Gió lẻ và 9 câu chuyện khác - Chương 01
Vết chim trời
Buổi trưa tháng mười đó,
rất bình thường, như bình thường, chúng tôi trốn ngủ. Thằng Vĩnh vắt vẻo
trên nhánh me trước sân nhà, cầm trái xoài sống nhai vừa nhai rau ráu,
vừa thả vỏ xuống đầu tôi, nước miếng chèm nhẹp. Tôi hơi quạu, nhưng chỉ
cười, tôi mà ném trả thì sập bẫy của Vĩnh, sẽ cuốn ngay vào trò chơi nó
bày sẵn.Mọi người sẽ phát hiện ra đám trẻ đang ở ngoài sân thay vì trên
giường, sẽ la om sòm lên. Thấy tôi nín thinh, biết không ăn thua, thằng
Vĩnh đâm chán, nó thôi khiêu khích. Hai đứa tôi im ỉm, như bị vây bủa,
bị đóng băng bởi cái thinh lặng ban trưa của con đường thưa vắng
người. Nắng trên cao lợt nhách, xuyên qua tàn cây xuống đến sân thì tệ
hơn, chỉ là những chùm bông nắng mờ mờ. Lâu lâu, vài ngọn gió mồ
côi leo heo chạy lệt phệt qua, những cái lá me lững thững rơi xuống, đám
lông chó lại lờ đờ bay ngược lên, để lại nền sân vài bông nắng thưa,
tái ngắt.
Lúc đó, tôi đã đi qua mười bốn cái tháng mười, đi qua
không biết bao nhiêu buổi trưa lạt lạt, phai phai như vậy. Những buổi
trưa không làm đám con nít buồn ngủ, nhưng cũng không làm tụi nó hứng
chí chạy nhảy chơi đùa. Những buổi trưa lừ đừ, lười nhác. Và nếu bà nội
không khóc, buổi trưa nọ đã trôi tuột khỏi đời tôi, không một vết tích,
không làm tôi đau khi đôi khi gặp lại cơn nắng nào, đã cũ.
Nhưng
mà bà nội đã khóc, và buổi trưa kia đã vĩnh viễn bị tiếng khóc đóng đinh
vào. Lúc đó bà vẫn còn nằm trên giường, chắc vừa choàng thức dậy sau
giấc ngủ trưa. Mới đầu, nghe những tiếng hức nhẹ, tôi nghĩ là thằng Vĩnh
nên ngó lên cây. Mới hay, Vĩnh cũng đang trố con mắt dò xét ngược
xuống. Tiếng nấc bỗng ồ ồ dồn đuổi nhau qua cửa sổ. Bà nội. Bà nội
khóc. Bà nội khóc kìa, ba ơi. Ba, bà nội khóc.
Cả nhà bị dựng
ngược, lăng xăng quây lấy một bà già đang khóc. Trời ơi, sao má khóc
vậy? Ủa, nội ơi, nội bị làm sao? Má ơi, má đau chỗ nào? Bà nội lắc đầu,
vẫn khóc, nước mắt vừa lau xong nước mắt lại tràm trụa. Dỗ hoài bà không
nín, cả nhà bất lực ngó nhau, ngờ vực, ai trong chúng ta đã làm bà nội
khóc? Vừa lúc ấy thì bà nội nín, bà nắm lấy tay cha, hụp hửi:
- Sao bây lại bắn Út Hơn của má?
Sau
này, long đong với bao biến cố cuộc đời, chen lấn, tranh giành, bị tạt
vào mặt những câu từ khó nghe, phũ phàng nhất, nhưng tôi thề rằng chẳng
câu nói nào đau đớn và nghiệt ngã như lời thốt ra từ cái miệng mếu máo
của bà nội. Trời đất lặng phắt. Một mũi tên nào đó xé gió đâm thẳng
vào tim cha. Ông chới với:
- Má!
- Bây bắn Út Hơn của má chết rồi, con ơi.
Bà nội bệu bạo nhắc lại, đẩy mũi tên vào trong cha sâu hơn. Và tôi khóc hức lên vì cảm giác cha vừa vào chết.
Má
tôi không biết gì hết, má túi bụi với sạp bán thuốc gò ngoài chợ. Chiều
về, má ngạc nhiên thấy bà nội không chịu ngồi chung mâm, bà bưng chén
cơm day lưng lại, trệu trạo nuốt từng miếng rời, chỉ chịu ăn những gì
Vĩnh gắp cho. Người già giận hờn cũng ngoe nguẩy như trẻ con. Má hiểu là
đã xảy ra chuyện gì nhưng má không hỏi, việc kiếm miếng ăn cho cả nhà
khiến má rã rời.
Cha buông đũa sớm, có vẻ cha không cầm được máu
mình đang rơi, ông nhìn vào cái lưng lạnh ngắt của bà nội cố hiểu chuyện
gì đó. Bà thấy hình ảnh nào trong chiêm bao? Hay chỉ là một hành động
trong chuỗi hành động ngớ ngẩn của căn bệnh lẫn thẫn đang tàn phá bà nội
mấy năm qua? Như bà nội đã từng xách thùng tưới cải trong tủ lạnh, nhổ
cỏ trồng vô hồ nước mưa. Như cái ngày bà nội ngơ ngác nhìn chúng tôi,
hỏi, ủa, ai đây? ai mà kêu tui bằng bà nội vậy cà. Còn chú Hai này, muốn
gì mà kêu tui bằng má, tui không có của cải gì đâu, đừng tưởng ngon mà
nhào vô nhận bừa, nghen.
Tôi và những miếng cơm khô rốc, bỗng
nghĩ, bây giờ bà nội có trèo lên cây ca hát hay đốt áo nướng trứng thằn
lằn tôi cũng không ôm bụng cười ngắc nghéo nữa, những chuyện đó đã là
bình thường.Chỉ bất thường là tiếng khóc ban trưa, khóc cho một câu
chuyện về một trận chiến xa xôi trong một cuộc chiến đã xa xôi, đã khép
lại rồi, đã lành những sẹo, ít ra thì đám con nít chúng tôi tưởng
vậy.Bằng chứng là những vụ bắn nhau bằng súng nước giữa tôi và thằng
Vĩnh luôn làm bà nội cười lăn, cười chảy nước mắt. Cho đến một buổi trưa
tháng Mười đờ đẫn, tôi ngờ ngợ, hay cái cười đó là dành cho chúng tôi,
nhưng nước mắt khóc cho cuộc chiến xa xôi kia, nơi cha tôi và chú Út
Hơn, cha thằng Vĩnh buộc phải đứng ở hai bờ chiến tuyến?
Tôi không
biết. Bà nội rất khó hiểu, bởi sáng bữa sau bà ráo hoảnh như chẳng có
chuyện gì xảy ra. Bà nội dậy sớm, đi te te lại bàn ăn, trầm trồ tô mì
gói má vừa nấu sẵn trước khi ra chợ dọn hàng. Thấy cha phờ phạc, liêu
xiêu, bà nội hỏi bệnh gì sao? Ngủ không được sao? Mắc gì mà mặt mày buồn
hiu? Sao ngó tui trân trân vậy?” Cha chỉ cười, không nói. Bà nội đã
thật quên chuyện hôm qua hay bà nội chôn nỗi đau đó tận đáy lòng?
Hay
tiếng khóc trưa tháng mười chỉ là một cơn mê sảng bâng quơ? Giống như
ông chồng nào đó thốt lên trong cơn say “Diễm em ơi!”, mà cô Diễm này
nhiều khả năng không có thật ngoài đời, chỉ là một nhân vật trong phim,
trong tiểu thuyết. Nhưng bà vợ thì ám ảnh cái tên đó suốt, bà uất hận,
giận dữ, bà cảm thấy bị mất mát, lừa dối. Giống như thằng Vĩnh vẫn
thường chỉ tay lên trời, “Chim kìa!” nhưng bầu trời tạnh vắng, và tôi
biết thằng Vĩnh nói gạt mình, nhưng vẫn nghĩ, nếu thật là có con chim
nào đó bay qua, thì sao? Và sự bâng quơ của bà nội cũng nghiệt ngã, cũng
hoang đường, rõ ràng cha chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và chú Út thì ngã
xuống ở con đường rừng nào đó, xa xôi. Không tin nhưng cha tôi buộc phải
lục lọi từng cái ngách ký ức, nín thở, đau nhói, hãi hùng khi phát hiện
ra một khả năng, một xác suất dù rất nhỏ nhoi, rằng đứa em trai có thể
đã từng đối mặt với mình giữa lúc cuộc chiến sắp tàn.
Nên cha
không chịu sống lại dù đã sang tháng thứ hai, dù mọi việc đã trở lại
bình thường, nhất là với bà nội. Bà ngồi may áo, hỏi áo này tính cho ai,
bà cười, cho cháu nội, thằng Hiền, thằng Vĩnh. Cái áo chỉ bằng
gang tay. Trước bà, thời gian mềm nhũn, bời rời như cọng bún mắc mưa, vô
nghĩa. Nó không ngăn cản được chuyện bà nội trở bàn tay sấp ngửa giữa
thực tại và mười năm, hay hai mươi năm trước. Sau một giấc ngủ, bỗng bà
nội hai mươi tuổi, không chừng. Tôi tiếc là mình chưa già, để bệnh lẫn
có thể chiếm đoạt mình, để tôi buông xuôi, đồng tình với nó. Để có thể
trở về trước cái buổi trưa tháng mười ấy.
Khi đó, cha tôi vẫn còn
cười, âu yếm và nhẹ nhỏm mỗi khi thằng Vĩnh nhảy chồm chồm, chờn vờn
trước mặt tôi như một võ sĩ boxing trên sàn đấu. Khi đó, mỗi sớm cha gọi
hai đứa trẻ thức dậy, chạy bộ ra công viên, và chúng tôi cùng nhau đá
cầu. Nhưng rồi bà nội cất tiếng khóc sau một giấc ngủ dài, mà, lòng
người là thứ dễ thương tổn, dòng sông cũng có thể cắt nát, sau đó thì
ánh mắt, tiếng nói, nước mắt…
Thằng Vĩnh đổi tánh, nó bỗng ít nói,
lầm lì, cục cằn. Nó không còn nhìn thẳng vào tôi. Cả lúc ngủ, Vĩnh cũng
day lưng lại, điều đó làm tôi day dứt, nằm cạnh nó mà nhớ nó tơi bời.
Vĩnh
về với nhà tôi khi má nó lấy chồng. Cha đặt nó cạnh tôi, nói, đây là em
con. Nó nhoẻn cười, bôi nước mũi xanh dờn của nó vào miệng tôi, thay
cho lời chào. Vĩnh đẹt ngắt, nhưng gạt tôi ra rìa trong cuộc chiến giành
măng vú bà nội. Được ít lâu, Vĩnh cũng phải từ giã đôi vú thõng dài mát
lạnh đó lủi thủi lên gác, măng cùi chỏ tôi, ngủ khò. Từ nhỏ, nó phá như
quỷ sứ, quậy vô phương. Bó tay chân Vĩnh lại, cái đầu nó sẽ lúc lắc,
nếu vịn cả cái đầu, con mắt vẫn dáo dác và nếu ta bịt mắt nó lại, ta vẫn
cảm giác nó đang chạy nhảy lung linh. Hành động của Vĩnh luôn nằm ngoài
những thứ mà cả nhà tưởng tượng được, bản năng, hoang dã và hồn
nhiên. Như cởi cái quần ướt đẫm nước tiểu quăng vào nồi cháo vịt, lấy
gậy để bật cầu dao điện, bắt mèo bú chuột, khoái đái vô… tủ lạnh cho
mát… cu. Nó thích trèo cây, ngủ ngoẻo trên cây mà không rơi xuống.
Vậy
mà cả nhà đều thương Vĩnh, thương đến mức nhiều khi tôi muốn khóc vì
ghen tỵ. Với bà nội, với cha, Vĩnh là hiện thân của chú Út Hơn, cũng
từng hoang dã, nghịch ngợm, cũng làm cả nhà hoảng hồn khi cầm cây củi
đang cháy rượt người lớn chạy ngời ngời, lén múc nước làm gà đổ vào ấm
trà của ông cố… Lớn lên, chú cũng làm mọi người chới với khi bỏ học, lấy
vợ, rồi bỏ người vợ mới cưới vào bưng, “để coi làm sao họ sống thiếu
thốn, khó khăn vậy mà lại bắn tưng bừng”. Vĩnh giống cha, khó đoán
trước, đầy ngẫu hứng. Riêng má tôi không thương Vĩnh vì bóng hình nào đã
cũ, mà việc dạy dỗ Vĩnh là sự thách thức thú vị so với người chồng mờ
nhạt, ẩn mình như cái bóng và đứa con trai luôn ủy mị, ngoan ngoãn, vẽ
cái vòng tròn bắt ngồi đấy là te te vào ngồi, suốt ngày sạch sẽ, chẳng
cần thay bộ đồ nào cũng tinh tươm, như con gái.
Chơi cùng nhau,
thằng Vĩnh luôn là người bày đầu, và luôn luôn thắng cuộc. Tôi luôn bị
đau và luôn mếu máo cười hơ hơ. Một khoảnh khắc nào đó, khi má tôi ôm
siết Vĩnh vào lòng, tôi thấy ánh mắt nó lạc đi, chơ vơ, nó đã ý thức
vòng tay ấy có thể chặt, có thể ấm áp nhưng không phải của-mình. Tôi
thương Vĩnh suốt, thương những lần đám giỗ chú Út Hơn, thằng Vĩnh cầm
nắm nhang ngoái ra sau, hỏi: “Bác Hai, nói làm sao?”. “Cái thằng, dạy
không biết bao nhiêu lần rồi, nói vầy nè, bữa nay rằm tháng hai, nhà
mình làm bữa cơm, con mời cha về ăn”. Thằng Vĩnh lóng ngóng nói tiếng
trầy tiếng trật, và khi nó cắm nhang vào lư hương, tôi bỗng đọc trên
gương mặt nó thất vọng não nề, nó gọi cha ơi nhưng tuyệt nhiên không có
tiếng vọng nào dội lại. Cho đi và mất hút. Cho đi và biệt tăm.
Những
dịp đó thì má thằng Vĩnh có về thăm, đôi lúc nhầm, Vĩnh gọi má nó bằng
thím Út, như tôi. Nó chạy chơi suốt, và khi má nó đi, nó chỉ đứng chống
nạnh trông theo. Nhìn từ phía sau lưng, tôi bỗng nghĩ, không có hai
cánh tay chỏi vào hông, thằng Vĩnh sẽ gãy ngang, đổ gục xuống. Hỏi làm
sao tôi không thương Vĩnh cho được.Hơn nữa, hành động đó làm cha tôi rất
hài lòng. Cha và chú Hơn chỉ bên nhau ngót hai mươi ba năm, đầy hụt
hẫng, tiếc nuối, và tình anh em đó chúng tôi tiếp nối. Chúng tôi tô màu
mới lên bức tranh cũ, một đứa khờ khạo, chậm rãi lại yêu chiều đứa lanh
lợi, ngang tàng. Đôi lúc, tôi lỡ tay đánh Vĩnh, nó khoái trá cười vì
cuối cùng cũng khích được tôi, nhưng ánh mắt của cha buồn rượi.
Cha
khá nghiêm khắc, và tôi phải giấu mình, theo ý cha. Tôi không được phép
sai phạm lỗi lầm, dù là nhỏ nhất. Có cảm giác cha đang cố gắng dạy tôi
điều gì đó, xa vời hơn việc không thuộc bài, hay tham gia đánh nhau cùng
thằng Vĩnh. Nhưng ông muốn dạy tôi điều gì? Tôi buộc phải suy nghĩ
nhiều, rất nhiều, nghĩ những chuyện mà ở tuổi tôi không nên nghĩ. Vĩnh
ngán ngẩm, gọi tôi là ông ngoại và nó rất bực cái sự ông ngoại của
tôi. Bởi nhiều khi đang chơi cùng nhau, tôi bỗng đờ ra, nghĩ, cha muốn
dạy tôi điều gì, sao lại dẫn tôi đi họp tổ dân phố? Vừa ăn sáng ông vừa
hối, như thể đã trễ rồi. Nhưng chúng tôi có mặt sớm nhất, ngồi sù sụ,
nhẫn nại chờ mọi người đủ mặt. Cha có vẻ nghiêm túc, ông cầu thị lắng
nghe suốt buổi họp, mặc kệ người ta chộn rộn nói tục, càu nhàu. Và cha
về cuối cùng, sau khi xếp ghế, tắt hết đèn trong phòng họp. Cha tôi muốn
nói gì với tôi khi mỗi Quốc khánh, lễ lạt, ông tự giác treo cờ, phường
khóm phát động phong trào nào, nhà tôi luôn gương mẫu đi đầu. Cả ông già
chằng gây bên xóm sáng nào ra ban công súc miệng cũng phun nước qua mái
hiên nhà bên này, nước dãi cứ chảy tuôn tuôn, cha cũng nín nhịn. Tôi
tức mình, thất vọng, tôi không biết tránh va chạm là tránh xây xước,
tránh khui miệng một vết thương.Cũng là một cách che chở tôi khỏi những
thương tổn. Chỉ đến dịp trường xét học sinh ưu tú để nhận bằng khen cấp
thành phố, tôi không được chọn chỉ vì lý lịch của cha có chút vết đen,
hiểu ra chút ít, tôi thoải mái hơn. Có tám chục cái giấy khen thì cũng
không đổi được sự nhẹ nhàng này. Nhưng cha vẫn rầu rầu…
Bởi cha
biết đôi khi ta phải trả giá lớn dù chỉ mang một lỗi lầm nhỏ. Trong ông
luôn có dự cảm chia lìa, nếu không vì buổi trưa lạt nhách lạt
nhiểu kia thì một ngày nào đó, trong một va chạm nào đó của tôi với cuộc
đời, cha cũng lịm chết vì tự trách mình. Vì người ta vẫn có thể bị
trừng phạt dù không phạm lỗi lầm nào, ví dụ như tôi bị thằng Vĩnh day
ngang, không đếm xỉa gì nữa vì một cuộc chiến tranh không mắc mớ tới
tôi, tới nó. Có lần, tôi mơn trớn, ngoáy mãi cái đuôi rùa sau gáy Vĩnh,
tôi muốn nó quay lại, dù là sừng sộ, nạt nộ (nhưng tôi sẽ được nhìn vào
mắt nó), “thôi nghen ông ngoại, tui dộng vô mặt ông bây giờ đó”. Nhưng
thằng Vĩnh không nói, nó hộc lên và đè nghiến lấy tôi. Tôi nghẹn thở,
tôi thấy mình vùng vẫy một cách tuyệt vọng trong ánh nhìn tối, đen ngầu,
vằn lên những tia máu li ti của Vĩnh. Tôi cố cười, méo xệch, “Ê Vĩnh,
đừng chơi vậy chớ, tụi mình là anh em mà”.
“Anh em…”, Vĩnh nhại
lại, cười khan, nó buông tôi ra, càu cạu bỏ ra ngoài, tôi vẫn còn nghẹn
thở. Tôi lăn lộn, tôi đau nhói. Tôi xuống nhà, lặng lẽ ngồi nhìn bà nội
ngủ say, không biết bà đã đau, đã day dứt đến mức nào khi hai đứa con
trai của bà lại đứng ở hai bờ chiến sự, đến nỗi trong cơn quên nhớ lẫn
lộn, lại để tiếng khóc rơi ra. Để cha tôi, thằng Vĩnh loay hoay hoài một
trưa tháng mười xưa.
- Thằng Út Hơn của má quơ tay nhảy cà tưng kêu em nè anh Hai, em nè, Út Hơn nè nhưng bây vẫn bắn. Má thấy rõ ràng…
Những
buổi trưa tháng mười mờ, lợt lại quay về trên khu phố nhà tôi. Má không
có cơ hội nào để nhìn hoa nắng nhạt rụng trên sân, ở khu chợ thưa
người, nóng la mày mặt, má ứ hự xếp lại mấy cây thuốc gò dẻo nhẹo. Cha
cũng chẳng ngó ngàng gì hoa nắng, lặng lẽ ngồi đánh máy một cái đơn
tranh chấp đất đai của khách hàng, gương mặt quắt quay, bàn tay như
những vụn xương khô, cứng quèo bởi ý nghĩ, có thật mình đã bắn đứa em
ruột thịt của mình? Bà nội ngủ trưa, mặt nhiều khi cau lại, nhiều khi
rên khẽ, dường như những cơn chiêm bao đang tàn phá sự sống của bà. Hai
đứa trẻ trốn ngủ, ra sân, tôi trèo lên cây thả những khúc cành khô xuống
đầu Vĩnh với hy vọng Vĩnh sẽ quăng trả, sẽ sập bẫy, cuốn vào trò chơi
của tôi. Sẽ ném vào nhau rát những nụ cười.
Và tôi cứ chờ đợi mãi…

