Matilda - cô bé nghịch ngợm - Chương 02

Cái mũ
và keo siêu dính

Sáng hôm sau, trước khi ông bố rời nhà để đến garage bán xe hơi cũ,
Matilda lẻn vào phòng treo áo tìm cách lấy cho được cái mũ của ông ta vẫn đội
đi làm hàng ngày. Bé phải đứng nhón chân rướn người hết sức để đầu gậy với tới
chỗ cái móc có treo cái mũ. Cuối cùng thì bé lấy được nó xuống. Đó là cái mũ
chóp bằng, vành cong có đính chiếc lông chim giẻ cùi nơi nơi băng quanh mũ, và
ông Wormwood rất hãnh diện về nó. Ông ta nghĩ nó làm cho ông ta có dáng vẻ bảnh
bao, nhất là khi ông ta đội nó cùng với bộ vest carô sặc sỡ với chiếc cà vạt
màu xanh.

Matilda - một tay cầm mũ, một tay cầm ống keo siêu dính - bóp mạnh
cho keo xịt ra quanh vành trong của mũ. Sau đó, bé cẩn thận móc chiếc mũ lại chỗ
cũ bằng cây gậy dài. Bé canh giờ thật sát sao, dặt ống keo siêu dính về vị tr1i
cũ ngay lúc ông bố ăn sáng xong và đứng dậy.

Ông Wormwood không để ý gì khi đội mũ vào, nhưng lúc tới garage,
ông ta không thể nào bỏ mũ ra được. Keo siêu dính đã dính chặt tới nỗi nếu kéo
quá mạnh, da sẽ tuột ra. Ông Wormwood không muốn bị lột da đầu nên đành đội mũ
suốt cả ngày hôm đó, thậm chí, lúc ông ta nhồi mạt cưa vào hộp số và chỉnh lại
đồng hồ cây số của xe bằng máy khoan điện cũng phải đội nó. Để giữ thể diện,
ông ta chọn một thái độ ngang tàng, với hy vọng đồng nghiệp tin rằng ông ta cố
ý đội mũ suốt ngày, cho giống với bọn găngxtơ thường xuất hiện trong phim.

Tối đó, về tới nhà, ông ta vẫn không thể bỏ mũ ra được. Bà vợ bảo:

- Sao ngốc thế? Lại đây, em lấy nó ra giùm anh.

Bà Wormwood giật mạnh cái mũ ra. Ông chồng bật lên tiếng hét kinh
hoàng là rung hết những ô kính:

- Ôi-i-i! Đừng làm vậy!Buông ra! Bà bóc hết da trán của tôi rồi!

Matilda ngồi trong chiếc ghế quen thuộc, theo dõi màn kịch với vẻ
thích thú. Bé hỏi:

- Chuyện gì vậy, ba? Đầu ba đột nhiên phồng to ra à?

Ông bố nhìn trừng trừng Matilda đầy nghi ngờ, nhưng không nói gì.

Bà vợ nói với ông ta:

- Chắc là keo siêu dính rồi, không thể nào khác được. ANh cứ nghịch
ngợm với nó suốt ngày. Em đoán anh định dán thêm một cái lông nữa lên mũ phải
không?

- Tôi chẳng đụng tay tới đồ quỷ quái đó!

Ông Wormwood la lên. Ông ngoảnh đầu nhìn Matilda lần nữa, nhưng bé
nhìn trả lại ông bằng đôi mắt nâu mở to rất ngây thơ. Bà vợ vẫn giảng giải:

- Lẽ ra anh nên đọc kỹ nhãn hiệu trước khi nghịch ngợm với món đồ
nguy hiểm này. Luôn làm theo chỉ dẫn ghi trên nhãn.

Ông Wormwood ghì chặt vành mũ, không cho bà vợ đụng tay vào, hét to
hơn:

- Bà đang lải nhải cái gì vậy? Bà tưởng tôi ngốc đến nỗi cố ý dán
cái đồ quỷ này lên đầu tôi sao?

Matilda kể:

- Ở dưới phố có thằng bé bị keo siêu dính trét vào ngón tay. Nó vô
tình đưa tay lên ngoáy mũi.

Ông Wormwood nhảy dựng lên:

- Rồi sao nữa?

- Ngón tay mắc kẹt bên trong mũi của nó suốt cả tuần lễ liền. Ai gặp
nó cũng bảo: "Đừng ngoáy mũi nữa", nhưng nó có ngoáy mũi đâu? Nó giống
hệt một thằng ngốc.

Bà Wormwood trề môi:

- Đáng đời nó, lẽ ra nó không nên cho tay vào ngoáy mũi. Đó là thói
quen xấu. Nếu bọn trẻ con đều trét keo siêu dính lên ngón tay, chúng sẽ không
làm thế nữa.

Matilda nói:

- Người lớn cũng có làm, mẹ ạ. Hôm qua con thấy mẹ ngoáy mũi trong
nhà bếp.

- Mày lanh quá, đủ rồi đấy.

Bà Wormwood đỏ mặt, lầm bầm.

Ông Wormwood phải đội mũ suốt bữa ăn tối trước cái ti vi.

Trông ông ta thật lố bịch, và ông ta im lặng ăn.

Lúc sắp đi ngủ, ông ta cố kéo mũ ra khỏi đầu. Bà vợ lại giúp sức,
nhưng mũ vẫn không nhúc nhích. Ông gầm gừ:

- Làm sao tôi đi tắm được?

Bà vợ dỗ dành:

- Anh sẽ đi tắm khi nào lấy được nó ra khỏi đầu.

Sau đó, khi bà vợ nhìn thấy ông chồng gầy giơ xương của mình lên
giường trong bộ pyjama sọc tím với cái mũ trên đầu, bà nghĩ thầm, trông ông ta
ngốc nghếch làm sao. Đây là mẫu người chồng trong mơ của bà hay sao?

Ông Wormwood phát hiện ra rằng, điều tồi tệ nhất trong đời là đội
mũ trong lúc ngủ. Ông không thể nào nằm thoải mái trên gối được. Ông ta cứ lăn
qua lăn lại hàng giờ liền, khiến bà vợ phải càu nhàu:

- Anh đừng trằn trọc nữa. Ngủ đi. Em đoán sáng mai nó sẽ lỏng ra và
anh thoát được nó dễ dàng.

Nhưng sáng mai nó không chịu lỏng để cho ông Wormwood thoát ra. Thế
là bà Wormwood cầm kéo cắt phăng nó cho rồi. Bà ta cắt từng chút một, đầu tiên
là cái chóp, rồi tới xén cái vành. Vì dải băng bên trong bết chặt với tóc, bà
phải gọt sạch mớ tóc quanh viền mũ đi. Cuối cùng, ông chồng bị gọt một đường trắng
sát quanh đầu, trông giống hệt ông thầy chùa tóc cạo nham nhở. Phía trước, nơi
dải băng dính trực tiếp vào trán, thì bà vợ chừa lại những mảnh da mũ nho nhỏ
màu mâu mà chẳng có thuốc tẩy nào có thể tẩy sạch được nó cả.

Trong bữa ăn sáng, Matilda nói với ông bố:

- Ba phải tìm cách gỡ những mảnh da trước trán ba đi. Trông nó giống
như những con côn trùng màu mâu bò khắp mặt ba. Người ta sẽ nghĩ là ba có rận đấy.

- Im đi! Mày có câm miệng lại được không?

Ông bố càu nhàu nạt.

Nói chung, đó là một áp dụng thành công. Nhưng bảo rằng nó cho ông
bố một bài học, thì... quá hy vọng đấy!

Con ma

Sau màn kịch "Keo siêu dính", có một sự yên tĩnh tương đối
và ông ta tạm thời mất đi ý thích khoác lác hoặc bắt nạt trẻ con.

Rồi đột nhiên ông ta nổi chứng lại. Có lẽ hôm đó là ngày xấu ở chỗ
làm, và ông ta bán không đủ chỉ tiêu đề ra. Có nhiều chuyện làm người chồng cáu
kỉnh khi về nhà vào buổi tối, và người vợ tinh ý sẽ nhận ra dấu hiệu của bão tố,
sẽ để ông ta yên tới khi nào ông ta bình tĩnh.

Tối đó, khi ông Wormwood từ garage trở về nhà, mặt mũi ông tối hù
như đám mây giông, và chắc chắn sẽ có kẻ bị ông trừng phạt. Bà vợ nhận ra dấu
hiệu, bèn lánh mặt đi. Thế là ông ta bước vào phòng khách. Matilda đang cuộn
người trong chiếc ghế bành nơi góc phòng, hoàn toàn đắm mình vào cuốn sách. Ông
Wormwood bật ti vi. Màn hình sáng lên. Chương trình nhốn nháo, om sòm. Ông
Wormwood nhìn Matilda. Bé ngồi im. Bé đã tự tập luyện đôi tai khép chặt trước
âm thanh khủng khiếp của ti vi. Bé tiếp tục đọc sách và điều đó như khiêu khích
ông bố. Cơn tức giận của ông ta lên tới tột đỉnh khi thấy bé có được một sự giải
trí mà ông ta không thể nào vươn tới được. Ông nạt to:

- Chẳng lẽ lúc nào mày cũng đọc à?

Bé vui vẻ trả lời:

- Ồ, chào ba. Hôm nay ba làm việc tốt chứ?

- Rác rưởi gì đây?

Ông bố giật cuốn sách ra khỏi tay bé.

- Không phải rác rưởi đâu, ba. Nó hay lắm. Nó là cuốn "Chú ngựa
màu đỏ" của John Steinbeck, một nhà văn Mỹ. Ba thử đọc đi, ba sẽ thích cho
coi.

- Bẩn thỉu. Nếu cuốn sách đó do nhà văn Mỹ viết thì hẳn nó bẩn thỉu
lắm. Bọn họ chỉ viết về điều đó thôi.

- Không phải đâu ba. Thật sự là cuốn sách hay lắm. Nó nói về...

Ông bố gắt lên:

- Tao không muốn biết nó viết về cái gì cả. Tao chán ngấy việc đọc
sách của mày lắm rồi. Đi tìm việc gì khác có ích mà làm.

Rồi, đột ngột, ông bố bắt đầu xé từng trang sách và quăng chúng vào
sọt rách.

Matilda như hoá đá trong sự kinh sợ. Ông bố tiếp tục xé. Có chút
xíu nghi ngờ rằng ông ta cảm thấy ganh tức. Sao nó dám - ông ta nghĩ trong đầu
trong lúc tay vẫn xé - sao nó dám thích thú chuyện đọc sách khi ông ta chẳng
làm được? Sao nó dám? Matilda hét lên:

- Đó là sách của thư viện! Không phải sách của con! Con phải trả nó
cho bà Phelps!

- Vậy mày phải mua cuốn khác. Mày phải để dành tiền túi của mày cho
tới khi nào mua được cuốn mới trả cho bà Phelps quí hoá của mày.

Ông bố vừa nó vừa xé hết trang nọ sang trang kia. Cuối cùng ông ta
thả cái bìa sách rỗng vào giỏ rác, bước ra khỏi phòng, mặc cho cái ti vi om sòm
nhốn nháo.

Đứa trẻ nào trong hoàn cảnh Matilda cũng sẽ bật ra khóc. Nhưng bé
không khóc. Bé ngồi yên đó, trắng bệch, suy nghĩ. Dường như bé biết khóc lóc
hay hờn dỗi chẳng làm được gì. Điều duy nhất bạn cần làm khi bị tấn công - như
Napoleon từng nói - là phản công lại. Đầu óc tinh tế tuyệt vời của Matilda nghĩ
ra ngay ra sự trừng phạt mới thích hợp với các bậc cha mẹ độc ác kia. Tuy
nhiên, kế hoạch đó còn tuỳ thuộc vào việc con vẹt của thằng Fred có nói giỏi
như lời nó khẳng định hay không.

Fred là thằng bạn của Matilda. Nó được sáu tuổi và sống trong ngôi
nhà gần nhà bé. Ngày nào nó cũng kể lể về con vẹt biết nói tuyệt vời mà ba nó
đã tặng nó.

Chiều hôm sau, khi bà Wormwood lái xe rời khỏi nhà đi chơi lô-tô,
Matilda lật đật nhà Fred để điều tra. Bé gõ cửa và hỏi xem nó có vui lòng cho
bé gặp con chim nổi tiếng hay không. Fred bảo vui lòng. Nó dẫn bé vào phòng ngủ,
nơi có đặt chiếc lồng của con vẹt đẹp đẽ với bộ lông hai màu xanh và vàng.

- Nó đây. Tên nó là Chopper.

- Bắt nó nói đi.

Fred lắc đầu:

- Bạn không thể bắt nó nói được. Bạn phải kiên nhẫn. Nó sẽ nói khi
nào nó thích nói.

Cả hai đi vòng vòng, chờ đợi. Đột nhiên con vẹt nói:

- Xin chào, xin chào, xin chào.

Đúng là giọng nói của một người rồi! Matilda nói:

- Thật đáng kinh ngạc! Nó còn nói gì khác nữa?

- Hãy lắc xương ta đi!

Con vẹt bật lên câu thứ hai, nhái giống hẹt giọng nói của ma.

- Hãy lắc xương ta đi!

Fred khoe:

- Nó luôn nói câu này đó!

- Còn câu gì nữa không?

- Chỉ có thế. Nhưng bạn không cho là tuyệt vời sao?

- Tuyệt vời lắm. Bạn cho tôi mượn nó chỉ trong một đêm, được không?

- Không, không được đâu.

Matilda đề nghị:

- Tôi sẽ đưa bạn tất cả tiền túi tuần sau của tôi.

Ấy, đó lại là chuyện khác.Fred suy nghĩ vài giây rồi đáp:

- Vậy thì được. Nếu bạn hứa ngày mai trả nó lại cho tôi.

Matilda khệ nệ mang chiếc lồng chim to bằng cả hai tay, quay về
ngôi nhà vắng vẻ. Trong phòng ăn có chiếc lò sưởi to tướng, và bé đang cố nhét
lồng chim vào ống khói cho khuất mắt mọi người. Điều này không dễ dàng chút
nào, nhưng cuối cùng, bé đã làm được.

- Xin chào, xin chào, xin chào!

Con vẹt từ trên cao gọi xuống.

- Im đi, đồ điên!

Matilda khẽ nói với nó, bé lật đật ra ngoài để rửa sạch bồ hóng
khói đôi tay.

Tối đó, khi bà mẹ, ông bố, thằng anh và Matilda ăn tối trước phòng
khách như thường lệ, có tiếng nói thật to và rõ vang từ phòng khách ra tận hành
lang. Tiếng đó nói:

- Xin chào, xin chào, xin chào!

Bà mẹ giật mình, mặt mũi trắng nhợt, kêu lên:

- Harry! Có người trong nhà! Em nghe tiênghó nói!

Thằng anh hùa theo:

- Con cũng nghe nữa.

Matilda vội vàng tắt ti vi cái bụp. Bé nói:

- Suỵt! Nghe kìa!

Mọi người nhưng nhai, căng thẳng ngồi yên để lắng nghe. Tiếng nói
vang tới một lần nữa:

- Xin chào, xin chào, xin chào!

Thằng anh ré lên:

- Nó đấy!

Bà mẹ thì thào:

- Bọn trộm nhập nha! Chúng ở trong phòng ăn!

- Tôi cũng nghĩ thế!

Ông bố đáp, nhưng vẫn ngồi im. Bà mẹ thúc hối:

- Vậy đi bắt chúng đi, Harry! Đi thộp cổ chúng lại đi!

Ông bố không nhúc nhích. Dường như ông ta không vội vã lao tới đó để
trở thành vị anh hùng. Mặt mũi ông ta xám ngoét. Bà mẹ vẫn thì thào:

- Tới tóm cổ chúng nó đi! Có lẽ chúng đang quơ đồ đạc của mình.

Ông bố cầm khăn lau miệng một cách căng thẳng, hỏi:

- Tại sao tất cả chúng ta không cùng đi tới đó?

Thằng anh hăng hái:

- Chúng ta cùng đi. Đi nào, mẹ.

Matilda nói khẽ:

- Họ đang ở trong phòng ăn đấy. Con chắc chắn như thế.

Bà mẹ chộp cây que cời lửa. Ông bố vớ lấy cây gậy đánh golf dựng nơi
góc phòng. Thằng anh túm cây đèn bàn, dứt luôn sợi dây điện ra khỏi ổ cắm.
Matilda cầm theo con dao mà bé đang ăn. Cả bốn rón rén tiến về cánh cửa phòng
ăn. Ông bố đi sau lưng những người kia, cách một khoảng an toàn.

- Xin chào, xin chào, xin chào!

Tiếng nói lại vang ra.

- Xông vào!

Matilda thét to, bé lao vào phòng, tay cầm dao vung vẩy, miệng vẫn
thị uy:

- Bắt chúng lại! Chúng tao bắt được bọn mi rồi!

Những người khác đi theo bé, quơ vũ khí loạn xạ. Rồi tất cả dừng lại,
nhìn quanh phòng: chẳng có ai ở đây cả.

- Không có ai hết, - Ông bố nói, giọng nhẹ nhõm.

Bà mẹ thét lên, vẫn cò run lẩy bẩy chân tay:

- Em nghe tiếng hắn mà, Harry! Rõ ràng em nghe tiếng hắn! Anh cũng
vậy!

Matilda đồng tình với mẹ:

- Chắc chắn là con cũng nghe. Hắn chỉ ở quanh đây thôi.

Bé bắt đầu đi tìm phía sau ghế trường kỷ và phía sau những tấm màn
dày. Đột nhiên giọng nói lại cất lên, lần này vẻ ma quái hơn:

- Hãy lắc xương ta đi! Hãy lắc xương ta đi!

Mọi người nhảy dựng lên, kể cả Matilda nãy giờ đang đóng vai rất
khéo. Họ nhìn quanh căn phòng, vẫn chẳng có người nào xuất hiện. Matilda run giọng:

- Nó là ma đấy!

- Xin Chúa cứu chúng con!

Bà mẹ rú lên như thế, nhảy lại phía ông bố, ôm xiết lấy cổ ông ta.
Matilda bồi thêm một câu:

- Con biết nó làm ma đấy! Con đã từng nghe nó nói vài lần rồi! Căn
phòng này có ma! Con tưởng ba mẹ biết rõ điều đó.

- Hãy cứu chúng con!

Bà mẹ lại rú lên, hầu như muốn xiết chặt cổ ông chồng. Mặt mũi ông
bố xám xịt hơn bao giờ hết, ông ta nói:

- Ta ra khỏi đây đi.

Rồi mọi người cùng bỏ chạy ra ngoài và đóng sầm cánh cửa sau lưng họ.

Chiều hôm sau, maltida cố gắng kéo cái lồng chim dính đầy bồ hóng
đen thui ra khỏi ống khói, và đem nó rời khỏi nhà mà không để ai nhìn thấy. Bé
phải đi bằng cửa sau, liền một mạch tới nhà Fred. Fred toe toét hỏi:

- Nó cư xử phải phép chứ?

Matilda đáp:

- Chúng tôi có được khoảng thời gian thú vị với nó. Ba mẹ tôi thích
nó lắm.

Bài toán số học

Matilda mong muốn ba mẹ bé trở nên tốt, đáng yêu, và có hiểu biết,
đáng kính và thông minh. Việc họ không hề được một phẩm chất nào trong các phẩm
chất trên khiến bé phải chịu đựng. Nhưng chẳng dễ chút nào. Mỗi lần bé chế ra một
trò chơi mới để trừng phạt họ, điều đó làm cuộc sống bé đỡ khổ hơn.

Là đức con nhỏ nhất trong nhà, sức mạnh duy nhất nơi Matilda (mà
không ai có được) chính là sức mạnh trí tuệ của bé. Sự thông minh của Matilda
vượt trội hơn mọi người trong nhà. Nhưng trong bất cứ gia đình nào, một đứa trẻ
năm tuổi luôn bị buộc phải làm điều bé được bảo, cho dầu đó là những mệnh lệnh
ngốc nghếch. Thế là Matilda luôn bị ép buộc phải dùng bữa tối bằng khay nhôm
trước màn hình ti vi, luôn bị ở nhà một mình vào những buổi chiều, và luôn im lặng
bất cứ lúc nào bị bảo phải câm miệng.

Cách giúp bé trút bỏ mọi bực dọc của bé (giúp bé đỡ căng thẳng đến
phát điên) là niềm vui khi ban phát những sự trừng phạt đích đáng, và dường như
nó đem đến một hiệu quả nào đó. Ông bố bớt vênh váo và cộc cằn trong suốt nhiều
ngày, sau khi nhận được một thần dược của Matilda.

Vụ con vẹt trong ống khói làm dịu tính nết của ông bố lẫn bà mẹ, cả
hai đối xử tương đối dễ chịu với đứa con gái nhỏ của họ được một tuần. Nhưng,
than ôi, nó không kéo dài lâu. Một buổi tối, câu chuyện kế tiếp lại bùng nổ
ngay trong phòng khách. Ông Wormwood từ chỗ làm về. Matilda và anh trai ngồi
yên nơi ghế trường kỷ đợi bà mẹ bưng khay bữa tối lên. Ti vi vẫn chưa bật mở.

Ông Wormwood bước vào trong bộ vest sọc carô và chiếc cà vạt vàng
chói. Bộ áo ca rô sọc cam và xanh đọt chuối như muốn làm loá mắt những ai nhìn
nó. Ông ta giống hệt người chạy giấy ăn diện lên trong ngày cưới của con gái mình.
Và rõ ràng là tối nay ông ta rất hài lòng về bản thân.

Ông Wormwood ngồi phịch xuống chiếc ghế bành, xoa hai tay vào nhau,
nói lớn với đứa con trai:

- Này, nhóc, bố mày được một ngày thành công đấy. Tối nay bố mày
giàu có hơn sáng nay rất nhiều. Bố mày bán được năm chiếc xe, chiếc nào cũng được
lời đáng kể. mạt cưa trong hộp số nhé, máy khoan điện chỉnh lùi đồng hồ cây số
nhé, phun sơn mới lên vài chỗ và vài mánh khoé nho nhỏ nữa... Thế là bọn ngốc cứ
hăm hở bỏ tiền ra mua xe.

Ông ta rút trong túi ra tờ giấy nhàu nát, nghiên cứu vài phút rồi
nói tiếp với đứa con trai:

- Nghe này, vì rồi đây mày sẽ cùng làm ăn với tao, nên mày phải biết
cách cộng số tiền lời mày kiếm được mỗi ngày. Đi kiếm tờ giấy với cây bút chì,
rồi xem thử mày thông minh tới cỡ nào.

Đứa con trai ngoan ngoãn rời khỏi phòng, rồi sau đó cầm giấy viết
quay vào. Ông vừa đọc tờ giấy, vừa nói:

- Viết ra những con số này. Chiếc xe thứ nhất, mua hai trăm bảy
mươi tám bảng và bán được một ngàn bốn tăm hai mươi lăm bảng. Rồi chứ?

Thằng bé mười tuổi cắm cúi cẩn thận viết riêng hai con số ra hai cột.
Ông bố tiếp tục:

- Chiếc xe thứ hai, mua một trăm mười tám bảng và bán được bảy trăm
sáu mươi bảng. Hiểu chứ?

- Vâng, con hiểu rồi ba.

- Chiếc xe thứ ba, mua một trăm mười một bảng và bán được chín trăm
chín mươi chín bảng, năm mươi xu.

Đứa con trai nó:

- Nhắc lại đi ba. Nó bán được bao nhiêu?

- Chín trăm chín mươi chín bảng, năm mươi xu. Nhân tiện, đó là mánh
khoé nhỏ của tao để lừa khách hàng. Không bao giờ nói tròn số, luôn luôn phải
nói số thấp hơn. Đừng bao giờ nói một ngàn bảng. Hãy nói chín trăm chín mươi
chín bảng thôi. nghe số tiền ít hơn rất nhiều, phải không?

- Vâng, ba thật sáng chói.

- Chiếc xe thứ tư, tám mươi bảng - đúng là mảnh sắt vụn - nhưng bán
được sáu trăm chín mươi chín bảng năm mươi xu.

Đứa con trai vẫn viết, nhưng rên rỉ:

- Đừng nói nhanh quá, ba. Rồi, con xong rồi.

- Chiếc xe thứ năm, mua sáu trăm ba mươi bảy bảng và bán được một
ngàn sáu trăm bốn mươi chín bảng năm mươi xu... Mày viết hết nhưng con số đó rồi
chứ?

- Rồi, ba.

Đứa con trai vừa đáp vừa cúi người trên tờ giấy, nắn nót viết.

- Tốt lắm. Bây giờ tính xe mỗi chiếc xe được tiền lời bao nhiêu, và
tiền lời tổng cộng của năm chiếc xe là bao nhiêu. Sau đó, mày có thể nói cho
tao biết ông bố sáng chói của mày kiếm được bao nhiêu tiền ngày hôm nay.

- Một số tiền lớn đấy, ba.

- Tất nhiên là một số tiền lớn. Nhưng khi mày làm ăn lớn như tao,
mày phải thông thạo cách tính chứ. Tao có cả một cái máy tính ở trong đầu tao.
Không đầy mười phút, tao tính ra ngay con số đó.

Đứa con trai trợn mắt:

- Ba gắn máy tính trong đầu hả, ba?

- Không phải như thế. Nhưng có nghĩa là tao tính toán rất nhanh.
Khi nào làm xong, hãy nói cho tao biết số tiền lời của tao ngày hôm nay. Tao có
sẵn đáp số trong tờ giấy này rồi.

Matilda rụt rè:

- Ba, ba lời được chính xác là bốn ngàn ba trăm lẻ ba bảng và năm
mươi xu.

- Đừng nói chen vào. Tao và anh mày đang bận tính những con số lớn.

- Nhưng, ba...

- Câm miệng. Đừng tìm cách làm ra vẻ thông minh.

Matilda nhẹ nhàng nói:

- Hãy nhìn vào đáp số của ba. Nếu ba làm toán đúng, nó sẽ là bốn
ngàn ba trăm lẻ ba bảng và năm mươi xu. Có phải ba viết như thế không?

Ông bố liếc vào tờ giấy cầm trong tay. Ông hơi cứng người và ngậm
câm như hến. Căn phòng chợt im lặng. Rồi ông ta bảo:

- Mày nói lại xem.

- Bốn ngàn ba trăm lẻ ba bảng và năm mươi xu.

Lại yên lặng. Khuôn mặt ông bố bắt đầu đỏ sậm lên. Matilda vẫn nhẹ
nhàng:

- Con chắc là nó đúng.

Đột nhiên ông bố vừa hét lớn lên, vừa chỉ ngón tay vào mặt Matilda:

- Mày... đồ gian lận! Mày đã nhìn vào tờ giấy của tao! Mày đã đọc
được những con số tao viết trong này.

Matilda ngỡ ngàng:

- Ba, con ở bên này phòng, làm sao con có thể nhìn thấy được?

Ông bố vẫn hét tướng:

- Đừng cãi chày cãi cối với tao! Mày đã nhìn! Chắc hẳn mày đã nhìn!
Không ai trên đời này có thể tìm được đáp số đúng nhanh như thế, nhất là một đứa
con gái! Mày là đồ gian lận.

Vừa lúc đó, bà mẹ bưng mâm vào, trên mâm đặt bốn khay nhôm đựng thức
ăn của bữa tối. Vẫn là món cá và khoai tây chiên mà bà Wormwood mua ở hiệu cá
trên đường từ chỗ chơi lô-tô về nhà. Dường như việc chơi lô-tô làm bà kiệt sức
cả thể xác lẫn tinh thần, nên chẳng bao giờ bà ta còn đủ sức để nấu bữa tối
ngon lành. Luôn luôn là cá chiên và khoai tây chiên.

Đặt mâm lớn xuống bàn uống cà phê, bà ta hỏi:

- Sao mặt anh lại đỏ vậy, Harry?

Ông bố lấy phần khoai tây của mình, đặt nó lên đầu gối, đáp:

- Con gái bà là một đứa gian lận và dối trá. Thôi, bật tivi lên xem
và không nói năng gì hết.

Người đàn ông tóc bạch kim

Trong đầu Matilda, không hề có chút nghi ngờ rằng, buổi trình diễn
mới đây nhất của ông bố xứng đáng nhận sự trừng phạt thật khiêm khắc. Trong lúc
ăn món cá chiên và khoai tây chiên ghê tởm, đầu óc bé tiếp tục hoạt động liên tục.
Và khi chuẩn bị đi ngủ, bé đã quyết định xong.

Sáng hôm sau, bé dậy sớm, vào nhà tắm và khoá cửa lại. Như chúng ta
đã biết, tóc bà Wormwood được nhuộm màu vàng bạch kim, lấp lánh bạc hệt như màu
chiếc quần chẽn của người đi trên dây trong rạp xiếc. Công việc nhuộm tóc được
làm mới màu tóc bằng cách dùng loại thuốc nhuộm có tên THUỐC NHUỘM TÓC MÀU BẠCH
KIM SIÊU MẠNH. Chỉ có loại này mới làm cho màu tóc nâu xỉn được sáng lên tới tận
chân tóc. Chai THUỐC NHUỘM TÓC MÀU BẠCH KIM SIÊU MẠNH được cất trong tủ đặt
trong nhà tắm, và trên chai có dán nhãn CẨN THẬN, ĐY LÀ HOÁ CHẤT PEROXIDE -
TRÁNH XA TRẺ EM. Matilda đã đọc dòng chữ này nhiều lần với sự thích thú.

Ông bố Matilda có mái tóc đen ngắn, mái chẻ đôi mà ông ta cực kỳ tự
hào. Ông ta thường nhắc đi nhắc lại câu nói:

- Một mái tóc khoẻ mạnh cho thấy một trí tuệ minh mẫn bên dưới.

Có lần Matilda đáp lại:

- Giống Shakespeare.

- Giống ai?

- Shakespeare ạ.

- Ông ta có đầu óc chứ?

- Cực kỳ ạ.

- Vậy hẳn tóc ông ta rậm rạp lắm.

- Ông ta hói đầu ạ.

Tới đây thì ông bố nạt to:

- Nếu mày không nói được điều gì có ý nghĩa thì câm miệng đi.

Dù sao, ông Wormwood cũng ráng giữ cho mái tóc bóng đẹp (như ông ta
nghĩ thế) bằng cách xà xát lên đầu một lượng DẦU DƯỠNG TÓC HIỆU VIOLET mỗi buổi
sáng. Loại chai chứa hỗn hợp màu tím nặng mùi này luôn được đặt trên kệ, phía
trên bồn rửa mặt, cùng chỗ với mớ bàn chải đánh răng. Sau khi cạo râu, ông ta sẽ
chà xát đầu với DẦU VIOLET. Việc chà xát da đầu sẽ thường đi đôi với những tiếng
lầm bầm trong miệng, tiếng thở phì phò: "A ha, tốt hơn rồi đấy! Thấm vào tận
chân tóc đấy!" mà Matilda có thể nghe rõ mồm một từ nơi giường ngủ ở bên
kia hành lang.

Sáng hôm đó, trong phòng tắm, Matilda mở nắp chai DẦU VIOLET của
ông bố, đổ hết ba phần tư chai xuống lỗ thoát nước. Rồi bé trút THUỐC NHUỘM TÓC
MÀU BẠCH KIM SIÊU MẠNH của bà mẹ vào đầu chai. Bé cẩn thận chừa lại ít dầu dưỡng
tóc của ông bố, đủ để khi lắc lên, chất dầu vẫn có vẻ là màu tím. Bé cất hai loại
chai vào đúng vị trí cũ của nó, rồi rút lui ra ngoài.

Báo cáo nội dung xấu