Vương Quốc Bí Ẩn - Chương 08
Chương
8: Ngôi Nhà Xương
Họ
đáp xuống giữa màn đêm, trên một hòn đảo nhỏ ở ngay trung tâm một cái hồ bao la.
Timoken
dắt Gabar đến bên bờ biển đầy những vỏ sò lạo xạo ẩn mình dưới những gốc cây. Ở
đó, họ đã quá mệt mỏi vì chuyến bay, cả hai cùng chìm vào giấc ngủ.
Khi
tỉnh dậy, Timoken chạy ra bờ biển. Những vỏ sò trông có vẻ có giá trị và cậu đã
nhặt một ít cho vào túi trước khi đánh bạo đi xa hơn.
Làm
thế nào họ có thể biết được rằng, trong hàng trăm năm qua, bọn viridee đã dụ dỗ
khách đi đường và những người đánh cá đến hòn đảo vắng vẻ này. Tại đây, họ đã bị
cướp sạch tài sản và bỏ mặc cho đến chết. Khi bọn viridee trên đảo trông thấy
Timoken và Gabar đang bay về phía hòn đảo, chúng đã không thể tin được mình lại
may mắn như thế. Chúa Tể Degal sẽ vô cùng hài lòng về chúng, khi chúng dâng lên
cho hắn tấm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nơi đây sẽ là cái bẫy mà
Timoken không thể nào thoát ra được nữa.
Timoken
rời khỏi bãi biển và đi tha thẩn về phía những hàng cây. Mặt đất được che lâp bởi
một tấm thảm dày những bông hoa dại và những bụi cây lá rộng. Nhưng hòn đảo này
dường như không một sinh vật nào sinh sống, thậm chí Timoken không hề nghe thấy
một tiếng chim nào. Timoken bắt đầu hành trình khám phá hòn đảo. Để lại Gabar vẫn
còn ngủ say, cậu tìm đường xuyên qua những bụi rậm.
Một
ngôi nhà hiện ra ngay sau bụi rậm, Timoken tiến lại gần hơn về phía ngôi nhà.
Căn nhà xây theo lối kiến trúc hình trụ, với một mái vòm trắng, tường nhà ẩn những
sợi gân nhỏ bằng vàng, lấp lánh trong ánh mặt trời. Hai cái cột ở hai bên lối
vào hình vòng cung, được trang trí bằng những biểu tượng rất lạ. Timoken không
biết gì về chúng.
“Trong
ngôi nhà này có gì? Ai đã xây dựng nó?” Timoken đang lưỡng lự. Một linh cảm như
mách bảo cậu đừng nên tiến xa hơn, nhưng trí tò mò của cậu đã lấn át. Cậu bước
lên bậc tam cấp bằng cẩm thch dẫn vào cổng chính, rồi đi vào trong.
Ngay
lập tức, Timoken bị chìm trong bóng tối tràn ngập bên trong. Không một tia sáng
nhỏ nhoi nào lọt vào đây, dù bên ngoài cánh cửa đang tràn ngập ánh nắng mặt trời.
Timoken quay người lại. Cậu không thể nhìn thấy gì cả. Cánh cửa đã biến mất. Cậu
tiến về phía trước và chạm vào bức tường đá lạnh lẽo. Cậu đi lần theo bức tường
và tin chắc rằng mình sẽ tìm được cánh cửa, có một vết nứt - hay bất cứ thứ gì
báo hiệu có một khe hở. Cậu vấp phải những cành cây hay đá sỏi gì đó dưới chân.
Cúi người để tìm xem vật gì đang ở dưới đất, tay cậu nắm phải một vật hình trụ
dài và trơn nhẵn, với hai cái bướu tròn ở hai đầu. Timoken thả nó xuống và lại
tiếp tục vấp phải một cái nữa. Có rất nhiều những vật như thế ở đây: giống như
củi khô, đủ kích cỡ và cứng như xương.
Khi
Timoken chạm vào cái hộp sọ, cậu biết chắc rằng, những vật phát ra tiếng kêu
lách cách răng rắc ở dưới chân cậu là những khúc xương người. Chắc chắn là nhiều
hơn xương của một người. Hay đúng hơn là mặt đất phủ đầy xương người.
Timoken
hét lên sợ hãi. Nhung chỉ có Gabar là có khả năng nghe thấy tiếng cậu ở nơi
hoang vu này. Một con lạc đà có thể làm được gì chứ? Timoken cố gắng nghĩ ra một
phép thuật có thể giúp mình trong lúc này. Cậu có thể bay, cậu có thể gọi giông
bão, cậu có thể nói chuyện với bất cứ con vật nào trên thế giới, nhưng làm sao
cậu có thể thoát khỏi một ngôi nhà kinh khủng, đầy xương người? Cậu còn không
mang cả áo choàng mặt trăng để bảo vệ mình.
Nhưng
cậu có chiếc nhẫn. Cậu chạm tay vào chiếc nhẫn. Một quầng sáng mờ nhạt phát ra
từ ngón tay đeo nhẫn, khuôn mặt bé nhỏ của thần rừng đang nhìn cậu.
“Tôi
phải làm gì bây giờ?” Timoken nài nỉ. “Ngài có thể giúp tôi chứ?”
“Sức
mạnh của chúng ở nởi này rất lớn,” thần rừng buồn bã nói.
“Bọn
viridee?”
“Phải.”
“Ngài
nói là ngài sẽ giúp tôi mà,” Timoken gào lên. “Vậy mà ngài lại không làm được
gì sao?”
“Chúng
đang hút lấy sức mạnh của tôi,” giọng nói của thần rừng ngày càng nhỏ dần, gần
như chỉ còn là tiếng thở trong không khí. “Chúng mạnh quá.” Ánh sáng từ chiếc
nhẫn dần dần nhạt đi.
“Hãy
chiến đấu với chúng, thần rừng. Tôi xin ngài đấy. Hãy mạnh mẽ lên.”
Đôi
mắt của người nhắm lại, rồi đột nhiên, thần rừng chớp mắt “Gọi những con báo,”
ngài thì thầm.
“Tôi
không thể!” Timoken rên rỉ. “Chúng sẽ không thể nghe thấy tôi. Hơn nữa, làm sao
chúng tìm ra tôi chứ?”
“Tấm
tơ nhện đã tạo cho chúng sự khác biệt so với những con vật khác: phi thường,
tuyệt diệu và bất tử...” Giọng nói yếu ớt của thần rừng cũng tắt lịm. Ánh sáng
lờ mờ từ chiếc nhẫn cũng biến mất, cả không gian bao trùm bởi sự im lặng, nó
như đè nặng lên vai Timoken, làm cậu quỳ sụp xuống. Cậu đưa tay quét qua đống
xương, một cơn giận dữ bùng lên từ bên trong lồng ngực Timoken. Bọn viridee đã
lừa và giết bao nhiêu người trong cái nơi kinh tởm này? Cậu không muốn trở
thành một người trong số họ.
Cậu
nhớ lại ngôn ngữ của loài báo trong đầu mình, rồi dùng hết sức gầm lên một tiếng
thật to. Quả là một tiếng gầm khủng khiếp, đến nỗi cả người cậu run lên. Nó làm
cổ họng cậu như muốn vỡ tung và xé tan màn đêm tĩnh mịch này.
Một
lần, rồi một lần nữa, tiếng gầm của một con báo đang tức giận vang lên tận trần
nhà như muốn phá tung bốn bức tường xung quanh. Gabar nghe thấy âm thanh đó liền
đứng phắt dậy. Nó cảm thấy rất lo lắng. Timoken đã đi lâu lắm rồi. Tiếng kêu đó
nghe cũng rất đặc biệt. Đó rõ ràng là tiếng gầm của một con báo, nhưng tới đây
thì Gabar chắc chắn đây là tiếng của Timoken.
Con
lạc đà to lớn bắt đầu nặng nề lê bước qua những hàng cây, hướng về phía phát ra
tiếng kêu của loài báo. Một đám mây đen cuồn cuộn vắt ngang bầu trời, ánh mặt
trời cũng tắt lịm, trả lại cho hòn đảo bóng tối kinh hoàng của nó. Khi Gabar đến
trước ngôi nhà, nó đã không còn là một căn nhà xinh đẹp nữa. Nó xám đen và
không có vẻ gì là chào đón người lạ. Gabar tìm đến cái cổng dẫn vào nhà, nó
nghe tiếng kêu của Timoken phát ra từ đây, như tiếng của một con thú đang bị mắc
bẫy. Tại sao cậu ấy không thoát ra khỏi đó được?
Gabar
nghĩ, Một câu thần chú! Ngay khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu Gabar, những cái lá
của cây cọ bên trên và cây cỏ xung quanh bắt đầu thì thầm và rì rầm và cười
khúc khích và làu bàu gì đó.
“Gia
đình à!” con lạc đà sợ hãi gọi. “Bọn viridee!”
Timoken
nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng của con lạc đà, nhưng cậu không thể làm gì để
giúp nó được. Cậu lại gầm lên một tiếng nữa; tiếng kêu thật dũng mãnh và đầy
quyền lực khiến cho những con quái vật hung hăng đang định vồ lấy con lạc đà
cũng phải ngập ngừng tronng chốc lát trước khi tiếp tục tiến đến trong cơn thèm
khát.
Gabar
quay một vòng nhìn những tên viridee xanh lè gân guốc đang vây lấy nó. Những lọn
tóc ướt của chúng đung đưa qua lại, những cặp mắt đỏ ngầu như toé lửa, những
cánh tay dài lắc lư như những sợi dây leo.
“Lạc
đà!” một tên nói. “Hãy để chúng ta mang cái tránh nhiệm nặng nề ấy của ngươi
đi.”
Gabar
ngẩng cao đầu và rống lên. Nhưng những ngón tay như rễ cây của chúng đang hướng
về phía chiếc túi đựng áo choàng mặt trăng. Gabar quay đầu, cắn vào một cánh
tay khẳng khiu, nhai ngấu nghiến bằng những cái răng to bè của nó. Rồi nó đá một
tên bằng chân, gầm rú lên, xoay vòng vòng, khuấy động khoảng đất bằng đôi chân
điên tiết của mình.
Trong
ngôi nhà xương, Timoken nghe thấy tiếng kêu của con lạc đà. Tức giận và bất lực,
cậu trượt xuống sàn nhà, thu mình lấy hơi giữa đống xương tàn. Cậu nhắm mắt, gầm
lên một tiếng thật to để cổ vũ cho Gabar.
Một
tia sáng mỏng mảnh lóe qua mi mắt cậu. Tia sáng mạnh dần lên. Timoken mở mắt ra
và thấy ngọn lửa đang cháy bên ngoài bức tường. Chạm vào bức tường, nhưng chỉ cảm
thấy đá cứng, cậu lúng túng.
Ngọn
lửa bắt đầu lan nhanh vòng quanh ngôi nhà, làm cho Timoken có cảm tưởng cậu
đang ở giữa một đám lửa lớn. Giờ thì cậu có thể nghe được tiếng lửa cháy lách
tách. “Gabar!” cậu hét to. “Chuyện gì đang diễn ra vậy?rả lời cậu là tiếng gầm
của loài báo. Có ba tiếng gầm. Ba con báo đã đến.
Vòng
tròn lửa quanh cậu cháy bùng lên mạnh hơn. Timoken có thể cảm thấy được sức
nóng của nó xuyên qua bức tường. Cậu còn có thể ngửi thấy mùi đá cháy. Bức tường
bắt đầu nứt ra, những hòn đá vỡ ra, lăn xuống những bậc thang. Qua khe hở,
Timoken có thể nhìn thấy cây cối bên ngoài và Gabar, đôi mắt của nó đang mở to
kinh ngạc. Nhưng Timoken không thấy ba con báo đâu cả. Chúng chính là nguyên
nhân làm cho ngọn lửa cháy to hơn.
Timoken
đẩy và đá vào tường cho tới khi cậu tạo nên một khe nứt đủ rộng để có thể chui
lách qua. Những hòn đá nóng hừng hực, nên cậu phải khéo léo len người qua giữa
chúng để không bị cháy quần áo. Ngay khi cậu thoát được ra ngoài, cả tòa nhà sụp
đổ sau lưng cậu. Timoken cố vượt qua đám gạch đá bay tung tóe và đám đổ vỡ,
xuyên qua vòng lửa mà không có chút cảm giác nào.
Ngọn
lửa bắt đầu bùng lên cao. Trước mặt cậu là ba con báo. Chúng đứng bên nhau vai
kề vai: Mèo Mặt Trời, Cằm Lửa và Ngôi Sao.
“Các
em đã cứu mạng ta,” Timoken cảm kích nói.
“Cuộc
sống của chúng em là của cậu,” cả ba con mèo to đáp lại.
Mèo
Mặt Trời nói: “Đi thôi!”
“Nơi
này thật đáng sợ,” Cằm Lửa nói.
“Hãy
bảo trọng,” Ngôi Sao nói.
“Nhưng
các em... làm sao mà các em...?”
“Không
gì có thể làm hại được chúng em,” Mèo Mặt Trời nói.
“Chúng
em nhanh hơn cả gió,” Cằm Lửa nói.
“Chúng
em sẽ luôn luôn ở bên cậu,” Ngôi Sao nói.
“Vậy
chúng ta hãy rời khỏi đây thôi!” Cả ba cùng đồng thanh nó lộ rõ vẻ khẩn cấp.
Gabar
đã quỳ xuống, sẵn sàng cho Timoken leo lên lưng.
Timoken
nhìn quanh cảnh xung quanh mình, những hàng cây, những bụi cỏ xanh. Không có
bóng dáng của bọn viridee. Ba con báo đã báo trước cho họ nên tránh xa nơi này.
Những đám mây đen dần tan biến, nhường chỗ cho ánh nắng mặt trời, ngôi nhà
xương cũng chỉ còn lại một đống tro tàn.
Timoken
leo lên yên, Gabar đứng thẳng dậy, sẵn sàng cất bước.
“Ta
xin lỗi, Gabar!” Timoken nói. “Nhưng...”
“Tôi
biết, chúng ta phải bay tiếp,” Gabar nói. “Tôi rất vui vì điều đó.”
Timoken
không nhịn được cười. Gabar bao giờ cũng làm cậu thấy dễ chịu hơn trong hầu hết
những hoàn cảnh khó khăn đã xảy ra.
“Vậy
thì bay thôi!” Timoken nắm lấy chiếc bờm của Gabar và bay lên, thật nhẹ nhàng.
Khi
Timoken nhìn xuống, những chú báo đã biến mất, nhưng tiếng kêu của chúng với
theo cậu dọc theo dòng nước “Hãy thận trọng, Nhà Vua Trẻ! Hãy sáng suốt! Hãy bảo
trọng!”
Không
bao lâu thì Timoken nhìn thấy một đường dài màu xanh lá cây chạy dọc theo đường
chân trời cuối vùng hồ mênh mông. Lúc tới gần hơn, cậu thở phào nhẹ nhõm khi thấy
đó không phải là một rặng núi, mà là những bụi cây xanh mơn mởn được cắt tia thẳng
lối và những ngôi nhà mái bằng.
Họ
đáp xuống một bãi biển vàng cát, nơi những con tàu đánh cá đang neo bên cây cầu
tàu bằng gỗ. Hai ngư dân đang ngồi vá chiếc lưới của họ bên mép nước và một cậu
bé đang đội một giỏ đựng đầy cá trên đầu, đang đi từ cầu tàu về phía những khóm
cây.
Không
ai để ý đến sự xuất hiện lạ kỳ của con lạc đà.
Hai
người đánh cá chỉ tập trung vào chiếc lưới của họ mà không để ý gì đến những kẻ
lạ mặt. Họ c không quay đầu lại khi Timoken dắt Gabar đi vào những hàng cây.
Đây
là một nơi thật yên tĩnh. Ngoại trừ khu chợ thật là náo nhiệt, Timoken đổi một
nắm vỏ sò để lấy trái cây và đậu. Không ai tỏ ra bất ngờ khi thấy một cậu bé đi
cùng với một con lạc đà. Có lẽ họ nghĩ cậu là đầy tớ của một ông chủ giàu có. Cậu
đã quấn vạt áo choàng quanh đầu để giấu chiếc vương miện nhỏ bằng vàng.
Đây
có thể sẽ là nhà của mình không? Timoken tự hỏi. Không. Có gì đó đang thôi thúc
cậu. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn. Nó đã mất đi vẻ lấp lánh vốn có, khuôn mặt nhỏ
dường như đang buồn ngủ. Timoken tự hỏi, phải chăng bọn viridee quá mạnh, sinh
vật nhỏ bé này không thể đối phó được. Ông ta đã chết rồi sao?
Tối
hôm đó, khi Timoken ngồi dưới một gốc thông, Gabar đang nhai đậu sau lưng cậu,
Timoken với lấy chiếc túi và móc ra một viên ngọc trai. Cậu để viên ngọc chạy trong
lòng bàn tay trong một phút, rồi cậu định thử nhân đôi viên ngọc lên như cách
mà Zobayda đã làm. Nếu như thần rừng không còn nữa, thì câu thần chú sẽ không
có hiệu lực. Timoken dùng ngón tay xoay vòng quanh viên ngọc trai và thì thầm một
vài từ đơn giản bằng ngôn ngữ của vương quốc bí ẩn: “Hãy biến nó thành hai viên
ngọc! Hãy biến nó thành ba, bốn viên!”
Viên
ngọc trai lắc lư tới lui mấy lượt, và rồi, nó đột ngột tách ra làm hai viên. Rồi
ba viên. Rồi bốn viên. Timoken cảm thấy là chính cậu - Timoken - đã nhân bốn
viên ngọc trai bằng sức mạnh của mình chứ không phải nhờ sự giúp đỡ của chiếc
nhẫn.
Cậu
tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay mình, nắm chặt viên ngọc trai tay, đặt nó tựa
lên má. “Năm, sáu, bảy, tám,” cậu thì thì thầm. “Chín, mười, mười một, mười
hai.” Cậu tiếp tục đếm đến hai mươi. Cậu có thể cảm thấy rằng lòng bàn tay mình
dần đầy lên, những viên ngọc nở ra trong lòng bàn tay cậu. Khi cậu mở tay ra,
những viên ngọc trai ùa ra như suối.
“Mình
có thể làm được,” Timoken thì thào. “Mình có thể tự làm được.”
Một
tiếng thở dài yếu ớt vang lên từ chiếc nhẫn: “Cậu vẫn cần tôi sao?” Giọng nói của
thần rừng như tuyệt vọng.
“Tất
nhiên rồi,” Timoken cầm chiếc nhẫn lên và đeo nó lên tay mình. Tạo ra những
viên ngọc khiến cậu cảm thấy manh mẽ hơn, cậu thấy như mình đang là người bảo vệ
chiếc nhẫn, chứ không phải ngược lại.
Tràn
trề hy vọng, cậu quyết định tiếp tục cuộc hành trình của mình dưới ánh sao đêm.
Cậu đã học được cách dò tìm đường đi bằng những ngôi sao trời. Gabar cũng không
phản đối, thế là họ lại tiếp tục đi về phía bắc. Cả ngôi làng đang ngủ say,
ngay cả những chú chó cũng không biết được con lạc đà đã nhẹ bước xuyên qua
ngôi làng, ra ngoài con đường cát dẫn đến... Ai mà biết đến đâu?
Rạng
sáng hôm sau, họ đến được một ngôi làng khác và rồi ngày qua ngày, họ cứ đi mãi
cho đến khi đến bờ biển nọ. Dần dà, họ đến một đất nước hoàn toàn khác. Họ đi
qua những lâu đài cổ xưa và đền thờ đã đổ nát. Họ nhìn thấy kim tự tháp và những
bức tượng bị chôn một nửa trong cát. Bất cứ khi nào có cơ hội, Timoken cũng dùng
con dao cán ngọc trai để khắc lại cuộc hành trình của mình lên những nơi có thể.
Cậu vẽ những bức tranh của mình lên hầm mộ, hang đá, nền đất của một ngôi đền bỏ
hoang, thành lũy, bức tường trong vườn của tu viện. Rất nhiều lần, Charlie
Bone, cậu bé mà Timoken đã gặp trong vách hang động, cũng đến và trò chuyện với
cậu khi cậu đang vẽ.
“Con
đã tìm thấy người!” người nối dõi của Timoken thì thầm vào tai cậu. Timoken cười
vui sướng và rồi họ nói với nhau hết chuyện này đến chuyện khác, những câu chuyện
Timoken muốn kể cứ tuôn trào như suối nước. Những lúc như vậy, khuôn mặt lạc đà
kiêu hãnh của Gabar sẽ nhìn họ với vẻ không tán thành.
Một
ngày nọ, Timoken và Charlie đang ngồi với nhau trong một ngôi nhà kiểu La Mã đã
đổ nát, Timoken nói: “Tôi đã kể cho cậu nghe câu chuyện về đời tôi trong hon một
trăm năm qua, có lẽ cậu biết tương lai của tôi ra sao. Cậu có thể nói cho tôi
biết khi nào tôi sẽ chết không?”
Cậu
bé đang ngồi cạnh Timoken nhăn mặt: “Không,” cậu nói, “một người bạn của cháu
có tấm áo choàng gần giống như cái người đang khoác.” Cậu bé chạm vào tấm áo
choàng trên vai Timoken, “Nhưng nó màu nhung đỏ, không như màu áo choàng mặt
trăng của cậu.”
“Cậu
nói đỏ à?” Timoken cười. “Đỏ như thế nào?”
“Như
màu hoàng hôn.
Khi
Charlie đi rồi, Timoken vỗ nhẹ vào cổ của con lạc đà và nói: “Đừng làm vẻ mặt
khó chịu như thế, Gabar. Ta không thể cưỡng lại ý muốn nói chuyện huyên thuyên
với Charlie. Ta muốn được làm bạn với những đứa trẻ bằng tuổi mình, một người
giống như ta.”
Con
lạc đà nói: “Tôi cũng vậy.”
Timoken
cảm thấy có lỗi. Cậu biết rằng Gabar cũng rất nhớ đồng loại của mình. Nhưng cậu
có thể làm gì để giúp nó đây? Nếu cậu tìm cho Gabar một người bạn, làm thế nào
cậu có thể nhấc nổi hai con lạc đà khi bay? Gabar và cậu đã gắn bó với nhau từ
những sự việc họ từng trải qua, cùng với thời gian và đó cũng chính là tình
thương mà họ dành cho nhau.
Họ
cùng nhau chậm chạp tiến vào vùng thời tiết lạnh giá. Mùa đông đã tới, đó là lần
đầu tiên trong đời Timoken nhìn thấy tuyết. Cậu đã biết chúng như thế nào vì cậu
đã thấy chúng ở trên đỉnh núi khi cậu bay ngang qua, nhưng được ngồi trên lưng
lạc đà ngắm những bông tuyết mỏng manh nhẹ nhàng rơi xuống thì thật là tuyệt diệu.
Họ
vẫn đi về phía bắc, mỗi ngày, thời tiết như mỗi lạnh hơn. Timoken dừng lại đổi
lụa lấy một tấm mền len dày để phủ lên lưng Gabar và một tấm áo da cừu, một cái
nón lông cho cậu. Chẳng bao lâu thì họ đi đến một vùng đất đá cằn cỗi, gió từ
phương Bắc thổi về triền miên. Họ đành phải dừng lại trú đông trong một cái
hang, họ chỉ đi ra ngoài những khi cần thiết để đổi ngọc trai và vỏ sò để lấy
thức ăn. Những con báo có đến thăm họ một lần. Khi thấy mọi thứ đều ổn với
Timoken, chúng lại biến mất vào quanh cảnh xám xịt và lạnh lẽo, với lời hứa sẽ
luôn lắng nghe tiếng gọi của Timoken.
Khi
mùa xuân đến, Timoken và con lạc đà lại tiếp tục lên đường. Đôi khi họ dừng lại
ở rìa một ngôi làng cả năm trời, nhưng có những lúc, họ cố gắng đi thật nhanh,
rồi họ bay qua vùng biến mà Gabar nghĩ sẽ không bao giờ tới bờ. Họ bay cao lên
đỉnh núi, thời tiết ở đó lạnh đến mức lông của Gabar như đông lại thành những sợi
đá cứng, còn chiếc mũi của Timoken thì lạnh đến mức cậu nghĩ nó như sắp bị rụng
đi. Nhưng chiếc nhẫn vẫn thúc giục họ đi tiếp: “Nơi này vẫn chưa an toàn,” chiếc
nhẫn thì thầm.
Năm
mươi năm nữa lại trôi qua, Timoken quyết định sẽ không đi xa hơn nữa. “Chúng ta
đã đi quá xa rồi,” cậu phàn nàn với chiếc nhẫn. “N chúng ta cứ tiếp tục đi,
chúng ta sẽ rơi xuống rìa của trái đất mất. Khi ấy thì chắc chắn bọn viridee sẽ
không thể tìm thấy chúng ta.”
Đôi
mắt trên gương mặt nhỏ xíu chớp mắt: “Có điều gì đó mới mẻ,” nó nói, rồi giọng
nói pha chút niềm hối hận. “Chúng đã mở rộng phạm vi quyền lực của chúng.”
“Tôi
không hiểu,” Timoken nói.
“Tôi
nghĩ... Tôi cảm nhận... rằng một trong số đó là người.”
“Nếu
đó là một con người, thì ông ấy hay bà ấy không phải viridee.”
“Nhưng
cậu ta chính là viridee... còn nữa... trong hầu hết các khía cạnh thì cậu ta
trông giống con người.”
“Tên
viridee giống con người đó ở đâu? Tôi sẽ gặp hắn chứ?”
“Tôi
có thể nói như thế nào nhi?” giọng của thần rừng trở nên tiếc nuối. “Hãy tha thứ
à?”
“Tất
nhiên là ta sẽ tha thứ cho người. Nhưng ta phải làm gì đây?” Timoken nắm chặt
quả đấm vẻ thất vọng, “Tôi sẽ không bao giờ được cảm thấy an toàn với con người
sao? Sẽ không có một người bạn là con người sao?” Cậu nắm lấy chiếc nhẫn, như
thể muốn đổ lỗi cho nó. “Làm sao tôi nhận ra người đó khi tôi gặp hắn ta? Hắn
ta có dấu hiệu gì đặc biệt không? Bản chất thật của hắn có lộ ra trên mặt
không?”
“Câu
sẽ biết thôi,” chiếc nhẫn nói.