First Comes Marriage - chương 14
Chương 14
Hạnh phúc thường không chỉ đến trong những giây phút
thoáng qua. Đôi khi nó còn vương vấn ở lại.
Vanessa không có ảo tưởng nào, tất nhiên. Đây không
phải là mối liên kết của tình yêu và chưa bao giờ được dự định trở thành điều
đó. Anh không yêu cô và cô không yêu anh – dù sao đi nữa cũng thật sự không phải.
Nhưng cô bị mê đắm bởi anh, và chắc chắn – và kì lạ
thay – anh cũng bị mê đắm bởi cô.
Dù sao cũng là trong hiện tại. Trong một thời gian
ngắn ngay cả khi nó không kéo dài.
Họ tận hưởng sự lãng mạn tuyệt diệu nhất trong tất cả
những lần nghỉ ngơi của cuộc đời – tuần trăng mật.
Họ làm tình nhiều lần trong suốt ba ngày và bốn đêm ấy
đến nỗi Vanessa khó có thể đếm được. Ồ, cũng không hẳn. Là mười ba lần tất cả.
Rốt cuộc, cô nghĩ rằng nếu mình mê tín, thì con số đó có thể vận vào cô như một
điềm xấu. Nên cô không dám đếm.
Cô chưa bao giờ tận hưởng điều gì nhiều đến thế
trong đời hơn mười ba lần làm tình đó. Anh thật đẹp đẽ và sung mãn và thành thạo
và đi tới tận cùng.
Nhưng không chỉ có làm tình.
Họ dùng những bữa ăn cùng nhau và trò chuyện trong
khi ăn. Họ nói về những quyển sách mình đã đọc và phát hiện ra số sách giống
nhau mà họ đọc rất ít ỏi. Nhưng chuyện đó có thể sửa chữa được.
“Em sẽ đọc tất cả những cuốn ngài đã đọc,” cô hăng
hái nói, “để chúng ta có thể bàn luận về chúng.”
“Tôi sẽ không đọc tất cả những cuốn em đã đọc,” anh
bảo cô. “Lịch sử chưa bao giờ là môn yêu thích nhất của tôi ở trường, em có thể
nói cho tôi nghe tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong quá khứ mà tôi cần biết.”
“Ôi, lạy Chúa,” cô nói. “Em biết bắt đầu ở đâu bây
giờ?”
“Ở điểm khởi đầu chẳng hạn?” anh gợi ý. “Với Adam và
Eve?”
“Em sẽ bắt đầu với người La mã ở nước Anh,” cô nói,
“bởi vì có rất ít điều được biết về các bộ tộc đã từng ở đây trước họ. Người La
mã là một bí ẩn hấp dẫn, Elliott. Họ sống cuộc sống đa dạng tinh tế và xa hoa
hơn hẳn chúng ta. Vậy mà chúng ta cứ nghĩ là mình sống văn minh tiến bộ lắm rồi.
Ngài biết không, ví dụ như, họ biết một cách làm ấm ngôi nhà mà không cần phải
có lò sưởi đốt bằng gỗ hoặc than trong các phòng.”
“Tôi không biết,” anh nói.
Anh lắng nghe với vẻ thích thú rõ rệt trong lúc cô kể
về đế chế La mã ở Anh và cách mà nó đã ảnh hưởng đến đời sống nước Anh thậm chí
cho tới ngày nay.
“Nhất là trong ngôn ngữ,” cô nói. “Ngài có biết có
bao nhiêu từ của chúng ta bắt nguồn từ tiếng Latin không?”
“Vậy chúng ta sẽ buộc phải sống trong câm lặng nếu
người La mã không đến đây à?” anh hỏi cô. “Ôi, Chúa giúp chúng ta, tất cả chúng
ta sẽ nói tiếng xứ Wales hoặc Gaelic ư?”
Cô cười. “Ngôn ngữ là một thứ luôn luôn phát triển,”
cô nói. “Tiếng Anh chỉ khác đi thôi nếu không có người La mã.”
Cô nghi ngờ - đúng ra là biết – rằng kiến thức của
anh về quá khứ mênh mông hơn nhiều so với anh tự nhận. Xét cho cùng thì không
có người đàn ông học thức nào lại có thể chẳng biết một chút gì về lịch sử của
đất nước mình và nền văn minh của nó. Nhưng cô không quan tâm liệu anh có đang
trêu chọc cô với sự ngu dốt rành rành của mình không. Lịch sử đối với cô là niềm
đam mê, nhưng không phải lúc nào cô cũng có thể tìm được một người sẵn lòng lắng
nghe.
Hơn nữa, thật là thú vị khi thấy anh cũng biết đùa
giỡn.
Mỗi ngày họ đều dành nhiều giờ ở ngoài trời. Thời tiết
không còn là mối ngăn cản nữa. Mặc dù vẫn là mùa xuân, nhưng có nắng vàng, bầu
trời trong xanh, và không khí ấm áp. Họ không thể đòi hỏi nhiều hơn.
Họ đi dạo quanh hồ và chưa từng phát hiện bóng người
nào. Tất cả đều rất tôn trọng sự riêng tư của họ.
Có một ngày họ tới ngôi nhà thuyền và ngắm nghía những
chiếc thuyền trong đó và chọn một cái đẩy xuống nước mặc dù hôm đó trời se lạnh.
Vanessa nằng nặc đòi cầm mái chèo và thậm chí còn đưa hai người vào bờ an toàn.
Nhưng vì mấy năm nay cô không chèo thuyền, đúng ra là từ lúc còn là một cô gái
nhỏ, nên cô tốn nhiều thời gian đánh vật với mặt nước và mái chèo và đưa chiếc
thuyền đi vòng vòng hơn là duyên dáng lướt trên mặt hồ để thưởng ngoạn phong cảnh.
“Một cuộc trình diễn ngoạn mục,” chồng cô nhận xét
khi trở về nhà. “Có lẽ lần sau em sẽ cho phép tôi chèo để xem liệu tôi có thể
gây ấn tượng tương đương với em không.”
Cô cười khanh khách.
“Nhưng nó rất vui mà, Elliott, ngài thừa nhận đi,”
cô nói. “Ngài có thấy sợ cho tính mạng của mình không?”
“Tô biết bơi,” anh bảo cô. “Còn em?”
“Cũng ngang ngửa trình độ chèo thuyền của em,” cô
nói, và lại cười. “Em luôn luôn sợ bị ngã ụp mặt vào nước.”
Họ đi ra tận cuối cầu tàu bằng gỗ gần nhà thuyền vào
một lần khác và ngó xuống đàn cá đang bơi lượn dưới nước. Anh thường lặn xuống
đó khi còn là một cậu bé, anh bảo cô, và cố tóm những chú cá bằng tay không.
“Có lần nào thành công không ạ?” cô hỏi anh.
“Chưa bao giờ,” anh thú nhận. “Nhưng tôi học được một
điều về việc dồn hết năng lượng vào một việc bất khả thi.”
“Điều đó đã khiến ngài dừng lại?” cô hỏi.
“Không.”
Cô nhớ đến viên đá anh đã ném cho nó nhảy cóc trên mặt
hồ ở Warren Hall cái ngày cô cầu hôn anh. Cô liền đòi anh biểu diễn lại và rồi
cố gắng tự mình ném thử - mà không thành công lần nào. Anh cố dạy cô, nhưng cô
không thể thực hiện cú vặn cổ tay hoàn hảo dường như là bí quyết của thành
công. Khi cô thử lại, cô chỉ thành công trong việc tung hòn đá bay thẳng lên trời
và làm cả hai phải thụp xuống để tránh không bị tương vào đầu khi nó rơi xuống.
Cô cười một trận và xem anh khoe tài với lần biểu diễn
thứ hai.
“Mười hai lần nảy lên,” cô trầm trồ. “Đó là một kỉ lục
mới.”
“Nghĩ xem, nhiệm vụ của em dễ dàng hơn tôi bao
nhiêu,” anh nói. “Tôi phải đạt mười ba lần để phá kỉ lục của mình. Còn em chỉ cần
có một là đạt kỉ lục của em.”
“Em nghĩ,” cô nói, “là tất cả những gì em học được
là không dồn năng lượng vô ích vào một việc bất khả thi.”
Cô ném viên đá cuối cùng – và nó nảy lên đúng ba lần
không thể nhầm lẫn. Cô hét toáng lên cùng tiếng cười và quay về phía anh trong
chiến thắng.
“Chà,” anh nói, lông mày nhướng lên. “Có lẽ tôi nên
lặn xuống hồ để xem xem có thể bắt được một con cá không.”
Một trong những ngày như thế, cô quyết định, cô sẽ
làm cho anh mỉm cười. Thậm chí cô sẽ làm anh cười vang. Nhưng không quan trọng
dù anh có chẳng mỉm cười hay là cười vang. Anh đang để mình vui chơi cũng nhiều
như cô. Cô chắc chắn về điều đó.
Có thể đây không phải là sự kết hợp nơi thiên đường,
và có thể người này sẽ chẳng bao giờ thực sự yêu người kia. Nhưng không có lí
do nào mà họ lại không nên sống hạnh phúc bên nhau. Cô từng hứa với anh về hạnh
phúc và hài lòng và dễ chịu, không phải sao?
Ngày thứ ba họ đi vòng sang tận bên kia hồ và leo
lên triền dốc phủ tràn những bông thủy tiên. Nhìn từ bờ bên này thì chúng bị
che khuất bởi rặng liễu rủ bóng xuống mặt nước. Những bông hoa vàng giống như
những chiếc kèn trumpet gục gặc đầu và đung đưa trong nắng cùng làn gió nhẹ.
“Ôi, nhìn kìa, Elliott!” Cô reo lên, làm như anh
không có khả năng nhận ra. “Nhìn kìa!”
Và cô lao tới để chạy qua cánh đồng thủy tiên, hai
cánh tay giang rộng. Cô xoay một vòng ở giữa chúng và ngẩng mặt lên đón ánh mặt
trời.
“Ngài đã từng nhìn thấy thứ gì đẹp hơn thế chưa?” cô
hỏi, dừng chân lại nhưng hai cánh tay vẫn giơ lên.
Anh đang đứng ở bờ hồ, ngắm nhìn cô.
“Có thể,” anh nói. “Nhưng dù một khắc tôi cũng không
thể nghĩ ra nó sẽ như thế nào. Dù vậy tôi tin em hẳn có một hiểu biết bí mật về
nơi này, Vanessa, và đã ăn mặc phù hợp. Em thật là khôn ngoan và láu lỉnh.”
Cô nhìn xuống người mình. Cô đang mặc chiếc áo màu vỏ
chanh cùng với áo choàng và chiếc mũ rơm.
“Em nghĩ ngài sẽ bị ấn tượng,” cô nói, mỉm cười rạng
rỡ với anh.
“Đúng vậy.”
Anh đã tới gần cô trong lúc cô vẫn đang ngó xuống
người mình. Và anh vẫn bước đến khi nụ cười của cô đã nhạt đi. Khi đã tới đủ gần,
anh cúi xuống và áp môi mình lên môi cô, và cô vòng tay qua cổ anh và hôn lại
anh.
Cô yêu ánh mắt uể oải của anh. Nó làm cô cảm thấy
mình gợi cảm. Vì việc anh thấy cô gợi cảm dường như vẫn không thể tin nổi đối với
cô. Nhưng hẳn là vậy. Chắc chắn anh không thể chỉ nghĩ đến những đứa con thừa kế
nên mới lấy cô. Cô nhìn vào mắt anh sau khi anh đã kết thúc nụ hôn, và lại mỉm
cười lần nữa.
Đó là một trong những giây phút hạnh phúc nhất trong
ba ngày qua. Sau tất cả cô gần như cảm thấy mình đã yêu anh. Và anh đã yêu cô.
“Ngay cả khi gia đình và những người làm vườn bỏ
ngoài tai lệnh cấm tránh xa hồ nước,” anh nói, “thì nơi này cũng là một chốn
hoang vu. Tôi không thể nhớ mình đã từng thấy nó trước kia ở thời điểm đặc biệt
này trong năm.”
Một chốn hoang vu.
Ý đồ của anh sáng rõ như ban ngày. Vanessa cảm thấy
cơn nhức nhối quen thuộc đang dâng lên giữa hai đùi.
“Không có ai đến đây ư?” Cô hỏi anh, và liếm đôi môi
bất chợt khô rang của mình.
“Không một ai.”
Và anh nhún vai thoát khỏi chiếc áo choàng, trải rộng
nó trên cỏ giữa đám hoa thủy tiên, và ra hiệu về phía nó.
Và họ làm tình giữa thiên nhiên, xung quanh là màu
xanh ngắt và vàng rực của sắc xuân, mặt trời tươi cười rạng rỡ xuống họ, những
tia nắng của nó gần như làm nóng nơi trú ẩn hình thành bởi những thân cây và những
bông hoa và triền sông.
Đó là một sự sa đọa chớp nhoáng và mạnh mẽ và tuyệt
vời – vì tất nhiên là ai cũng có thể bước vào tầm nhìn bất cứ lúc nào. Có điều
gì đó gợi dục một cách kì lạ, cô khám phá ra, trong khi làm tình mà vẫn gần như
mặc đầy đủ quần áo.
“Em sẽ hái vài bông thủy tiên cho ngôi nhà,” cô nói
khi họ đã đứng dậy và sửa sang lại trang phục. “Có được không ạ?”
“Đây là nhà của em,” anh nói, “em là nữ chủ nhân của
Finchley Park, Vanessa. Em có thể làm bất cứ điều gì mình muốn.”
Nụ cười của cô càng tươi hơn.
“trong phạm vi lẽ của lẽ phải,” anh vội vã bổ sung.
“Giúp em nào,” cô nói, cúi xuống đám thủy tiên và bứt
chúng ở cuối cuống.
“Từng này đủ chưa?” anh hỏi sau khi đã hái được khoảng
một tá và cô hái được gấp đôi con số ấy.
“Còn xa,” cô nói. “Chúng ta sẽ hái tới chừng nào hai
cánh tay không thể ôm nổi nữa. Chúng ta sẽ làm đầy ngôi nhà cho tới tràn ngập
ánh nắng và mùa xuân, Elliott. Hái cả một vài cây cỏ nữa.”
Một lúc sau họ khệ nệ đi vòng qua hồ trở về nhà, những
cánh tay trĩu nặng.
“Em hi vọng,” cô nói khi họ đến ngưỡng cửa, “sẽ có đủ
bình và lọ. Ít nhất là mỗi phòng phải có một bó.”
“Những gia nhân sẽ lo việc đó,” anh nói, mở cửa với
sự khó khăn và đứng lùi ra sau để nhường cô vào trước.
“Chắc chắn họ sẽ không,” cô phản đối. “Xếp đặt những
bông hoa là một trong những niềm vui lớn nhất của cuộc đời, Elliott. Em sẽ cho
ngài thấy. Tới và giúp em đi.”
“Tôi sẽ tới và xem em,” anh nói. “Em sẽ cảm ơn tôi
vì đã không ra tay giúp, Vanessa. Tôi không có con mắt cho mấy việc xếp đặt.”
Nhưng thế mà anh vẫn giúp. Anh đổ đầy nước vào các
bình và chia những bông hoa và lá thành từng nhóm và cắt cuống của chúng theo
hướng dẫn của cô. Và anh mang những bình hoa tới các căn phòng được chỉ định và
đặt chúng vào vị trí trong khi cô lùi lại với đôi mắt của nhà phê bình.
“Sang trái một nửa inch,” cô nói, ra dấu. “Giờ thì
lùi ra sau một phần tư inch. Đó! Hoàn hảo!”
Anh lùi lại và nhìn cô chăm chăm.
Cô cười. “Sự hoàn hảo phải luôn được coi là mục tiêu
nhắm tới,” cô nói, “ngay cả khi không bao giờ có khả năng đạt được nữa. Bất cứ
điều gì giá trị cũng phải được hoàn thành tốt.”
“Thưa vâng, ma’am” anh nói. “Chuyện gì sẽ xảy ra với
đám hoa khi chúng ta trở về nhà chính ngày mai?”
Cô không muốn trở về tòa nhà chính. Cô muốn sống ở
đây như thế này mãi mãi. Nhưng người ta không bao giờ có khả năng – hay là nỗi
khao khát nguyên sơ – giữ lại thời gian.
“Ngày mai không tồn tại cho tới khi nó đến,” cô nói.
“Chúng ta không cần nghĩ về nó hôm nay. Hôm nay chúng ta sẽ thưởng thức những
bông hoa thủy tiên.”
“Em có biết bài thơ nào không?” anh hỏi .
“Một bài thơ của William Wordsworth?” cô nói. “Bài
‘đồng hoa thủy tiên vàng’ của ông? Ôi, vâng, đúng rồi. Và giờ chúng ta đã biết
cảm giác của ông ấy như thế nào khi bước lên chúng.”
“Rốt cuộc hai ta cũng có một thứ từng đọc chung,”
anh nói.
“Vâng, đúng là như vậy.”
Vanessa vui sướng ngắm nhìn những chiếc bình tràn ngập
hoa. Và còn cả một buổi tối nữa để mong chờ và một đêm nữa.
Nhưng ngày mai đã được nhắc đến.
Ngày mai họ sẽ trở về nhà chính và về với cuộc sống
sau này của họ.
Họ sẽ giống như bao con người bình thường sống một
cuộc sống hôn nhân bình thường.
Nhưng dù vậy Vanessa cố không nghĩ tới điều đó. Vì mỗi
khi nghĩ tới, nó sẽ đi cùng một linh cảm mơ hồ không thể gọi tên.
Họ đi bộ trở về nhà chính sau bữa điểm tâm sáng hôm
sau dưới nền trời xám ngắt đe dọa muốn đổ mưa.
Ngôi nhà vắng lặng, chỉ có những người hầu và Mr.
Bowen. Tất cả khách khứa dự đám cưới đã ra về từ hôm qua, và Lady Lyngate cùng
Cecily đã lên đường đi London từ sớm tinh mơ . Vanessa và Elliott cũng sẽ nối
gót họ vào ngày mai.
Vanessa khám phá phòng ngủ mới của mình và phòng
thay đồ trong lúc Elliott ở phòng làm việc, bàn công chuyện với thư ký và xem
những lá thư đã chồng chất trong ba ngày qua.
Nhưng anh không ở trong đó lâu. Anh gõ cửa phòng
Vanessa chưa đầy nửa giờ sau và bước vào.
“Nó lớn quá,” cô nói, giang rộng hai tay về hai bên.
“Ít nhất cũng gấp đôi phòng em ở căn nhà bên hồ.”
“Tất nhiên,” anh nói, nhún vai. “Nó là phòng dành
cho nữ tử tước mà.”
Sự thật là cô đã bước vào một thế giới hoàn toàn
khác biệt vẫn chưa có thời gian để cho cô bàng hoàng, Vanessa nhận ra.
“Tôi sẽ cưỡi ngựa sang Warren Hall để xem Merton
xoay sở ra sao với những vị gia sư của mình,” anh nói. “Em muốn đi cùng không?
Nếu vậy, chúng ta sẽ dùng xe ngựa. Nhưng thế có khi lại sáng suốt. Trời sắp mưa
rồi.”
“Dĩ nhiên là em muốn đi,” cô nói.
Thời gian dường như đã ngừng lại trong suốt tuần
trăng mật ngắn ngủi của họ. Cô gần như đã không một lần nghĩ đến chị em gái và
em trai của mình – hoặc bất cứ người nào khác. Căn nhà bên hồ và hồ nước đã là
tất cả thế giới của cô, và cô cùng Elliott là hai con người duy nhất tồn tại ở
đó.
Như Adam và Eve trong vườn địa đàng.
Giờ đây đột ngột cô nhận ra ba ngày đó đã trôi qua,
và cô háo hức muốn gặp lại những người thân của mình.
Lúc họ đặt chân đến Warren Hall thì những giọt mưa đầu
tiên đang rơi, và một cơn gió lốc làm lạnh băng không khí.
Thật là may mắn khi họ đã có ba ngày thuộc tiết xuân
rực rỡ, Vanessa nghĩ. Sự thay đổi lúc này khiến cho chúng dường như có vẻ không
thật và xa xôi – như thể họ đã kết thúc từ một tuần trước chứ không phải mới
sáng nay.
Chỉ có một mình Margaret trong phòng khách. Cô nhún
chân chào Elliott và ôm Vanessa thật chặt. Những người khách đã đi từ hôm qua,
cô nói với họ. Stephen đang ở trong thư viện dưới nhà với một trong những gia
sư, trở về muộn sau chuyến cưỡi ngựa buổi sáng với Mr. Grainger và gắt gỏng ầm
ĩ về chuyện đó. Còn Katherine đã ra ngoài đi dạo.
“Nhưng chị hi vọng con bé sẽ về sớm,” Margaret nói,
nhìn ra cửa sổ đang lốm đốm những hạt nước mưa. “Trước khi bị ướt sũng.”
Trông chị ấy bơ phờ và hơi xanh xao, Vanessa nghĩ
khi cả hai đã ngồi trước lò sưởi và Elliott đã đi tới thư viện.
“Chị có khỏe không, Meg?” Vanessa hỏi. “Xảy ra chuyện
không ổn à?”
“Hoàn toàn không sao.” Margaret mỉm cười. “Còn em,
Nessie? Em thế nào?”
Vanessa tựa vào lưng ghế.
“Thời tiết không được đẹp chị nhỉ?” cô nói. “Ngôi
nhà bên hồ ở Finchley là một nơi thật xinh xắn, Meg, và hồ nước rất đáng yêu. Bọn
em đã đi bơi thuyền và ngày hôm qua bọn em đã hái được hàng tá hoa thủy tiên mà
thậm chí không cần cúi sát để bới đất nơi chúng mọc . Bọn em đã đặt một bình
hoa ở mỗi phòng trong nhà. Nom chúng lộng lẫy lắm.”
“Bọn em,” Margaret nói. “Vậy là mọi việc tốt cả à,
Nessie? Em không hối hận? Mà còn trông hạnh phúc.”
“Vâng, tất nhiên ạ,” Vanessa nói, “cuộc đời thực là
để khám phá mà. Chúng em sẽ đi London ngày mai, và tuần tới em sẽ ra mắt nữ
hoàng – một viễn cảnh kinh hãi êm dịu. Và sẽ có một lượng lớn những người phải
gặp và những nơi phải đi…chà, và vân vân. Nhưng đương nhiên là em không hối hận,
chị ngốc quá. Đây là chuyện em muốn làm. Em chả nói với chị ngay từ đầu còn
gì.”
“Ôi, Nessie,” Margaret ngả người trong ghế, trông lại
kiệt sức như ban nãy. “Chỉ cần em có thể hạnh phúc thì chị cũng hạnh phúc.”
Vanessa nhìn chăm chú vào cô. Nhưng trước khi cô có
thể hỏi chị mình đã có chuyện gì – rõ ràng là có cái gì đó – thì cánh cửa mở ra
và Katherine bước vào, mắt sáng ngời và đôi má đỏ hồng.
“Ho,” cô nói, áp một tay lên ngực. “Em hết cả hơi.
Em không biết nên trú trong nhà thờ khi bắt đầu mưa hay nên chạy về nhà để
tránh nó.”
“Chị cá là em đã chạy,” Vanessa nói, đứng lên.
“Và giờ em rất mừng về điều đó ,” Katherine vội vã
băng qua phòng để ôm lấy chị gái. “Em trông thấy cỗ xe của tử tước Lyngate đậu
trước cửa và mong là ngài ấy đưa chị đi cùng.”
“Anh ấy đã làm thế,” Vanessa nói, mỉm cười.
“Em không thể kể với chị là trông cả hai người đẹp đến
nhường nào vào ngày cưới của chị,” Katherine nói khi họ ngồi xuống . “Chị có
thích ba ngày ở bên hồ đó không?”
“Có,” Vanessa nói, hi vọng mình không đỏ mặt. “Nó là
một nơi êm đềm. Chị sẽ hết sức vui mừng được ở lại đó mãi mãi. Em có thích những
ngày đông khách khứa vừa qua không?”
Katherine chồm tới trước trong ghế một cách đột ngột
, gương mặt cô sáng lên với niềm vui thích.
“Ôi, Nessie,” cô nói, “chị không phải là người duy
nhất mới kết hôn đâu. Meg kể cho chị chưa? Một lá thư gửi cho sir Humphrey và
Lady Dew được gửi tới đây từ Rundle Park và thật may là đã đến vừa kịp trước
khi họ ra về sáng hôm qua. Meg đã kể cho chị chưa?”
“Chị ấy chưa nói.”
Vanessa liếc sang chị gái. Cô đang ngồi trở lại ghế,
hai tay ôm quanh người, một nụ cười hơi hé trên môi.
“Bức thư từ Crispin Dew,” Katherine nói.
“Ôi, Kate,” Vanessa thốt lên, “anh ấy không bị
thương gì chứ?”
Nhưng rồi cô nhớ đến cái cách mà đoạn đối thoại này
bắt đầu và ném một cái nhìn nữa về Margaret.
“Không, không có gì giống như thế cả,” Katherine
nói. “Anh ấy chỉ cưới vợ thôi. Đó là một cô gái người Tây Ban Nha. Niềm vui đã
tràn ngập ở đây trước khi xe ngựa lên đường về Throckbridge, như chị có thể tưởng
tượng. Mặc dù Lady Dew thấy buồn vì bà không thể dự đám cưới. Cũng như Eva và
Henrietta.”
“Oh,” Vanessa nói, mắt cô dán chặt vào Margaret. Chị
cô nhìn trả lại cô, nụ cười nửa miệng nhợt nhạt vẫn đọng trên môi.
“Em đã trêu chọc Meg,” Katherine nói. “Em nhớ là hồi
em còn nhỏ chị ấy và anh Crispin lúc nào cũng ngọt ngào với nhau – y như chị và
anh Hedley ấy.”
“Chị đã bảo Kate,” Margaret nói, “rằng chị thậm chí
không thể nhớ rõ trông anh ấy như thế nào. Và chuyện đó đã cách đây nhiều năm rồi
. Chị mong anh ấy hạnh phúc với cô dâu mới của mình.”
Và rồi Stephen và Elliott đến tham gia cùng họ trong
phòng khách và tất cả mọi người cùng uống cà phê và ăn bánh ngọt và trò chuyện,
giữa những câu chuyện khác, về London, nơi tất cả sẽ cùng ở đó trong một tuần tới.
Hai người sẽ không ở lại ăn trưa, Elliott nói khi được
mời. Anh có công việc phải giải quyết ở nhà trong cả buổi chiều.
Margaret, Stephen và Katherine đều xuống dưới nhà để
tiễn chân chị gái và anh rể mặc dù họ không bước ra sân hiên khi cơn mưa đã đổ
như trút nước.
Không có lấy một giây phút nào để Vanessa có thể nói
chuyện riêng với Margaret. Hoặc nếu như có – có thể họ đã nán lại trên cầu
thang và để những người khác đi xa khỏi tầm nghe – thì Margaret cũng chủ tâm né
tránh.
Một trong những điều trớ trêu nhất của cuộc sống,
Vanessa nghĩ khi leo lên xe và Elliott ngồi xuống cạnh cô. Cô đã lấy anh bốn
ngày trước đây để cho chị cô được tự do hi vọng.
Nhưng giờ đây mọi hi vọng đã tiêu tan mãi mãi.
Sẽ còn tốt hơn cho Meg nếu Crispin Dew bị giết trong
chiến trận.
Người ta ghét phải nghĩ tới một chuyện kinh khủng
như vậy, nhưng ngay cả thế..
“Em đang thấy nhớ nhà sao?” Elliott hỏi khi cỗ xe
lăn bánh xuống lối đi.
“Oh,” cô quay đầu và mỉm cười ấm áp với anh. “Không,
tất nhiên là không. Giờ đây Finchley Park mới là nhà em.”
Cô đưa tay ra và anh nắm lấy và giữ nó trên đùi mình
trong khi họ bắt đầu trở về nhà trong im lặng.
Bây giờ cô có lấy anh không, cô tự hỏi, nếu lá thư của
Crispin đến từ năm hoặc sáu tuần trước thay vì ngày hôm qua?
Hay lúc này người ngồi đây sẽ là Meg chứ không phải
cô?
Cô cảm thấy hơi ấm của đùi anh qua chiếc quần ống bó
và găng tay của cô, và cô âm thầm vui mừng vì lá thư đã không đến sớm hơn.
Sao anh ta có thể? Sao Crispin Dew có thể đối xử với
Meg tàn ác như vậy?
Cô khẽ nghiêng người và tìm sự nương tựa nơi bờ vai
vững chắc của Elliott. Cô vội vã nuốt xuống khi nghe thấy một tiếng nấc nghẹn
ngào trong cổ họng.

