Bùa may mắn – Phần 3:Luôn có mặt bên nhau trong lúc khó khăn-P4
9.Thay đổi ước mơ
Bạn có tin là có một
số người được gửi vào cuộc đời bạn để dạy cho bạn một bài học quan trọng không?
Tôi tin đấy! Một người đặc biệt như thế trong cuộc đời tôi là Katherine.
Lúc tôi gặp Katherine, tôi là một bà mẹ đơn thân luôn bận
tối mắt tối mũi, phải nuôi dạy ba đứa con rất hiếu động. Cuộc sống cứ như là
một cái đu quay trong khu vui chơi, gắn trên đó là công việc, là nhà cửa, là
các lịch làm việc, và các hoạt động. Ước mơ hão huyền nhất của tôi là một hoang
đảo, những ngày nắng ấm, một nguồn cung cấp vô tận những cuốn tiểu thuyết lãng
mạn, và một nơi tuyệt đối yên bình, tĩnh lặng.
Tôi bắt đầu nhận biết việc Katherine chuyển nhà đến sống
trong khu chung cư phức hợp của tôi là khi Amber, cô con gái bảy tuổi của tôi,
hỏi xin phép cho cô bạn mới của nó được ngủ qua đêm ở nhà tôi. “Được nha mẹ?
Tên bạn ấy là Joy, và bạn ấy mới cùng với mẹ bạn ấy chuyển đến sống ở căn hộ số
18.”
Tôi ngừng công việc làm bánh nướng nhân thịt của mình đủ lâu
để nhìn con mình. Đứng cạnh nó là một bé gái răng thưa rỉnh thưa rảng, tóc vàng
hoe, và có cặp mắt xanh lơ, đang lo lắng chờ câu trả lời của tôi. Tôi thở ra,
đầy cam chịu, rồi gật đầu đồng ý. “Đi lấy đồ của Joy vào đi. Chúng ta sẽ ăn tối
trong nửa giờ nữa.” Miệng toét ra cười sung sướng, hai đứa bé chạy vụt đi như
hai cơn lốc nhỏ. Tôi tiếp tục công việc chuẩn bị bữa ăn tối, lòng thầm ước mong
giá mình có thể đang ngồi ung dung gọi món bít tết trong một nhà hàng xinh xắn
Trong mới có vài phút thì chuông điện thoại reng. Katherine
gọi đến để tự giới thiệu và để xác định xem con bé con có được ở qua đêm tại
nhà tôi không. Khi chúng tôi trò chuyện với nhau, tôi nhận thấy thỉnh thoảng
những từ ngữ cô nói bị nhịu lại với nhau, và tôi thắc mắc không biết có phải cô
ấy có vấn đề về ngôn ngữ không. Tuy nhiên tôi chẳng có mấy thời gian suy nghĩ
về khả năng nói của Katherine. Tôi phải lo cho con cái ăn uống, phải giặt giũ
đồ đạc và bao thứ phải thực hiện vào buổi tối nữa. Vội nói lời tạm biệt, tôi
bắt đầu gọt khoai tây, lòng lại ước mong đến giờ khuya để tôi có thể rút vào
cái ốc đảo riêng tư mà tôi gọi là “thời gian của tôi”.
Kể từ lúc bắt đầu ấy trở đi, Joy và Amber không rời nhau.
Thi thoảng tôi lại trò chuyện với Katherine trên điện thoại, nhưng chưa bao giờ
kiếm đâu ra được thời gian để gặp cô ấy. Tôi có thoáng nhìn thấy cô ấy ngồi
trên một băng ghế cạnh sân chơi của khu chung cư, trò chuyện cùng đám trẻ, và
tự hỏi làm thế nào cô ấy xoay ra được thời gian cho cái hoạt động tầm phào như
thế kia chứ. Chẳng nhẽ cô ấy chẳng có nghề ngỗng gì? Hay chẳng có công việc nhà
nào để làm? Chẳng có lịch làm việc nào để thực hiện ư? Chà, sao tôi muốn biết
cái bí quyết tìm ra thời gian để chơi đùa ấy quá đi mất. Chơi ném banh và cười
đùa trong nắng hè chắc vui phải biết.
Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu để ý thấy Katherine có vấn
đề. Có những lúc lời cô ấy nói nghe thật khó hiểu. Cô ấy dường như hay loạng
choạng và mất thăng bằng. Cô ấy hay làm rơi đồ. Tôi không biết cô ấy có rượu
chè gì không, chẳng biết mấy đứa con gái ở với cô ấy có an toàn không nữa. Tôi
quyết định đã đến lúc bỏ thời gian ra để tìm hiểu về người phụ nữ này hơn nữa
và mời cô ấy đến ăn tối cùng gia đình.
Cái buổi tối Katherine và Joy đến nhà tôi ăn tối là thời
khắc quan trọng của đời tôi. Tôi ngắm cô ấy từ khoảng cách rất gần khi cô ấy
ngồi ở bàn, vây quanh là đám trẻ. Lời cô ấy nói hay bị đứt đoạn; động tác đều
đều, chầm chậm. Nhưng tôi không thể phát hiện ra hơi rượu trong hơi thở của cô
ấy, và cô ấy còn từ chối không uống ly rượu mà tôi mời.
Cô có vẻ hạnh phúc khi tập trung vào bọn trẻ, chú ý lắng
nghe những câu chuyện bọn chúng kể. Cô đặt câu hỏi cho chúng và nghiêm túc xem
xét các câu trả lời của chúng. Cô ấy chuyển từsang chủ đề khác, cố theo kịp
những suy nghĩ nhanh như chớp của bọn trẻ. Cô làm cho chúng khoái chí bằng
những câu chuyện vui về thời thơ ấu của mình.
Sau bữa ăn, bọn trẻ chạy ùa ra ngoài chơi trong ánh nắng hè
còn rơi rớt lại. Katherine và tôi bình thản bước theo ra. Cô bước đi chậm rãi
và cẩn thận, vừa đi vừa thổ lộ cuộc sống trước đây của cô, lúc cô còn đang là
một quản trị viên đang phát triển tài năng kết duyên cùng một người đàn ông
năng động, nổi bật. Cô kể cho tôi nghe một kiểu sống đầy những hoạt động xã
hội, những chuyến nghỉ mát, và những con người, những bối cảnh khác nhau. Cô đã
sống cuộc sống tôi hằng mơ ước nhưng chẳng bao giờ đạt được.
Chúng tôi ngồi trên một băng ghế cạnh sân chơi của bọn trẻ
và im lặng nhìn chúng chơi đùa. Tôi nghĩ, làm thế nào mà so sánh được cái cuộc
sống biết trước những chuyện gì sẽ xảy ra và chẳng lấy gì hứng khởi của tôi với
bức tranh mà Katherine vừa vẽ nên. Tôi thở dài nói với cô ấy sao tôi mong cho
lũ trẻ mau mau lớn. Đến lúc ấy tôi sẽ có thêm thời gian để làm những thứ cho
bản thân.
Một nụ cười nhẹ nhàng thoáng hiện trên gương mặt của cô ấy
khi cô trả lời, “Ước mơ duy nhất của em là không phải ở bệnh viện cho đến khi
Joy trưởng thành. Chị thấy đấy, em đang mắc phải căn bệnh xơ cứng mô mềm khắp
nơi. Nó cứ dần dần lan khắp cơ thể của em. Căn bệnh đã biến đổi hoàn toàn cuộc
sống của em. Chồng em không thể chịu được việc phải ăn ở với một người vợ tàn
tật, và em không thể tiếp tục được sự nghiệp của mình. Giờ đây tất cả những gì
em muốn là có thể nuôi dạy được con gái của mình. Em muốn chia sẻ với thế giới
của con nhiều hết mức có thể và càng lâu càng tốt. Em đã học được cách yêu quý
từng giây từng phút của mỗi ngày bên con, bởi vì em không biết những giây phút
ấy còn chừng bao nhiêu nữa.”
Katherine quay sang tôi, mỉm cười, và nói tiếp, “Chị đừng có
sống mà cầu mong rũ bỏ đi những gì chị đang có. Chị chẳng bao giờ biết được khi
nào nó sẽ mất đi đâu.”
Bóng tối ập đến chấm dứt cuộc trò chuyện của chúng tôi,
chúng tôi lo lùa các con đi tắm rồi đi ngủ. Đến khuya tối hôm ấy, trong thời
khắc yên tĩnh chập chờn trạng thái thức và ngủ, tôi vẫn có thể nghe thấy lời cô
ấy lởn vởn trong đầu và trong tim tôi, và tôi quyết định trân trọng những gì
tôi hiện có thay vì chỉ mong có sự đổi khác.
Thời gian trôi đi nhanh chóng như nó vẫn luôn thế. Joy và
Amber lớn dần, từ bé con qua tuổi thành niên. Tôi bỏ ra nhiều thời gian hết mức
có thể cho chúng và Katherine. Cuộc sống là một lăng kính vạn hoa gồm những
mảnh màu niềm vui, nỗi khổ. Với mỗi chặng phát triển của các cô con gái, có vẻ
như cơ thể của Katherine phải trả giá khi cô ấy dần sa sút cả về thể chất lẫn
tinh thần.
Ước mơ của Katherine đã được chấp nhận. Cô ấy có thể chứng
kiến cảnh Joy nhận bằng tốt nghiệp trung học, tiếp tục con đường học vấn cao
hơn và bắt đầu một sự nghiệp rực rỡ.
Một số ước mơ trong số rất nhiều ước mơ của tôi cũng được
chấp nhận. Con trẻ bây giờ đã lớn và đã tự lực cánh sinh, tôi có thời gian để
theo đuổi những gì tôi yêu thích. Tôi có được những đứa cháu quý báu giữ cho
tôi luôn phải chú ý đến những kỳ quan của thế giới, có bạn bè và gia đình để
yêu thương và để vui vầy. Và tôi luôn mang theo mình cái hiểu biết rằng tôi đã
có được những thứ tôi chẳng bao giờ ước ao… phần thưởng cho việc đã biết
Katherine và đã học được sự khôn ngoan của cô ấy.
LANA BROOKMAN
10.Một người bạn
Bạn bè có thể chuyển
đi xa - xa đến mức có thể các bạn chẳng bao giờ còn được gặp lại nhau nữa. Thế
nhưng họ mãi mãi vẫn là một phần của bạn.
Pam Brown
Chẳng hiểu thế nào mà cuối cùng tôi lại tình cờ ngồi kế
Julie trong một buổi hội thảo. Chúng tôi có cơ hội thuận lợi để kể những câu
chuyện về bản thân và nhận thấy rằng chúng tôi có chung một sự quan tâm: niềm
đam mê dành cho những mặt thuộc về tâm linh và “không thấy được” của cuộc sống.
Tôi nói với cô ấy tôi đang nghiên cứu về giấc mộng. Mối quan tâm này đã trở
thành chất keo gắn kết cuộc sống của chúng tôi lại với nhau. Cuối buổi hôm ấy,
chúng tôi trao cho nhau danh thiếp và hứa sẽ sớm gặp lại nhau.
Khi chúng tôi gặp lại và cùng đi ăn trưa, Julie vô tình đề
cập đến việc cô ấy hay bị đau quặn nơi bắp chân. Vài tháng sau đó là một quãng
thời gian thuộc về tình cảm và rất quan trọng trong cuộc đời của Julie. Càng
ngày cô càng khó cử động vì chứng đau và vì bị cứng cơ. Nhiều bác sĩ, kể cả
những nhà thần kinh học, ra sức chẩn đoán về tình trạng ngày càng thiếu kiểm
soát hai chân. Sau những cuộc xét nghiệm đau đớn như kéo dài mãi mãi, Julie vẫn
không có được kết luận nào về bệnh tình của cô. Cô bắt đầu tự nghiên cứu tìm
hiểu một mình.
Tôi chưa bao giờ thật sự hiểu căn bệnh Lou Gehrig là gì mãi
cho đến khi nghiên cứu của Julie cho thấy chính nó là căn bệnh âm thầm gây ra
những cơn đau cho cô. Cô giảng cho tôi nghe về những triệu chứng của căn bệnh,
cách chữa trị, những tác dụng phụ và tệ hơn hết là dự báo bệnh. Thật không may
là những nghi ngờ mà cô nghiên cứu tìm ra đã được khẳng định.
Năm năm sau ngày tôi quen Julie, cô biết thời gian còn lại
của cuộc đời cô rất ngắn. Nhiều cuộc trò chuyện của chúng tôi liên quan đến ý
niệm về cái chết và sự hấp hối, về việc cô không muốn là gánh nặng và muốn
thoát khỏi kiếp này một cách thanh thản. Những cuộc chuyện trò của Julie và
Chúa ngày một thường hơn. Gần đến phút cuối ấy, cô nghe thấy có giọng nói nói
với cô rằng đã đến lúc cô phải chuyển đến sống trong một dưỡng đường.
Đến lúc đó Julie thường nói đến việc rời khỏi trái đất này,
cô nói rằng cô đã sẵn sàng cho chuyến ra đi. Thế nhưng đấy là khoảng thời gian
đặc biệt khó khăn đối với tôi, vì tôi đã biết trân trọng những giây phút hiện
tại của cô ấy. Thời gian không còn nhiều cho cả hai chúng tôi. Bạn thân của tôi
đang trong giai đoạn hấp hối. Trong những lần viếng thăm nhau cuối cùng của
tôi, chúng tôi đã có một thỏa thuận. Cô ấy nói nếu hoàn toàn có thể, cô ấy sẽ
liên lạc với tôi sau khi cô ấy mất. Khi cô ấy mất, tôi phải đi công tác xa
thành phố và không thể hoãn được nên tôi đã không có mặt trong tang lễ của
Julie. Một tháng sau, chồng tôi và tôi đi nghỉ cuối tuần trong căn nhà nhỏ nơi
bãi biển. Ở đó tôi có thể xoa dịu nỗi đau của mình và hồi tưởng về người phụ nữ
dũng cảm và mạnh mẽ một cách kỳ lạ đã dạy cho tôi rất nhiều về điều kỳ diệu của
tinh thần con người.
Vào đêm thứ hai ở đó, tôi mơ thấy Julie thật sự đang đứng
trong phòng ngủ của chúng tôi. Cô ấy tươi cười, trông thật rạng rỡ và khỏe
khoắn như lần đầu tiên tôi gặp cô ấy. Cô mở rộng vòng tay, ôm lấy tôi thật
chặt, và cứ giữ lấy tôi, sau đó cô đẩy tôi ra xa để tôi có thể nhìn thấy đôi
mắt của cô và niềm vui lấp lánh trong ấy. Julie nói rõ ràng, “Chúng ta không
chết đi!” Điều này còn hơn cả một giấc mơ nữa – tôi biết mình đã trải nghiệm
được một điều gì đó rất thật. Nó tạo cảm giác là Julie đã liên lạc với tôi qua
cách này. Cô ấy biết sự nghiệp của cuộc đời tôi dựa trên nghệ thuật và những
giấc mơ. Tôi lay chồng dậy và kể cho anh nghe việc Julie đã đến thăm tôi, những
gì cô ấy nói và trông cô ấy tuyệt vời ra sao.
Trên đường về nhà, tôi không thể ngừng suy nghĩ về cái cảm
xúc của tôi và hình ảnh của Julie cứ hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi bật khóc và
nghĩ: Julie ơi, sức mạnh và sự dũng cảm đáng ngạc nhiên về tinh thần của cậu
làm lay động đến nhiều trái tim. Mình sẽ không còn là mình của trước đây vì
mình đã biết cậu.
Trước khi về đến nhà, chúng tôi ghé ngang qua văn phòng để
lấy thư cuối tuần. Tôi thấy có một tờ chương trình của ban tang lễ của Julie
gửi đến tôi. Khi tôi mở phong bì ra, trong đó là gương mặt tươi cười rạng rỡ
của Julie trên tờ bìa bao ngoài tờ chương trình. Đó chính là hình ảnh về cô mà
tôi đã nhìn thấy trong giấc mơ! Một bài thơ của người Mỹ da đỏ mà Julie đã chọn
trước ngày cô mất đi được in ở tờ giấy bên trong. Bài thơ bắt đầu bằng câu như
sau: “Đừng ngồi bên mộ tôi và khóc, vì tôi không có ở đó”. Và câu cuối cùng là:
“Đừng ngồi bên mộ tôi và khóc, vì chúng ta không chết đi.”
MARLENE KING