiếp cận này hơi kỳ cục. Buổi
tối nay, khi gặp Kai và Sarah, tôi sẽ hỏi họ chuyện này.
Tôi đã không
liên hệ với bất cứ người bạn Việt Nam
nào khi tới Paris
lần này vì tôi muốn đi du lịch như một người không nguồn gốc, không quá khứ,
không ràng buộc. Kai, người bạn cũ từ Đại học Chicago, là người duy nhất biết tôi tới.
Kai và Sarah
tới lúc 7 giờ. Tôi đã cuống cuồng nhảy tàu điện từ khu Khải Hoàn Môn về khách
sạn thay quần áo để kịp đi ăn tối với họ. Hôm nay là ngày thứ ba của tôi ở Paris, cả ba ngày đều lây
rây lúc mưa lúc nắng; mà tôi thì không làm việc gì khác ngoài lang thang ngoài
đường nên hôm nào quần áo cũng ẩm ướt và cả ba tấm bản đồ của tôi đều bắt đầu
mục vì ngấm nước. Nhưng tôi sẽ không vì thế mà đánh đổi lấy những ngày Paris toàn nắng đẹp. Paris trong mưa có cái gì
đó quyến rũ vô cùng. Chiều tối nay, khi tôi nhìn thấy Kai và Sarah thong thả
bước cạnh nhau từ phía con đường bờ sông tới trước khách sạn, thì tôi hiểu cái
quyến rũ ấy là cảm giác Paris và người Paris chậm lại, xích lại
gần nhau. Nó là sự lãng mạn được cô đặc, được làm giảm đi một chút bốc đồng để
trở nên đằm và thật. Như chiều may, khi đi ngang Nhà thờ Đức Bà và nghe lỏm một
người con trai nói trên điện thoại “Em nhất định phải đến, anh cần em” thì tôi
tin là anh ấy cần cô gái kia thật. Làm sao có thể không cần một người khác
trong cái se lạnh này của mùa thu Paris.
“Chào em,” Kai
cười từ xa. “Em khỏe không?”
“Em khỏe,” tôi
nói. “Kai ơi, Paris
đẹp quá; em thật ghen với anh.”
“Dĩ nhiên
rồi,” Kai cười, hôn tôi hai bên má. “Tất cả mọi người đều ghen với anh. Nhưng
biết làm thế nào được.”
Không thể
không nhận ra rằng Kai đã khác đi kể từ lần cuối cùng tôi gặp anh, cách đây
chừng một năm, ở Chicago.
Hồi đó, Kai bơ phờ và dường như lúc nào cũng ngấp nghé một miệng vực vô hình;
còn bây giờ, khuôn mặt anh có một ánh sáng mới. Có lẽ Paris làm cho người ta hạnh phúc hơn.
Chúng tôi tới
một tiệm ăn có tên “Les Philosopher” ở Rue Vieilles-du-Temple bên phía Marais,
không xa khách sạn tôi ở (chắc chỉ có ở Paris thì tiệm ăn mới có những cái tên
như “Nhà triết học” hay “Descarter”). Tiệm Les Philosopher nằm trên mặt phố,
trong một căn nhà tường ốp gỗ với những cửa sổ lớn mở ra ngoài vỉa hè; vỉa hè
cũng có bàn nhưng chủ yếu dành cho người uống cà phê, rượu, hút thuốc sau khi
ăn. Chúng tôi vào bên trong; chọn một chiếc bàn gỗ nhỏ. Xung quanh chúng tôi,
các bàn hầu như chật người; từng nhóm từng nhóm ngồi với nhau theo cái lối của
những người đã đi ăn tối với nhau rất nhiều lần. Họ thoải mái, ồn ào, và tự
nhiên. Mỗi lần có một người mới đến, người đó lại ồn ào chào hỏi rồi đi vòng
quanh bàn hôn má từng người ngồi quanh bàn. Thật là một cảnh vui mắt. Người Mỹ
không bao giờ cho phép mình ồn ào quá ở các nhà hàng mà chỉ có thể ồn ào ở các
sport bar.
Kai nói món
vịt ở đây khá ngon; vậy là tôi gọi vịt là món chính, khai vị là patê ngỗng.
Chúng tôi gọi một chai vang đỏ.
“Chào mừng em
đến Paris!” Kai
nói. “Cho những ngày Paris
vui vẻ!”
“Cho những
ngày Paris vui
vẻ!” Tôi nói.
“Ở Paris thì khó mà buồn
được,” Sarah nói. “Em hiện nay chẳng làm gì, coi như thất nghiệp, thế mà cũng
chẳng buồn.”
Sarah là người
Mỹ, Kai người Nhật, hai người gặp nhau ở Chicago;
rồi yêu nhau; khi Kai đi Paris nhận việc sau khi tốt nghiệp, Sarah chuyển sang
sống chung. Hằng ngày, Kai đi làm, còn Sarah ở nhà học tiếng Pháp và tìm việc.
Chúng tôi hỏi
thăm công việc và những người quen cũ ở Chicago.
Rồi tôi không đừng được mà kể lại câu chuyện về người đàn ông bán sách đọc thơ
Verlaine.
“Em vẫn không
hiểu, tại sao ông ấy lại đọc thơ cho em nghe? Ông ấy muốn gì ở em?”
Kai phá lên
cười.
“Chết thôi, em
bị Mỹ hóa mất rồi. Người Mỹ lúc nào cũng hỏi tại sao, để làm gì, họ muốn gì ở
tôi, tôi được gì, mất gì. Có thể ông ấy không muốn gì ở em cả, ông ấy chỉ muốn
đọc thơ cho em nghe, đơn giản thế thôi.”
“Ồ, nếu em là
một cô gái sexy, quyến rũ thì em còn hiểu được; đằng này…”
“Cũng chẳng
sao, ông ấy muốn làm vậy vì ông ấy muốn làm vậy thôi. Đàn ông Pháp là thế.”
“Mà phải nói
là họ kiên nhẫn thật. Em đã nói không không tôi phải đi bao nhiêu lần mà ông ấy
không tha.”
“Ờ,” Kai tặc
lưỡi, “về khoản kiên nhẫn thì công nhận đàn ông Pháp là số 1. Người Mỹ với Nhật
chẳng bao giờ mất thời gian cho việc tán tỉnh vô thưởng vô phạt ngoài đường như
thế, người Pháp thì khác, mà không, anh phải nói chính xác là người Paris thì
khác. Đàn ông Paris
là một giống riêng. Họ tán tỉnh như một bản năng; nếu thấy có một cái cửa; họ
sẽ gõ; cửa chỉ cần hé ra là họ lách chân vào, rồi cứ thế đẩy dần cửa ra, và
trước khi em nhận ra thì họ đã trong nhà em rồi.”
“Nhưng nhất
định họ vẫn phải có một mục đích cuối cùng nào đó chứ. Ông ấy mời em đi ăn tối
để làm gì? Họ mời các cô gái xa lạ qua đường đi ăn tối với mục đích gì? Để ngủ
với họ à?”
“Cũng có thể
là thế. Nhưng có người đơn giản là họ muốn đi ăn tối với em thôi. Với người Paris, đi ăn tối với ai
đó, kể cả người xa lạ, là một niềm vui. Đơn giản thế thôi. Gặp nhau, ăn tối,
uống chút rượu, nói chuyện phiếm, tán tỉnh nhau một chút, đại để là có mấy
tiếng vui vẻ với nhau… đấy là văn hóa Paris.
Có thể ông ấy chỉ muốn có người ăn tối cùng.”
“Cái đó thì em
cũng hiểu. Em cũng ủng hộ sống cho ngày hôm nay, sống cho hiện tại, tận hưởng
những khoảnh khắc với người khác, nhưng mà em vẫn thấy có cái gì đó kỳ kỳ.”
“Em ở Paris một thời gian, em
sẽ không để ý nữa đâu.”
“Đúng rồi
đấy,” Sarah nói. “Hồi em mới sang đây, em cũng gặp chuyện này, em dị ứng lắm.
Gần nhà em ở có cái công viên; cứ lần nào em vào đấy chạy bộ hay đọc sách là y
như rằng có một anh Parisien ra tán tỉnh. Em nghĩ, bỏ mẹ, không biết bọn này
muốn gì ở mình. Trời ơi, có một lão trong công viên lại còn bảo em là lão phát
điên vì yêu em… Làm em phải bỏ cả cái công viên đấy một thời gian. Giờ thì em
quen rồi; lơ mơ là em chửi cho. Các lão ấy biết chị là khách du lịch mới đến
nên thế thôi. Mà đàn ông Pháp thì thích các cô gái Á Đông nhỏ bé lắm.”
“Chị cứ tưởng
là cái kiểu tâm lý thuộc địa đấy chỉ có ở thời Thế chiến chứ giờ vẫn còn à?”
“Còn đấy, một
số đàn ông Pháp vẫn cứ thích các cô gái Á Đông vì họ dịu dàng, chiều chuộng.
Chứ đàn bà Pháp với đàn bà châu Âu chả chịu được cái thói lãng mạn
rửng mỡ của các ông ấy.”
Đến đây thì
bồi bàn mang món patê ngỗng ăn với bánh mì nướng và một chút mứt dâu tây. Ở các
bàn bên cạnh, thức ăn và rượu cũng đầy ắp, những câu chuyện ngày càng ồn ào.
Vài người đàn ông mặt đỏ, tóc rối bời, đứng cả lên để tranh luận về chính phủ
và Giáo hoàng (nghe nói sắp tới Giáo hoàng sẽ sang thăm Paris), và một thứ tiếng Pháp mê li cứ thế
tuôn ra hôi hổi. Tôi vừa ăn vừa nói chuyện với Kai và Sarah vừa quan sát cái
không khí một quán ăn tối Paris…
Tại sao ngồi đây tôi lại có cảm giác nhớ không khí này và nhớ Paris
như thể tôi từng ở Paris?
Tại sao, giữa những người Paris trong quán ăn xa lạ này, tôi lại nhớ Hugo,
Chopin, Verlaine như thể tôi đã từng ngồi ăn tối với họ ở đâu đó, trong những
buổi tối Paris mùa thu?
Ở ngoài khách
sạn, Kai và Sarah lại hôn tạm biệt tôi, hẹn rằng sẽ gặp lại trước khi tôi rời Paris.
“Cẩn thận nhé,
Kai dặn tôi. Em chỉ có một mình, mà đàn ông Pháp thì mê phụ nữ Á Đông lắm và
không phải ai trong số họ cũng tử tế đâu. Em nhớ nhé.”
Tôi nói với
Kai rằng tôi sẽ cẩn thận. nhưng nếu tôi gặp những trường hợp tán tỉnh và mời đi
ăn tối khác, tôi sẽ nhận lời để tìm hiểu xem rút cục thì những người đàn ông
này muốn gì. Có thể nào người ta lãng mạn chỉ để lãng mạn mà thôi? Hay là tôi
bị “Mỹ hóa” thật như Kai nói nhỉ? Lẽ nào tôi không còn tin và cũng không còn
khả năng cảm nhận sự lãng mạn nữa?
Tôi đã tháo
nhẫn cưới khỏi tay từ hôm đến Paris.
Tôi không biết tại sao. Chắc chắn tôi không định tán tỉnh, yêu đương hay lừa ai
nhưng tôi vẫn cứ bỏ nhẫn cưới ra.
Cái nhẫn cưới
này, tôi và Sơn đã mua trong một cửa hàng trang sức ở Boston. Lúc ấy, tôi có hai sự lựa chọn: một
cái nhẫn với một vòng tròn khép kín và mặt kim cương đính bên trên; hoặc một
cái nhẫn với vòng tròn không khép kín và một mặt kim cương nằm giữa hai cái đầu
không khép kín ấy. cuối cùng tôi đã chọn cái thứ hai. Trong suốt những năm đeo
cái nhẫn này, ngón tay tôi thỉnh thoảng lại bị trầy bởi vì bị cái đầu nhọn kim
loại của vòng tròn không khép kín đâm. Chị gái tôi – một người tương đối mê tín
– đã nói với tôi khi nhìn thấy cái nhẫn rằng cái nhẫn thế này là biểu tượng của
xa cách, hai người không làm thành một vòng tròn. Tôi đã cười, nói chị ấy vớ
vẩn. Tôi cũng đã nghĩ những điều khác là vớ vẩn. Ví dụ như Sơn chưa bao giờ đeo
nhẫn cưới và tôi chưa bao giờ bắt anh phải đeo.
Nhưng có thể,
chúng không vớ vẩn như tôi tưởng? Có thể, để có một cuộc sống vợ chồng lâu bền
thì cần có cả những thứ thủ tục, những khuôn khổ, những quy tắc mà người ta
phải tuân theo để cầm cương cái bản ngã cá nhân luôn dễ dàng hư hỏng khi được
dung túng?
Cả hai chúng
tôi, hay ít nhất là tôi, hình như đã quá tự do và ngây thơ về hôn nhân cũng như
về chính mình.

