Lạc lối - Lời bạt phần 2 (Hết)

3. CÁC SINH VIÊN NỮ LỰA CHỌN BÁN THÂN VÌ NHỮNG LÝ DO NÀO

Theo
nghiên cứu của tôi, tình trạng bán thân ở sinh viên là một câu trả lời
đáp lại những tan vỡ khác nhau, ít nhiều đáng nhớ, trong chuyện đời của
họ. Vì vậy, những lý do và động cơ đã thúc đẩy họ tới sự lựa chọn này có
thể thay đổi từ người này sang người khác, góp phần làm phong phú thêm
các dạng sinh viên nữ bán thân.

Đối
với một số, như hình ảnh Laura, bán thân trước hết thuộc về một mục
đích “vị lợi” - kiếm tiền - để tiếp tục theo đuổi chuyện học hành. Với
một số khác, nó là hiện thân của một dạng “giấc mơ bị cấm đoán” cho phép
họ từ bỏ những giá trị gia đình truyền thống. Cuối cùng với một số khác
nữa, đó đúng ra là một cách “trả thù” những người đàn ông mà họ đã giữ
mối quan hệ tự nguyện. Thông qua những thực tế phong phú này (nhưng
không phải là tất cả), chúng ta có thể rút ra ba dạng thức tan vỡ: những
tan vỡ xã hội và tài chính, những tan vỡ đối với đạo đức gia đình, và
những tan vỡ đối với các mối quan hệ yêu đương tự nguyện. Rõ ràng những
dạng thức này không cố định, và ở một số sinh viên nữ hội tụ hai hoặc ba
trong số những tan vỡ này.

a) Những tan vỡ về mặt xã hội và tài chính - Những nữ sinh viên sẵn sàng làm tất cả để thành công

Để
trang trải chuyện học hành, trả tiền thuê nhà hay qua giai đoạn cuối
tháng, các sinh viên nữ chọn cách bán thân. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến hành vi này chắc chắn liên quan tới tình trạng nghèo đi ở giới
sinh viên. Về vấn đề này, Guillaume Houzel - chủ tịch hội đồng Quan sát
Đời sống Sinh viên (OVE) - cho biết: “Từ vài năm nay, chúng tôi nhận
thấy một áp lực ngày càng tăng đối với sức mua của sinh viên. Cùng với
sự tăng giá bất động sán, chi tiêu cho chỗ ở của họ cũng tăng lên… nhưng
học bổng thì không(26).” Theo báo cáo của Dauriac(27) về
tình trạng kinh tế bấp bênh của sinh viên, 100.000 học sinh ở bậc giáo
dục đại học sống dưới chuẩn nghèo được xác định ở mức khoảng 650 euro
một tháng một người. Theo OVE, có lẽ có hơn 45.000 học sinh hiện đang
sống trong tình trạng rất nghèo khổ, và 225.000 khó nhọc để trang trải
được chuyện học hành của mình(28).
Nên nhắc lại rằng tình trạng nghèo đi này tác động đến một nhóm sinh
viên nào đó, như những sinh viên mà bố mẹ họ không muốn hoặc không thể
ủng hộ về mặt tài chính, và vì vậy những sinh viên này phải tự xoay sở
một mình - hoặc gần như thế - để đáp ứng các nhu cầu của bản thân và
theo đuổi chuyện học hành.

(26) Jean-Marc Philibert, “Tình trạng bán thân lan đến ghế giảng đường”, Le Fifaro, ngày 30 tháng Mười 2006, trang 11.

(27)
Jean-François Dauriac đã liên tiếp là gián đốc Crous của học viện
Créteil (từ năm 1992 đến măn 2001) sau đó là học viện Versailles (đến
năm 2004). Năm 2000, Claude Allègre - khi đó là bộ trưởng bộ Giáo dục
quốc gia - ủy thác cho J.-F. Dauriac xây dựng thực trạng tình trạng kinh
tế của sinh viên tại Pháp nhằm đưa ra một “Kế hoạch xã hội sinh viên”.
Jean-François Dauriac, Ghi chép tổng kết báo cáo trình bộ trưởng bộ Giáo
dục quốc gia,Nghiên cứu và Công nghệ về việc triển khai kế hoạch xã hội
sinh viên, Paris, 2000.

(28) Jean-Marc Philibert, tác phẩm đã dẫn. - Nước Pháp hiện có 2 200 000 sinh viên.

Như
hình ảnh Laura, những cô gái hộ tống là sinh viên xuất thân từ tầng lớp
bình dân hoặc trung lưu, chịu một số thiếu thốn trong cuộc sống sinh
viên hiện tại, về mặt xã hội và tài chính, chúng ảnh hưởng - tương đối
mạnh mẽ - đến quá trình học đại học của họ. Mà đối với những sinh viên
này, thành công về mặt học vấn là quan trọng hàng đầu. Ngoài sự thỏa mãn
cá nhân, theo đuổi việc học đại học tạo cho họ khả năng củng cố hoài
bão của mình - như “trở thành một ai đó” - và đảm bảo một lối sống
“thoải mái” hơn lối sống mà họ đã từng biết trong gia đình mình. Trong
khi đó, những nữ sinh viên này, và cả gia đình họ đều không có đủ nguồn
tài chính để đáp ứng đầy đủ hoài bảo ấy. Trong bối cảnh đó, bán thân tỏ
ra là một giải pháp thay thế đề có thể “theo đuổi những ước mơ (của
họ)”.

Nhiều tác giả(29) nhất
trí cho rằng các sinh viên không bình đẳng trong việc chu cấp cho quá
trình học tập của họ, và rằng những lợi thế - đặc biệt là về mặt kinh tế
- mà những thanh niên thuộc tầng lớp khá giả được hưởng và thanh niên
xuất thân từ các tầng lớp ít thuận lợi hơn không có được, đang làm nảy
sinh một sự bất bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục đại học. Nhà nước,
ý thực được “sự bất bình đẳng về cơ may này”, đã tạo ra một cơ chế cho
phép trợ giúp về mặt tài chính cho một số thanh niên (học bổng dựa trên
các tiêu chuẩn về mặt chính sách xã hội, học bổng theo thành tích học
tập, trợ cấp nhà ở, v.v…), như thế là tạo cho họ một “công cụ cơ bản để
thăng tiến trong xã hội(30)“.
Trong khi đó, hệ thống này đương nhiên không phải không có nhược điểm
(hãy nhớ lại rằng Laura không có quyền nhận học bổng) và chỉ đáp được
một phần nhu cầu của sinh viên. Trong năm năm, những khoản chi tiêu bắt
buộc – phí đăng ký học, Bảo hiểm xã hội, nhà ở, ăn tại căng tin trường,
vân vân – đã tăng thêm 23% trong khi đó học bổng đại học và trợ cấp nhà ở
chỉ tăng them 10%. Trước thực trạng này, nhiều sinh viên bắt buộc phải
có một hoạt động được trả công bên cạnh việc học hành của họ.

(29)
Lấy ví dụ như Pierre Bourdieu và Jean-Claude Passeron,Những người thừa
kế: sinh viên của nền văn hóa, Paris, Nhà xuất bản Minuit, 1989; Raymond
Boudon, Bất bình đẳng về cơ may - Sự linh hoạt về mặt xã hội trong các
xã hội công nghiệp, Paris, Amand Colin, 1979; François Dubet, “Sinh
viên”, trong F. Dubet et al., Trường đại học và thành phố, Paris,
L’Harmattan, 1994; Stéphane Beaud, 80% tốt nghiệp trung học… và sau đó?,
Paris, La Découverte, 2003; M. Euriat và C. Thelot, “Xã hội tuyển lựa
những tinh hoa trường học tại Pháp”, Tạp chí xã hội học Pháp, XXXVI-3,
tháng Bảy-tháng Chín 1995, trang 403-438.

(30) Năm 2006,
những trợ cấp dành cho sinh viên chiếm 6 tỉ euro và 2,2 triệu sinh viên
được hưởng. Nguồn: Laurent Wauquiez,Trợ cấp dành cho sinh viên: làm thế
nào để hồi phục sự thăng tiến trong xã hội?, Paris, 2006.

Năm 2003, 45,5% sinh viên Pháp làm một công việc được trả công trong năm học đại học (không tính kỳ nghỉ hè(31)).
Qua lời kể của Laura, người làm việc mười lăm giờ một tuần tại một
trung tâm quảng cáo qua điện thoại, ngoài hai mươi giờ học tại trường và
thời gian để ôn bài, chúng ta thấy được việc có một “việc làm sinh
viên” gây bất lợi thế nào với cô để có thể học hành một cách tử tế. Cô
luôn mệt mỏi và đùa giỡn sức khỏe của mình. Thực tế này gây tiếng vang
cho những công trình do cơ quan Quan sát Đời sống Sinh viên thực hiện,
cơ quan này đã viện dẫn ra rằng việc thực hiện một công việc được trả
công song song với việc học làm tăng “nguy cơ thi trượt và bỏ học(32)”.
Những nguy cơ ấy bắt nguồn từ sự cạnh tranh - đặc biệt là về thời gian -
giữa “việc làm sinh viên” và những đòi hỏi của công việc học hành tại
trường đại học. Vả lại chính trong bối cảnh này mà theo OVE, càng phải
chỉ ra và hiểu khái niệm tình trạng bấp bênh ở sinh viên. Từ quan điểm
đó, bán thân cho phép các sinh viên nữ xuất thân từ những môi trường xã
hội hạn chế hơn tiếp tục việc học hành của mình trong những điều kiện
vật chất thuận lợi - những nhu cầu hàng ngày như tiền thuê nhà hay thực
phẩm được đảm bảo - trong khi vẫn để cho họ có đủ thời gian để học tập
và vì vậy hy vọng hoàn thành năm học đại học.

(31)
Claude Grignon (chủ tịch Ủy ban khoa học của OVE),Những sinh viên khó
khăn: Nghèo khổ và bấp bênh - Báo cáo trình lên bộ trưởng bộ Thanh niên,
Giáo dục quốc gia và Nghiên cứu, Paris, 2003.

(32) Claude Grignon, tác phẩm đã dẫn.

Nếu
như chiến lược có vẻ hợp lý, thì người ta vẫn có thể đặt câu hỏi về cái
giá mà những sinh viên nữ thuộc tầng lớp trung lưu và bình dân này phải
trả để tiếp cận được với giáo dục đại học và tốt nghiệp ra trường. Rõ
ràng, nấc thang xã hội và con đường dẫn đến “thành công” còn lâu mới
bình đẳng cho tất cả mọi người!

b) Những tan vỡ đối với đạo đức gia đình – Các sinh viên nữ mong muốn thoát ra khỏi sự gò bó

Đối
với một số sinh viên nữ, bán thân không trực tiếp phục vụ nhu cầu tiền
bạc, mà đúng hơn là thuộc về một mong muốn cắt đứt với các giá trị gia
đình truyền thống và thỏa mãn một “giấc mơ bị cấm đoán”.

Ngày
nay, ngay cả khi tình dục không “tự do”, bởi nó khắc sâu - giống như
bất kỳ sự tương tác xã hội nào khác - trong một số quan hệ (quan hệ về
giới, về tầng lớp, về thế hệ, văn hóa…), nó đã được nhìn nhận, thoạt
tiên, ngày càng bớt khuôn phép hơn(33).
Về vấn đề này, Michel Bozon nhấm mạnh rằng một trong những thay đổi lớn
trong quan hệ giữa các thế hệ giữa những năm 1960 và những năm 2000, là
việc “thế hệ cha mẹ từ giờ đã thôi đặt ra các quy định giới hạn cho
giới trẻ(34).”
Khả năng sống “một tuổi trẻ thực sự” dần dẩn trở nên phổ biến, và
“quyền tự chủ cá nhân’ của những bạn trẻ này nói chung đã được chấp
nhận. Trong bối cảnh ấy, các bậc phụ huynh không chỉ trích việc con cái
mình có một đời sống yêu đương thoải mái nữa – đời sống ấy thậm chí đôi
khi có thể diễn ra dưới mái nhà họ. Đương nhiên, nhận định này không
đúng với tất cả các gia đình hiện đại. Một số gia đình vẫn bảo lưu những
giá trị truyền thống – liên quan đến tinh thần tôn giáo – và giữ một sự
kiểm tra gắt gao đối với chuyện tình dục của con cái họ.

(33) Thomas Laqueur, Công xưởng tạo giới tính - tiểu luận về cơ thể và giới tại phương Tây, Paris, Gallimard, 1992.

(34)
Tuy nhiên cha mẹ vẫn không rời mắt khỏi những hành vi tình dục của con
cái họ, đặc biệt là đối với các nguuy cơ nhiễm những bệnh lây qua đường
tình dục hay có thai ngoài dự kiến - Michel Bozon, Xã hội về tình dục,
Paris, Armand Colin, 2005, trang 54.

Trong
những gia đình bảo thủ này, việc giới trẻ bước vào chuyện tình dục diễn
ra dưới cái nhìn chăm chú và dưới sự kiểm soát của cha mẹ (và có thể là
của anh chị em). Các bậc phụ huynh đặt ra những quy định theo đó con
cái họ - đặc biệt là các cô gái - có thể tiếp cận với hoạt động hợp lệ
của tuổi trưởng thành này(35).
Trong bối cảnh đó, sự giao du và những cuộc đi chơi của con cái - chủ
yếu là ở tuổi thiếu niên - thường xuyên được cha mẹ kiểm tra chặt chẽ.
Cũng như vậy, tình dục vẫn còn là chủ đề kiêng kỵ và hiếm khi được đưa
ra trong các cuộc thảo luận gia đình.

(35) Michel Bozon, tác phẩm đã dẫn, trang 16.

Với
những sinh viên nữ sinh trưởng trong kiểu gia đình này, bán thân được
coi như là một phương tiện để giải phóng khỏi những giá trị và quy chuẩn
của gia đình. Bằng cách bán thân, những sinh viên nữ này thoát khỏi
khuôn mẫu của cha mẹ, và như thế khẳng định được mong muốn tự chủ của
mình đối với mong muốn của cha mẹ họ. Về phương diện này, họ muốn là
người đóng vai trò quyết định trong cuộc sống của mình - dù có ra sao
cũng là cuộc sống riêng tư của họ - và tham gia xây dựng con người riêng
của họ.

c) Những tan vỡ đối với tình yêu và quan hệ nam/nữ - Những sinh viên nữ thất vọng và mất hết ảo tưởng

Với
một số sinh viên nữ làm gái hộ tống, bán thân là phương tiện để bù đắp
lại một sự thiếu hụt tình cảm và tình dục. Thường thường, những phụ nữ
trẻ này bị thất vọng bởi quan hệ yêu đương và “quan hệ cho không” đã
từng có, trong những quan hệ ấy họ có cảm giác không được coi trọng ở
đúng giá trị của mình. Quả thực họ đã “cho không” những người đàn ông
không biết đáp ứng lại mong đợi của họ về cam kết và sự công nhận lẫn
nhau. Trong kiểu quan hệ này, họ cảm thấy bị “phản bội”, bị “lợi dụng”,
bởi thiếu vắng sự tôn trọng và quý mến với chính họ.


vậy, những sinh viên nữ đó mong muốn duy trì chuyện tình dục, và cải
thiện khả năng tình dục của mình bằng việc học hỏi những cách thức và
kinh nghiệm mới. Trong bối cảnh này, hành vi bán thân của họ phát huy
tác dụng. Tiền trong quan hệ tình dục cho phép làm minh bạch tình huống.
Những gái hộ tống sinh viên biết rằng các cuộc gặp gỡ trong khuôn khổ
hoạt động bán dâm của họ không vượt ra ngoài quan hệ “hợp đồng”, và vô
ích khi hy vọng vào “một câu chuyện” vượt ra ngoài cuộc hẹn mua bán. Như
thế họ có thể sống hết mình với cuộc gặp gỡ và tập trung vào chính ham
muốn tình dục của họ mà không lo lắng đến chuyện sau đó.

4. CHÚNG TA NGHĨ GÌ VỀ CHUYỆN NÀY


cho lý do và động cơ dẫn các nữ sinh viên bán thân là gì, hành vi này
cũng không thể được coi như là vô hại. Vả lại, những rủi ro của Laura đã
chứng minh cho nhận định này. Tương tự, nếu lựa chọn này mang tính cá
nhân, nhưng nó cũng nằm trong - giống như bất kỳ lựa chọn nào - một bối
cảnh đặc biệt. Người ta không tình cờ bán thân. Cần tiền, mong muốn giải
phóng, hay thêm nữa là sự thất vọng với quan hệ yêu đương, chỉ riêng
chúng không đủ để giải thích cho việc một số sinh viên nữ bán thân.

Theo
một nghiên cứu về “nguy cơ bán thân ở sinh viên”, tồn tại một “mảnh đất
nền tảng” nơi một số những rối loạn chức năng “nảy mầm” - liên quan đến
chuyện riêng tư và xã hội của các cá nhân - và những rối loạn ấy có lẽ
đã dẫn một số bạn trẻ đến việc bán thân. Cuộc điều tra này chỉ ra rằng
những “rối loạn chức năng” có nhiều kiểu khác nhau và tự tác động qua
lại lẫn nhau. Nó có thể đặc biệt là những “biến cố trong tiểu sử” (bạo
lực thân thể, tinh thần và tình dục), những vấn đề về cá tính và sự thừa
nhận đối với những khuôn mẫu của cha mẹ, một sự cô lập nào đó về mặt xã
hội, một sự bấp bênh về tâm lý, việc gia đình của bạn trẻ đó bị xã hội
gạt ra ngoài lề, nhữn đại diện cho phương thức thành công trong xã hội
bị biến dạng, hay hơn nữa là việc tồn tại - trong mạng lưới của bạn trẻ
đó - những hiểu biết về giới bán dâm.

Như
vậy lựa chọn bán thân không phải là kết quả của một yếu tố duy nhất, mà
là sự kết hợp giữa nhiều tan vỡ - ít nhiều đáng nhớ - về mặt cá nhân và
xã hội. Nghịch lý thay, đối với một số nam (nữ) sinh viên, bán thân trở
thành một giải pháp thay thế tạo ra ý nghĩa cho hành vi và lực chọn
sống của họ. Việc “chuyển sang hành động” của các nữ sinh viên trong
chuyện bán thân xảy ra trong một bối cảnh đặc biệt, một thời điểm đặc
biệt của cuộc sống của họ. Nếu hoạt động này cho phép họ thoát khỏi một
tình huống “khó khăn”, thì nó không phải là không để lại hậu quả. Ngày
nay, chưa có một nghiên cứu nào đi theo hành trình của những sinh viên
ấy và ghi nhận những hậu quả - đối với cá nhân xã hội – mà hành vi này
có thể để lại về lâu dài.

5. GIẢI PHÁP

Sự
cầu viện đến việc bán thân - dù dưới hình thức nào - cũng cho thấy mặt
yếu kém của xã hội. Chúng ta đã biết rằng hành vi này nằm ở vị trí trung
tâm các quan hệ xã hội, ở đó vị thế vượt trội của nam giới và kinh tế
ngự trị. Trước thực trạng này, người ta chỉ có thể mong muốn một sự tiến
bộ về tư tưởng nhằm ngăn chặn những bất bình đẳng hiện có. Chúng ta
biết rằng giáo dục là một trong những chìa khóa của sự thay đổi tư
tưởng. Tuy nhiên, những phương tiện mà chính quyền sử dụng để làm thay
đổi các thói quen trong lĩnh vực này còn chưa đủ (thậm chí còn không tồn
tại).

Trong
xã hội chúng ta, tình dục vẫn còn là một chủ đề khá kiêng kỵ và in dấu
những tín ngưỡng cùng khuôn mẫu trọng nam khinh nữ, chúng giam hãm nữ
giới cũng như nam giới trong những vai trò tình dục khu biệt và theo thứ
bậc. Sự thẹn thùng, khả năng hạn chế nhu cầu tình dục, sự đúng mực,
không ham muốn, vẫn còn được coi là những phẩm chất “tự nhiên” của phụ
nữ. Ngược lại, ham muốn, hung hăng, chủ động, được coi như đặc điểm của
nam giới(36).
Nếu nhiều thể chế - và cả cá nhân - ngày nay đã tính đến tầm quan trọng
của quan hệ xã hội nam/nữ trong những phân tích và hành động của mình,
thì tình dục có thể được xem xét như một phương thức bình đẳng và tự do.

(36) Michel Bozon, tác phẩm đã dẫn, trang 25.

Từ
gần mười năm trở lại đây, các chính phủ khác nhau khi cầm quyền đều
mong muốn “biến đổi” trường đại học và nêu ra mong muốn chống lại tình
trạng kinh tế bấp bênh ở giới trẻ như là lý do chính thức. Tuy nhiên,
nhiều cải cách khác nhau đã được đề xuất (cải cách LMD(37),
luật về “bình đẳng cơ hội” và Hợp đồng Tuyển dụng Lần đầu nổi tiếng, và
hiện nay là luật về quyền tự chủ của các trường đại học…) trên thực tế
chỉ làm gia tăng sự phân biệt đã tồn tại giữa các sinh viên xuất thân từ
giới bình dân và những sinh viên sinh trưởng trong những môi trường
thuận lợi. Nếu dự án của chính phủ thực sự nhằm tới việc bình đẳng cho
mọi sinh viên, một số giải pháp cụ thể có thể được áp dụng: hệ thống trợ
giúp dựa trên tiêu chuẩn xã hội sẽ được điều chỉnh (như thế những sinh
viên như Laura có thể được nhận học bổng), tăng đáng kể lượng phòng ở
trong ký túc xá, những “việc làm sinh viên” được trả công đúng mức và
phù hợp hơn với nhu cầu cũng như khả năng của mỗi người, vân vân.

(37)
LMD: Licence-Master-Doctorat (cử nhân-thạc sĩ-tiến sĩ), hệ thống giáo
dục đại học và sau đại học mà một số nước châu Âu đang tiến hành xây
dựng đồng bộ. (chú thích của người dịch).

Nhưng với các vấn đề về bình đẳng giới cũng như bình đẳng của cải, các nhà lãnh đạo vẫn luôn rụt rè…

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3