Bùa may mắn – Phần 3:Luôn có mặt bên nhau trong lúc khó khăn-P5

 

11. Một ấm trà tuyệt
hảo

Có những phút đầy ý
nghĩa trong cuộc sống của chúng ta mà hầu hết chúng ta có được nhờ sự khích lệ
của ai đó. Tôi không quan tâm xem một người có thể vĩ đại ra sao, nổi tiếng đến
đâu, hay thành công thế nào, vì những cái đó có được chỉ là do được cổ vũ.

George M. Adams

Đám đông gần hai trăm người săn hàng giảm giá nôn nóng xô
đẩy nhau giành lối vào căn phòng khách của khu nhà Withers. Nhiệt độ 32oC nóng
ngốt người không làm cho ai chùn bước.

Người phụ nữ điều hành cuộc mua bán, một người quen với tôi
từ lâu gật đầu chào khi chúng tôi đứng nhìn những kẻ săn hàng buổi sớm. “Cảnh
huyên náo này thật ghê gớm!” Bà cười tủm tỉm.

Tôi mỉm cười đồng tình. “Lẽ ra tôi không có ở đây đâu. Chưa
đầy một tiếng nữa tôi phải có mặt ở phi trường rồi,” tôi nói với người điều
hành cuộc mua bán.“Nhưng hồi tôi còn nhỏ, lúc mới có mười mấy tuổi, tôi đã đi
bán mỹ phẩm trong khu này. Và bác Hillary Withers là vị khách hàng đáng yêu của
tôi.”

“Thế thì chị lên gác xép đi,” bà đề nghị. “Có nhiều mỹ phẩm
cũ trên đó lắm đấy.

Thật nhanh tôi lách mình qua đám đông mỗi lúc một thêm dày
đặc và lên cầu thang đến tầng ba. Gác xép vắng hoe, ngoại trừ một phụ nữ bé nhỏ
luống tuổi đang ngồi ở chỗ mấy cái bàn chất đầy những túi màu vàng đủ mọi kích
cỡ.

“Điều gì đã khiến cô lên đến đây vậy?” Bà vừa hỏi vừa bật
nắp một lọ nước hoa. “Chẳng có thứ gì ở đây cả, ngoại trừ những sản phẩm cũ kỹ
hiệu Avon, Tupperware và Fuller Brush.”

Tôi khẽ hít một hơi thật sâu. Hương thơm không thể nào lẫn
được của nước hoa “Here’s My Heart” đưa tôi trở về thời gian gần hai mươi năm
trước.

“Sao thế này, đây là chữ viết của tôi!” Tôi thốt lên, mắt
nhìn chòng chọc vào một tờ biên lai được đính vào một trong những chiếc túi ấy.
Cái túi chưa được đụng đến ấy chứa các loại kem và nước hoa nhẹ trị giá hơn một
trăm đôla – cuộc mua bán đầu tiên của tôi và bác Withers.

Tôi nhớ lại vào cái ngày thứ Sáu xa lắc ấy, tôi rã cẳng đi
chào hàng khắp mọi nhà trên cái đại lộ rộng lớn trồng cây hai bên đường ấy đến
gần bốn tiếng đồng hồ nhưng không một quý bà nào mời tôi vào nhà. Thậm chí vài
người còn sập cửa vào mặt tôi. Khi tôi nhấn chuông căn nhà cuối cùng, tôi chuẩn
bị tư tưởng cho câu từ chối giờ đã trở nên quen thuộc.

“Thưa bà. Cháu là người đại diện mới của hãng Avon,” tôi lắp
bắp khi cánh cửa gỗ sồi hé mở. “Cháu có một số sản phẩm tuyệt vời muốn giới
thiệu với bà.”Cuối cùng cũng lấy được dũng khí để nhìn vào mặt người phụ nữ
đang đứng ở cửa, tôi mới nhận ra đó là bác Withers, một giọng ca soprano thanh
thoát và phúc h trong dàn đồng ca của nhà thờ chúng tôi. Tôi hay ngắm nghía những
bộ váy, những cái nón xinh đẹp của bác và mơ một đến ngày nào đó tôi cũng mặc
những trang phục có phong cách như bác.

Chỉ mới trước đó hai tháng, khi tôi phải đi đến một thành
phố xa xôi để giải phẫu não, bác Withers đã gửi đến cho tôi cả một cơn mưa những
tấm thiệp xinh đẹp. Một lần nọ bác còn đưa vào thiệp một câu trong Kinh thánh:
“Nhờ có Đức Giêsu Kitô, đấng ban sức mạnh cho con, con có thể làm được mọi
thứ.” Tôi luôn mang tấm thiếp đó trong chiếc ví may bằng vải vinyl đỏ của tôi.
Cứ khi nào thầy cô giáo của tôi nói với tôi rằng tôi sẽ chẳng bao giờ lên được
đại học là tôi lại lấy tấm thiệp ấy ra và nghiền ngẫm lời viết trong đó, thầm
lặp đi lặp lại lời hứa ấy.

Tôi đã tin vào câu trích ấy, kể cả khi thầy cô của tôi cứ
nói mãi rằng, “Roberta à, với bao nhiêu là buổi học mà em đã vắng, em chẳng bao
giờ có thể theokịp đâu.” Có lẽ thầy cô cho rằng tốt hơn hết là đừng để tôi mơ
mộng quá nhiều, vì tôi đang khốn khổ với một căn bệnh rối loạn thần kinh nghiêm
trọng.

“Ồ Roberta đấy à, vào đi cháu,” giọng bác Withers du dương.
“Bác cần cả một triệu lẻ một thứ ấy chứ. Bác rất vui khi cháu đến gặp bác.”

Tôi nhẹ nhàng ngồi lên chiếc ghế sofa trắng tinh không một
vết bẩn của nhà bác và kéo dây kéo cái túi xách bằng vải tuýt của tôi bên trong
đựng đầy những mẫu mỹ phẩm chỉ với năm đôla là có thể mua được. Ngay khi tôi
trao cho bác tờ quảng cáo các mặt hàng bán, tôi cảm thấy như mình là cô gái
quan trọng nhất thế giới.

“Bác Withers ạ, chúng cháu có hai loại kem, một là dành cho
da hồng hào, còn cái này là dành cho da vàng vọt,” tôi giải thích với sự tự tin
giờ đã quay trở lại.“Và chúng cũng rất tuyệt cho các nếp nhăn nữa.”

“À hay quá, hay quá,” bác cứ lặp đi lặp lại

“Thế bác muốn thử loại nào hả bác?” Tôi hỏi trong khi tay
bắt đầu chỉnh bộ tóc giả che đi phần sọ có vết sẹo do giải phẫu giờ đây tóc
đang mọc lởm chởm.

“Ồ, chắc chắn bác sẽ cần mỗi thứ một lọ quá,” bác trả lời.
“Thế còn nước hoa thì cháu có những thứ gì?”

“Bác thử loại này đi ạ. Họ gợi ý là bác nên bôi nước hoa
ngay mạch đập này để có hiệu quả tối ưu,” tôi hướng dẫn bác, tay chỉ vào cổ tay
đeo đầy vàng và kim cương của bác.

“Chà, Roberta, cháu thật có hiểu biết! Chắc là cháu phải học
mất nhiều ngày đấy nhỉ! Cháu thật là một cô gái trẻ thông minh!”

“Bác thật sự nghĩ thế hả bác Withers?”

“Ừ, bác thấy thế mà. Thế cháu sẽ làm gì với số tiền kiếm
được?”

“Cháu sẽ để dành để học đại học. Cháu muốn làm một y tá có
bằng cấp,” tôi trả lời và thấy ngạc nhiên về lời lẽ của mình. “Nhưng hôm nay
cháu lại nghĩ nên mua trước một chiếc áo len tặng mẹ nhân dịp sinh nhật. Mẹ
luôn đi cùng cháu lúc cháu đi chữa bệnh, và khi mẹ con cháu đi xe lửa đi khám
bệnh thì một chiếc áo len sẽ rất tuyệt đối với mẹ.”

“Tuyệt lắm Roberta à, cháu thật biết nghĩ. Giờ thì cho bác
biết cháu có những sản phẩm nào trong dòng sản phẩm quà tặng nhé?” Bác hỏi và
yêu cầu mua hai thứ cho mỗi loại sản phẩm mà tôi giới thiệu với bác.

Đơn đặt hàng của bác trị giá đến 117,42 đôla. Có phải bác ấy
thật sự muốn mua nhiều như thế không nhỉ? Tôi thắc mắc. Nhưng bác mỉm cười và
nói, “Bác rất mong ngày nhận hàng đấy nhé Roberta. Cháu nói là thứ Ba tới phải
không?”

Khi tôi sửa soạn ra về thì bác Withers nói, “Trông cháu có
vẻ đói ngấu rồi đấy. Cháu dùng chút trà trước khi về nhé? Ở nhà bác mọi người
ai cũng nghĩ trà là ánh sáng ở dạng lỏng.”

Tôi gật đầu rồi đi theo bác Withers vào căn phòng bếp sạch
sẽ của bác, dáng vẻ đầy tò mò. Tôi ngắm nhìn bác một cách chú tâm khi bác sửa
soạn một bữa tiệc trà, giống y như những buổi tiệc trà tôi hay thấy trong phim
ảnh, chỉ dành riêng cho tôi. Bác cẩn thận châm nước lạnh vào siêu nước, đun sôi
nước vừa tới, rồi bác cho lá trà vào hãm đúng năm phút. “Có thế hương thơm của
trà mới dậy,” bác giải thích.

Tiếp theo bác sắp một bộ đồ uống trà bằng sứ rất tinh tế lên
một khay bạc, bánh kem dâu và những vật tuyệt đẹp xinh xắn nữa. Ở nhà đôi khi
gia đình tôi có uống trà ướp lạnh trong những cái ly để uống xirô, nhưng tôi
chưa từng có cảm giác như mình là một công chúa được mời đến dự tiệc trà chiều
như thế này.

“Bác ơi, cháu xin lỗi, chẳng lẽ không có cách pha trà nào
nhanh hơn hả bác?” Tôi hỏi. “Ở nhà cháu toàn dùng loại trà túi lọc.”

Bác Withers choàng tay quanh vai tôi. “Trong cuộc sống có
những thứ không nên vội,” bác nói. “Bác đã học được một điều rằng pha một ấm
trà đúng nghĩa rất giống việc sống một cuộc sống làm hài lòng Chúa trời. Có mất
công thêm một chút, nhưng luôn đáng cháu ạ. Thử lấy cháu làm ví dụ nhé. Cháu có
vấn đề về sức khỏe. Sao cháu vẫn đầy quyết tâm và khát vọng y như một bình trà
hoàn hảo.Nhiều người có cảnh ngộ như cháu sẽ bỏ cuộc, còn cháu thì không. Và
với sự giúp sức của Chúa, cháu có thể thực hiện được bất kỳ điều gì cháu đặt ra
trong đầu đấy Roberta à

Đột nhiên chuyến hành trình ngược thời gian của tôi kết thúc
khi người phụ nữ trong căn phòng áp mái nóng và ẩm này hỏi, “Cô cũng biết bà
Hillary Withers à?”

Tôi quệt dòng mồ hôi trên trán. “Vâng… có lần tôi bán cho
bác ấy một vài thứ mỹ phẩm. Nhưng tôi không tài nào hiểu được tại sao bác ấy
chẳng bao giờ sử dụng hay cho chúng đi cả.”

“Bà ấy đã cho đi nhiều lắm rồi ấy chứ,” người phụ nữ bình
thản trả lời, “Nhưng chẳng biết sao mà một số thứ lại bị quên lãng và cuối cùng
lại nằm ở đây.”

“Nhưng tại sao bác ấy mua chúng mà lại không dùng chúng?”
Tôi hỏi.

“À, bà ấy chỉ mua một hiệu mỹ phẩm đặc biệt để dùng thôi.”
Người phụ nữ nói bằng một giọng thì thầm ra chiều bí mật. “Bà Hillary rất dễ
mềm lòng trước những người đến nhà bán hàng. Chẳng đời nào bà ấy xua họ đi. Bà
thường bảo tôi, ‘Tôi có thể cho họ tiền nhưng chỉ tiền không không mua được sự
tự trọng. Thế nên tôi cho họ một ít tiền của tôi, dành một tai để lắng nghe họ,
và chia sẻ tình yêu thương cùng những lời cầu nguyện của tôi. Chị chẳng bao giờ
biết được một sự động viên khích lệ dù chỉ là rất nhỏ có thể làm được gì cho
một con người đâu.”

Tôi tạm ngừng lắng nghe và hồi tưởng lại việc buôn bán mỹ
phẩm của tôi đã phát triển ra sao kể từ lần đầu tiên gặp bác Withers. Tôi đã
mua cho mẹ cái áo len mới từ khoản hoa hồng có được khi bán hàng, và tôi vẫn để
dành được chút ít cho ngân sách học đại học của tôi. Thậm chí tôi còn giật được
giải thưởng bán mỹ phẩm cấp quốc gia và ở một số tỉnh thành nữa. Cuối cùng thì
tôi cũng đã đi đến hết được chặng đường đại học bằng khoản tiền tự kiếm được và
thực hiện ước mơ trở thành y tá có bằng cấp của mình. Sau đó tôi còn lấy một
bằng thạc sĩ rồi một bằng tiến sĩ.

“Bác Withers cầu nguyện cho tất cả những người này sao?” Tôi
vừa hỏi vừa chỉ ra hàng chục chiếc giỏ giao hàng đã sờn cũ theo thời gian được
đặt trên bàn.

“Đúng đấy,” cô ấy khẳng định với tôi. “Bà ấy làm thế mà
không cầu mong có ai đó biết được việc ấy.”

Tôi thanh toán món hàng tôi mua cho người thu ngân ấy – cái
túi đồ mỹ phẩm tôi đã bán cho bác Withers và một cái mặt dây chuyền bằng vàng
nho nhỏ hình trái tim. Tôi xỏ cái mặt ấy vào một sợi dây chuyền vàng mà tôi
đang đeo trên cổ. Rồi tôi thẳng tiến đến phi trường: chiều tối hôm ấy tôi có
một cuộc thảo luận về y tế ở New York.

Khi bước vào căn phòng ở khách sạn tráng lệ ấy, tôi đi thẳng
lên bục diễn giả và đưa mắt quét một lượt biển người bên dưới – các chuyên gia
y tế từ khắp mọi miền đất nước hội tụ về đây. Bất chợt tôi thấy bất an như trong
cái ngày xa xưa ấy, cái ngày vác mỹ phẩm đi bán vòng vòng trong khu phố giàu có
không quen thuộc ấy.

Mình có thể làm được không? Đầu tôi đặt câu hỏi.

Ngón tay tôi run run lần lên mặt dây chuyền. Nó bật mở, bên
trong là hình bác Withers. Tôi lại nghe những lời nói dịu dàng nhưng rõ ràng và
mạnh mẽ: “Với sự giúp sức của Chúa, cháu có thể thực hiện được bất cứ điều gì
cháu đặt ra trong đầu đấy, Roberta à.”

“Xin chào,” tôi từ từ mở lời. “Cám ơn các bạn đã mời tôi đến
nói chuyện về việc đưa sự “chăm sóc” vào việc chăm sóc sức khỏe. Người ta
thường nói rằng công việc chăm sóc chính là tình yêu được thể hiện ra mọi
người. Nhưng sáng hôm nay tôi lại học được một bài học không ngờăng lực của
tình yêu thầm lặng được thể hiện trong bí mật. Loại tình yêu ấy được thể hiện
không phải để cho mọi người thấy mà là vì điều tốt đẹp mà nó có thể mang lại
cho cuộc sống của những người khác. Đôi khi một số hành động thể hiện tình yêu
quan trọng nhất của chúng ta không được nhận thấy. Cho đến khi chúng có thời
gian để ngấm, thời gian để hươngthơm của chúng tỏa ra.”

Thế rồi tôi kể cho các đồng nghiệp của tôi câu chuyện về bác
Hillary Withers. Tiếng vỗ tay vang dậy trước sự ngạc nhiên của tôi. Tôi thầm
cầu nguyện,Con cám ơn Chúa và cám ơn bác, bác Withers.

Tất cả đã bắt đầu bằng một ấm trà tuyệt hảo.

ROBERTA MESSNER

 

12.Thịt xông khói và
trứng

Một số bạn bè chỉ là
bạn bè, nhưng một người bạn đúng nghĩa còn gần gũi hơn cả người thân gần nhất
của ta.

Sách Châm ngôn 18:24

Tôi đang đứng nơi mấy cánh cửa dẫn đến sân vận động có mái
che của trường trung học của tôi, nhạc ầm vang, khán đài đầy nghẹt người thân
và bạn bè. Tôi lo lắng đứng chờ để bước vào và lòng vừa vui vừa hồi hộp âu lo.
Giây phút này tôi đã chờ đợi từ lâu lắm.

“Cậu căng thẳng à?” Có ai đó đứng phía sau hỏi tô

Tôi quay lại và nhìn thấy mái tóc uốn xoăn tít màu nâu của
Beth Ann, bạn cũ của tôi ở trung học phổ thông.

“Ừ, một chút. Cảm giác là lạ thế nào ấy,” tôi nói.

“Ừ mình biết. Cứ như mới hôm qua đây bọn mình còn chơi trò
thịt xông khói và trứng vào giờ ra chơi vậy,” bạn nói, miệng cười rạng rỡ.

“Thịt xông khói và trứng” là trò chơi ngày nào chúng tôi
cũng chơi vào giờ giải lao. Trò chơi gồm hai người ở hai xích đu khác nhau khóa
tay và chân lại với nhau chặt hết mức có thể và những người khác sẽ đẩy họ đi
khắp hướng để cố làm cho họ sút ra. Dù có bị đẩy hung bạo ra sao nhưng Beth Ann
và tôi chẳng bao giờ để sút ra. Chúng tôi luôn gắn chặt với nhau không rời.

Tay ai đó đưa ra và huých vào người tôi. Đến lượt tôi đi ra
rồi. Khi tôi quẹo ngang cái góc tường, những gì tôi nhìn thấy là hàng ngàn
người và những gì tôi nghe thấy là bài hát “Pomp and Circumstance”. Trước giờ
tôi đã nghe bài hát này cả chục lần, nhưng lần này nó thật có ý nghĩa. Nó như
chiếm hết toàn bộ cơ thể tôi, và trái tim tôi như đập theo những nốt nhạc. Nước
mắt đong đầy khi tôi nhận ra đây là lần cuối cùng tôi còn được đi cùng bạn bè
của mình. Tôi đi bên dưới những vòng cung gắn đầy hoa và quẹo xuống phía bên
cánh gà để đến chỗ của mình. Khi tôi ngồi xuống, tôi hít thật sâu và quan sát
mọi thứ quanh mình – mọi người đang hò reo và vẫy tay; trái tim tôi vẫn đập
theo bài hát; mọi bạn bè cũ nơi trường phổ thông trung học của tôi trong mũ mão
và áo choàng tốt nghiệp; tấm biểu ngữ của lớp tôi. Tấm biểu ngữ ghi: “Kết thúc
một thập kỷ, một thế kỷ, một thiên niên kỷ, khởi đầu một giấc mơ.” Vào thời
điểm đó tôi sắp lớn lên và trở thành con người mà tôi muốn. Mặt khác, điều đó
cũng có nghĩa là bỏ lại mọi thứ phía sau.

Buổi lễ thật dài, và nóng – rất nóng. Áo choàng của tôi sũng
mồ hôi, và nó làm tôi ngứa ngáy. Tôi khản cả giọng vì cứ gào thét tên các bạn
khi tên các bạn được xướng lên, và miệng tôi đau cả lên vì cười những thầy cô
nào sau bốn năm học vẫn phát âm nhầm tên chúng tôi. Tôi toét miệng đến tận mang
tai khi nhận bằng tốt nghiệp v nhìn thấy bố và mẹ đang nhìn tôi với ánh mắt tự
hào. Và dĩ nhiên cứ mỗi khi có ai nhắc đến ngày này là ngày cuối cùng của chúng
tôi, tôi lại bật khóc. Nhưng tôi vẫn giữ được bình tĩnh cho đến phút cuối.

Khi đi từ từ ra khỏi sân vận động, tôi nhìn những người đã
tác động đến cuộc đời tôi suốt những năm qua, những người mà tôi sẽ luôn mang
theo trong lòng. Tôi nhìn bố mẹ tôi, gia đình tôi, thầy cô giáo, và cuối cùng
là người bạn thân ở trường phổ thông của tôi.

Suốt những năm qua chúng tôi đã lớn lên và đi theo những lối
riêng của mình. Nhưng Beth Ann nói đúng. Mọi thứ vẫn như ngày hôm qua chúng tôi
chơi trong sân trường với nhau và mơ đến ngày lên trung học mà đến lúc này
dường như vẫn còn xa lắm.

Tôi nhớ cái lúc Beth Ann và tôi ngồi bên ngoài nơi lối dẫn
vào các cánh cửa của trường chúng tôi. Chúng tôi vừa mới chơi xong trò lò cò và
đang ném mấy viên đá qua bãi đậu xe.

“Tớ chẳng thể nào chờ được đến lúc lên trung học,” tôi nói
khi đang quệt mồ hôi trên trán.

 Nắng rất nóng và rọi
xuống chân tôi. Tôi đang mang đôi giày Jelly màu hồng chói mới toanh mà tôi nằn
nì mẹ mua hàng bao tuần.

“Mình cũng vậy. Và khi có được bằng lái xe, bọn mình có thể
chạy xe đến nhà nhau và đi xem phim hoặc đi bơi bất cứ khi nào mình muốn,” Beth
Ann mơ màng.

“Tớ biết. Tớ chẳng thể chờ được. Bọn mình sẽ đi mọi nơi với
nhau… bọn mình sẽ luôn bên nhau,” tôi hứa.

“Bạn thân của nhau mãi mãi,” Beth Ann nói.

“Ừ… bạn thân mãi mãi,” tôi gật

Chúng tôi ngồi nơi lối vào ấy mà lên kế hoạch cho tương lai
với nhau – nơi chúng tôi sẽ đi, những điều chúng tôi sẽ làm và người mà chúng
tôi sẽ cưới. Chúng tôi còn lên kế hoạch kết hôn cùng thời điểm với nhau đối với
những người bạn thân như chúng tôi. Chúng tôi có kế hoạch dạy cho con cái chơi
trò “Thịt xông khói và trứng,” rồi dạy chúng cách không bao giờ để sút ra.

Khi tôi đi ra khỏi khán đài, tôi nhớ lại mọi kế hoạch mà
chúng tôi đã lập ra nơi mái trường phổ thông. Tôi nhận ra rằng không có kế
hoạch nào trong số chúng trở thành sự thật. Nhưng có một nơi trong tim tôi vẫn
muốn chúng được thực hiện. Tận sâu trong tâm trí tôi, kể cả sau khi tất cả
những năm tháng ấy có cách xa, tôi vẫn thầm hy vọng chúng tôi sẽ luôn bên nhau.

Tôi đi theo hàng người rồng rắn vào căn-tin của trường để
gặp gia đình và bạn bè. Tôi nhận hàng ngàn cái ôm và chụp hàng trăm tấm hình.
Tôi bị lôi đi cả triệu hướng, nhưng tôi vẫn nhớ những ngày học phổ thông cùng
với Beth Ann, những lời hứa và những mơ ước của chúng tôi khi còn nhỏ. Tôi phải
nói lời giã biệt rồi.

Tôi đi kiếm bạn ấy trong đám đông. Tôi nhìn quanh đến cả
mười phút, và khi tôi sắp bỏ cuộc, tôi đi vòng qua cái góc và bạn ấy kia rồi,
đang bị một đám người vây quanh. Tôi đi về phía bạn ấy và lôi bạn ấy ra một
góc.

“Beth này…”

Giờ đây chúng tôi gọi bạn ấy là “Beth” vì bạn ấy cảm thấy đã
lớn hẳn so với cô bé “Beth Ann” ngày nào.

“… Mình không biết phải nói gì đây. Mình nghĩ mình cảm thấy
như mình phải gặp cậu và nói lời tạm biệt.”

Ngay khi tôi nói những từ cuối cùng “tạm biệt”, bạn ấy kéo
tôi tới gần và ôm tôi thật chặt. Chúng tôi ôm nhau chỉ khoảng vài phút mà chừng
như nhiều tiếng đồng hồ. Khi chúng tôi buông nhau ra, cả hai đều mọng n

Bạn ấy thì thầm với tôi, “Tớ chỉ muốn cám ơn cậu về những kỷ
niệm ấy. Tớ yêu cậu. Tớ sẽ nhớ cậu…” Bạn ấy nhìn chăm chăm vào đôi mắt nhòe lệ
của tôi và bấu chặt mấy ngón tay tôi khiến chúng đỏ ửng cả lên. “Tớ sẽ chẳng
bao giờ quên cậu được.”

“Tớ sẽ chẳng bao giờ quên cậu…” tôi lặp lại khi chầm chậm để
mấy ngón tay tuột dần ra khỏi tay bạn. Cuối cùng thì tôi cũng đã có thể đi được
rồi. Tôi quay người và đi khỏi.

Đêm hôm đó một mình tôi đi ngang qua mấy cánh cửa trường
trung học, mọi suy nghĩ từ khắp nơi ùa về. Tôi nhận ra rằng khi tôi bước ra là
tôi đang bắt đầu một cuộc đời mới – một cuộc đời không có những người bạn thân
thiết nơi mái trường phổ thông, một cuộc đời với những người bạn mới và những
mối quan hệ mới, và hy vọng đó là một cuộc sống “Thịt muối xông khói và trứng”
với những người bạn có thể giữ nhau thật chặt như Beth Ann đã làm.

BETH DIESELBERG

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3