Vương Quốc Bí Ẩn - Chương 09
Chương
9: Cô Gái Trong Lồng Cũi
Vào
năm thứ hai trăm bốn mươi lăm của cuộc hành trình, Degal, chúa tể của bọn
viridee, quyết định du hành về phương Bắc. Những ngư
i vợ
của hắn ta đã chết hết rồi, nên hắn muốn tìm một người vợ mới. Nhưng lần này, hắn
muốn lấy một con người làm vợ. Chúa Tể Degal muốn có một đứa con có thể sống được
trong cái lạnh của phương Bắc, có thể đi trên tuyết và sống vui vẻ trong thời
tiết lạnh giá. Một người mẹ là con người có thể cho con mình những sức mạnh đó;
và đứa con đó sẽ mang những quyền lực thừa hưởng từ cha nó đi đến những lãnh địa
mà chưa một viridee nào từng đặt chân đến.
Chúa
Tể Degal nghe loáng thoáng rằng Bá Tước Roken của xứ Pomerishi có mười lăm đứa
con gái.
Đương
nhiên là vị bá tước muốn kén chồng cho tất cả những đứa con của mình. Ngài đã gả
đi tám người con, nhưng vẫn còn bảy cô gái chưa lấy chồng. Việc mua thức ăn và
quần áo cho bảy cô con gái trở nên thật đắt đỏ, họ rất cầu kỳ và xấu tính hơn
những người chị đã lấy chồng của mình. Có một lời đồn rằng vị bá tước đó đang
nôn nóng muốn tìm chồng cho những đứa con còn lại càng sớm càng tốt, ông sẵn
sàng bỏ qua những khuyết điểm về ngoại hình của chàng-rể-tương-lai, miễn đó là
một người đàn ông sở hữu một con ngựa là được.
Bá
Tước Roken sống ở một ngọn núi ở phía bắc châu u, nơi này, vào mùa hè, bão tuyết
cũng có thể xảy ra. Chúa Tể Degal chuẩn bị tinh thần rất kỹ. Hắn sai những tên
lính trinh sát chọn ra ba con ngựa phương Bắc khỏe mạnh, cùng với hai tên lính
theo hắn trong cuộc hành trình ra khỏi khu rừng. Trong túi của mình, hắn mang đủ
tiền vàng để mua áo lông, nón và giày ống để có thể chống chọi với thời tiết lạnh
giá ở phương Bắc.
Khi
bọn viridee đến được lâu đài của Bá Tước Roken, màu da xanh của chúng đã chuyển
thành màu xanh dương nhạt, một tên lính còn bị gãy một ngón tay như rễ cây vì
bàn tay bị đông cứng.
Vào
trong sảnh lớn, ba tên viridee dần dần chuyển từ màu xanh da trời nhạt về màu
xanh lá cây vốn có của chúng. Bá Tước Roken quyết định không để ý đến hình thù
kỳ lạ của chúng. Mặc một chiếc áo choàng màu-xanh-rừng-già, Chúa Tể Degal trông
thật oai phong. Không có một nếp nhăn nào trên làn da xanh, ẩm ướt của hắn, chỉ
có vài chỗ loang lỗ trắng, tóc của hắn ta vẫn còn màu xanh của rêu trong hồ. Bá
tước có vẻ hài lòng khi nghe người khách này đang tìm một người vợ. Ngài gọi những
đứa con gái của mình ra, Chúa Tể Degal nhìn kỹ từng người một, khi họ bước vào
trong sảnh. Ngay khi hắn trông thấy Adeliza, hắn biết đó là người vợ mình đang
tìm kiếm.
Adeliza
là người con gái đẹp nhất của Bá Tước Roken. Nhưng nàng cũng là người nhẫn tâm
nhất. Nàng có mái tócu vàng, đôi mắt màu xanh lá và đôi môi tựa như cây cung của
thần Tình Ái. Nhưng mười người đàn ông đã từ chối lấy nàng. Giọng nói của nàng
lạnh như đá, ánh nhìn lại lạnh lẽo, những chàng trai luôn bỏ chạy khỏi nàng như
những con chuột hoảng sợ. Nhưng Chúa Tể Degal thì không như thế. Hắn nhận thấy
một khí chất giống như mình tỏa ra từ nàng.
Về
phía Adeliza, nàng cảm thấy cuốn hút bởi cánh tay dài, không xương của Chúa Tể
Degal. Nước da xanh ngắt và đôi mắt đỏ ngầu kỳ lạ của hắn cũng trở nên quyến rũ
với nàng, và khi nàng nghe về chiếc ngai bằng ngọc lục bảo đen, nàng thật sự
nóng lòng muốn được kết hôn với hắn.
Đám
cưới được diễn ra vào ngay sáng hôm ấy, và ngày hôm sau, cặp đôi hạnh phúc đưa
nhau trở về Châu Phi.
Rừng
rậm ở Châu Phi nóng hơn nhiều so với sự tưởng tượng của Adeliza, nhưng nàng
không phàn nàn gì về điều đó cả. Nàng hạnh phúc khi sống trong những thứ trang
sức vô giá, những chiếc áo choàng lấp lánh và thích thú khi cả ngàn người hầu
lúc nào cũng chờ đợi để được nghe lệnh nàng.
Chúa
Tể Degal cũng rất hài lòng về người vợ mới của mình, và khi con trai của hắn
chào đời, hắn có thể nhận ra ngay từ cái nhìn đầu tiên rằng, đứa bé là tất cả
những gì hắn mong ước. Họ đặt tên cho đứa con là Harken, theo tên người ông của
Adeliza.
Đứa
bé lớn lên thành một cậu thiêu niên thật khỏe mạnh. Nó đẹp trai, nhung cũng thật
tàn nhẫn, xảo quyệt và phép thuật của nó cũng thật lợi hại. Ánh nhìn từ đôi mắt
màu xanh ô-liu của nó có thể làm người ta đông cứng chỉ trong vài giây. Nó có
thể biến thành con rắn, nó có thể tạo ra quái vật và có cả tài năng thiên bẩm
trong việc bỏ độc.
Khi
Harken mười ba tuổi, chúa tể Degal gửi nó về phương Bắc. “Cha muốn con tìm một
thằng bé người Châu Phi, cưỡi trên lưng một con lạc đà biết bay,” chúa tể của bọn
viridee nói. “Thằng nhóc đó đang sở hữu một vật vô giá, một vật có thể làm cho
nó mạnh lên gấp trăm lần.”
“Con
đã rất mạnh rồi,” Harken nói. “Còn con lạc đà thì không thể bay được.”
“Nhưng
con này thì có thể,” cha của nó nói. “Con không mạnh bằng thằng bé Châu Phi đó
đâu
Harken
nắm lấy vành tai mình: “Ồ? Vậy sao?”
“Thằng
bé đó có tấm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nó đã được nhúng vào sương đọng
trên một loài hoa quý hiếm, được ngâm qua nước mắt của một sinh vật đã tuyệt chủng.
Nó có thể bảo vệ cho người đang giữ nó khỏi bất cứ cuộc tấn công hay bất cứ vũ
khí nào trên thế giới.”
“Nhưng
không nó sẽ không chống lại được con đâu,” Harken nhíu lông mày kiêu ngạo.
Cha
của nó trò nên mất kiên nhẫn: “Làm sao con biết được?”
Harken
nhún vai.
“Tốt
hơn hết là con nên đi và tìm ra nó.”
Harken
lầm bầm: “Vậy thằng bé đó và con lạc đà bay ở đâu chứ?”
“Thuộc
hạ của cha nói là chúng đang đi về hướng một ngọn núi, cánh đây hai đại dương.”
Chúa Tể Degal hướng dẫn cho con con trai mình trên tâm bản đồ bằng da lợn rừng.
“Và còn một điều nữa,” hắn nói tiếp. “Chúng ta còn tin rằng thằng bé đó còn
đang sở hữu một cái lọ hình con chim. Cha không biết trong đó chứa cái gì,
nhưng cha nghĩ đó là một thứ có thể giúp chúng ta trường thọ, vì thằng bé ấy
không hề già đi trong hai trăm năm qua.”
Trí
tò mò của Harken càng trỗi dậy. Dẫn theo bốn tên lính viridee, nó rời khu rừng
và tiến về phương Bắc, quyết tìm cho được thằng bé cưỡi con lạc đà biết bay như
cha nó mô tả. Harken rất giỏi trong việc tìm kiếm mọi thứ. Nó không nghĩ mình sẽ
mất nhiều thời gian để tìm kiếm tâm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng và chiếc
lọ hình con chim.
Trong
vài tuần liền, Harken tìm ra một nơi rất gần với chỗ Timoken đã đi qua. Nhung họ
vẫn còn cách nhau một thung lũng rộng lớn, trong thung lũng ấy có một đám trẻ
có nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của Timoken.
Con
ngựa mệt lả kéo chiếc xe được phủ kín có mười một đứa trẻ đang ngồi bên trong.
Chiếc xe ngựa lắc lư, nghiêng ngả đang trên đường một thung lũng ở Pháp, điều
khiển chiếc xe ngựa là một người đàn ông mặc chiếc áo thấy tu có mũ trùm đầu
màu nâu. Nhưng bản chất của ông ta không giống như bộ quần áo đang mặc, ngược lại,
ông ta là một tên côn đồ. Cùng đi với ông ta là năm tên đồng bọn, cũng ăn mặc
giống như vậy, đang ở trong chiếc xe ngựa. Chúng có một con ngựa dự phòng được
cột dây dắt đi bên cạnh.
Mười
một đứa trẻ bị buộc với nhau ở cổ tay. Miệng của chúng đều bị nhét đầy giẻ và mắt
cá chân chúng cũng bị cột chặt đến mức da tróc cả ra và bị sưng phồng. Chúng
đang bị bắt cóc.
Bốn
đứa trẻ người Anh ngồi về một bên xe ngựa, chân chúng bị cột với bảy đứa trẻ
người Pháp ngồi đối diện - bốn trai và ba gái.
Phía
đuôi xe ngựa, bên cạnh những đứa trẻ người Anh là một cái lồng, trong đó còn một
đứa bé gái nữa. Cô bé mặc một chiếc váy dài màu xanh da trời, khoác một chiếc
áo choàng không tay màu nâu bằng lông. Mái tóc dài đến tận eo cô của cô được thắt
bím và buộc bằng nơ màu xanh. Cô bé ngồi cong chân về một bên, chúng chỉ trói
tay cô, còn chân và miệng thì không. Bọn bắt cóc chắc đã nghĩ rằng làn da của
cô có giá trị, vì thế chúng không muốn ghi dấu lên đó bằng dây trói hay giẻ
rách. Cô bé thật ra là con gái của người chiến binh nổi tiếng nhất ở vương quốc
Tây Ban Nha Castile, mặc dù bọn bắt cóc không biết điều đó.
Chiếc
xe ngựa đột ngột xốc manh, làm cho những đứa trẻ bên trong ngã nhoài vào nhau.
Chúng khó khăn tìm cách ngồi dậy, chờ xem chuyện gì sắp xảy ra. Chúng sẽ được
giải thoát hay tiếp tục bị hành hạ?
Ánh
trăng soi bóng hằn lên vách xe ngưa, hai người đàn ông xuất hiện ở đuôi xe. Họ
leo lên và lần lượt tháo khăn bịt miệng cho những đứa trẻ. Khi họ đi chen ngang
qua, họ thô bạo đá và xô dạt chân của những đứa trẻ. Một cô bé người Pháp bắt đầu
khóc, cậu bé ngồi cạnh khẽ nói: “Suỵt! Marie!” Những đứa trẻ còn lại đều im lặng.
Chúng biết rằng nếu khóc thì chúng sẽ không có bữa tối.
Những
miếng bánh mì đen được phát cho chúng.
Ban
đầu, việc ăn đối với chúng thật là khó khăn khi tay bị cột chặt vào nhau. Nhưng
chúng học được cách cùng dùng tay phải, còn tay trái thì bị kéo lên miệng của đứa
khác. Chúng cũng phải cẩn thận khi uống nước để không làm đổ ra sàn, cái bình
được chuyền tay từ đứa này sang khác.
Khi
đi đến cuối xe, một trong hai tên bắt cóc đi đái mở cửa cái lồng, để một lọ nước
vào bên trong. Hắn để thêm một mẩu bánh mì và phô mai cạnh lọ nước.
Hai
người đàn ông để mặc bọn trẻ và đi ra ngoài, một lát sau, tiếng lửa tí tách
vang lên. Bọn chúng thì thầm trò chuyện với nhau. Một tên nói: “Hai ngày nữa,
chúng ta sẽ có thể bán nó đi.” Một giọng nói khác đáp lại: “Mày kêu giá bao
nhiêu?” Bọn trẻ không nghe được câu trả lời. Lát sau, mùi thịt nướng đầy cám dỗ
bốc lên, bay tràn vào trong chiếc xe ngựa.
Cậu
bé người Anh lấy tay sờ vào bụng, liếc mắt qua lại. Cậu bé đó mới mười ba tuổi,
nhưng đã cao gần bằng một người lớn. Cha của cậu là một cung thủ, cậu bị bắt
cóc khi đang theo cha học hỏi để trở thành người như cha mình. Cậu bé cao lớn,
khỏe mạnh và luôn luôn thấy đói bụng.
Một
cậu bé khác có mái tóc màu đỏ đổng ngồi bên cạnh cái lổng nói: “Đừng chọc chúng
tớ cười, Mabon. Chúng sẽ phạt chúng ta đấy.”
“Mùi
thơm của thịt đã là một sự trừng phạt với tớ rồi,” Mabon nói.
Bé
Marie bắt đầu cười khúc khích. Henri, cậu bé ngồi bên cạnh, cũng cười đến nghẹn
bánh mì, và rồi tất cả cùng rung lên vì cố nén không để tiếng cười phát ra
ngoài.
Cậu
bé tóc màu đồng liếc nhìn vào cái lồng, tự hỏi không biết cô bé trong đó có
đang cười hay không. Cô bé chỉ mới đến ở cùng bọn nó có một ngày, cậu chưa bao
giờ nhìn thấy cô bé cười, kể cả khi cậu cố gắng giới thiệu tên mình với cô bé.
Cô
bé nhìn cậu, một lần nữa, cậu chỉ tay vào ngực minh: “Edem!”
Cô
bé đặt một tay lên ngực mình và nói: “Beri!”
Mọi
người cùng nhìn vào cái lồng. Đây là lần đầu tiên cô bé lên tiếng. Không ai biết
cô bé là người Anh hay người Pháp.
Đầu
tiên là Edern, sau đó đến Henri, cố hỏi xem cô bé đến từ. Cô bé không thể hiểu
được điều họ muốn nói.
Henri
nhún vai và nói: “Mysterieusei”*
*
Tiếng Pháp: Bí ẩn
Gereint,
cậu bé người Anh nhỏ nhất, bắt đầu cất tiếng hát thật kẽ. Cậu bé có một giọng
hát thật hay. Cậu hát bằng tiếng Latin, ngôn ngữ mà thầy dạy nhạc dạy cho cậu.
Bài hát như một phép thuật. Cô bé trong lồng nở một nụ cười thật đẹp, tựa vào
thanh chắn của cái lồng để lắng nghe. Cô bé nói rất nhiều, nhưng đó không phải
là tiếng Anh, cũng không phải tiếng Pháp.
“Có
lẽ cô ấy là người La Mã,” Mabon nói, khi đó cô bé ngồi xuống, vẫn mỉm cười với
Gereint.
“Người
La Mã đã chết hết rồi,” cậu bé ngồi cạnh Mabon nói. Tên cậu là Peredur. Với
khuôn mặt hẹp và bộ răng dài rất sắc, trông cậu ta như một con sói tóc vàng.
Trong
khi cả bọn đang tranh cãi và trò chuyện, Beri lại suy ngẫm xa xôi. Bài hát của
Gereint gợi cho cô nhớ đối một thánh đường ở Toledo. Lần cuối cùng cô bước vào
thánh đưòng là để tham dự đám cưới của một người họ hàng. Nhưng Beri không bao
giờ muốn kết hôn. Không bao giờ. Cô bé muốn khám phá cuộc sống nhiều hơn nữa.
Cô thích những cuộc phiêu lưu và sự sôi nổi. Chỉ có cha Beri mới biết cô là một
tay kiếm tài năng. Những buổi học của họ đều là bí mật.
“Nếu
mình có một thanh kiếm thì...” cô thì thầm một mình bằng ngôn ngữ Castilia.*
*
Castilian: tiếng Tây Ban Nha được sử dụng ở tỉnh Castile.
“IM
LẶNG!” Một tên bắt cóc xuất hiện. Hắn là tên hung ác nhất trong sáu tên. Khu mặt
hắn đầy sẹo, còn mũi của hắn thì bị bẹp ra sau nhiều năm đánh nhau.
Mabon,
cậu bé ngồi gần tên bắt cóc nhất hỏi: “Thưa ngài, làm ơn cho chúng tôi biết là
các ngài đang đưa chúng tôi đi đâu?”
Tên
bắt cóc trùng mắt nhìn cậu: “Mày đã hỏi bao nhiêu lần rồi hả? Tao nói rồi. Khi
đến nơi mày sẽ biết ngay thôi.”
“Làm
ơn hé lộ cho chúng tôi biết đi,” Peredur dũng cảm nói.
Tên
bắt cóc cười gian xảo: “Thôi được rồi. Chúng mày sẽ đi về phương Đông, nơi mà
những đứa con nít tóc vàng, da trắng như chúng mày sẽ rất đắt giá.”
“Giá
cả ư?” Edem nuốt nước bọt lo lắng.
“Nô
lệ!” Tên bắt cóc cười lớn hơn. “Tất cả chúng mày sẽ thành nô lệ, tao cho chúng
mày biết thêm là hàng dặm quanh đây không có một ngôi nhà nào đâu, vì thế đừng
kêu cứu vô ích.”
Tên
bắt cóc quay đi, bỏ mặc bọn trẻ chìm ngập trong sự im lặng. Bọn trẻ người Pháp
không hiểu tên bắt cóc nói gì, nhưng qua vẻ mặt khiếp sợ của những đứa người
Anh, chúng hiểu được rằng sự việc rất tệ.
Chiếc
xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh, Edem nói nhỏ với Peredur: “Tớ sẽ chạy trốn. Tớ
là đứa chạy nhanh nhất, nên có thể tớ sẽ thoát được. Cậu dùng răng cắn đứt dây
cho tớ được không, Perry?”
Peredur
nhe răng, khoe hàm răng sắc như răng sói của mình. Nó đưa phần dây nối tay nó
và Edern lên, gật đầu, cho dây vào miệng.
“Không
phải bây giờ,” Edern thì thầm. “Hãy chờ đến khi chúng ta đi qua một rừng cây
nào đó để tớ có thể trốn được. Ngoài kia còn quá trống trải.”
Gereint
nghe được cuộc nói chuyện của hai cậu bé, nó nói nhẹ nhàng: “Cậu chạy thật nhanh,
Edern. Cậu may mắn có thể thoát được. Nhưng còn chúng tớ thì sao? Cậu sẽ quay lại
cứu chúng tớ
“Tất
nhiên rồi. Tớ sẽ cứu tất cả các cậu.” Edern nhìn những gương mặt buồn bã xung
quanh mình. “Tất cả các cậu,” nó nhắc lại. Và rồi, nó nhìn vào cái lồng. Nó nhớ
ra rằng bọn bắt cóc đã bàn về cô ấy. “Chúng sẽ bán Beri đi trong vòng hai ngày
tới,” nó nói.
Nếu
không nhanh lên thì việc cứu cô gái trong lồng cũi sẽ là quá muộn.