Đời ảo - Chương 08 - 09
8
Tối trước buổi phỏng vấn đầu tiên ở
Trion, tôi tới thăm bố. Tuần nào tôi cũng đi ít nhất một lần, thỉnh
thoảng nhiều hơn, tùy xem ông có gọi và bảo tôi tới không, ông gọi
nhiều, một phần là vì ông thấy cô đơn (Mẹ tôi đã mất sáu năm trước) và
một phần vì ông bị steroid làm hoang tưởng và tin rằng những người chăm
sóc mình đang cố giết mình. Vì vậy mà các cuộc gọi của ông chẳng bao giờ
thân thiện, chẳng bao giờ rôm rả; luôn luôn là phàn nàn, cường điệu hóa
và buộc tội. Vài viên thuốc giảm đau biến mất, ông nói, và ông tin là y
tá Caryn đã chôm chỉa nó. Ôxy do công ty ôxy cung cấp có chất lượng tệ
hại. Y tá Rhonda cứ vấp mãi vào ống thở và giật những cái ống nhỏ, ống
thông ra khỏi mũi ông, suýt thì giật đứt cả tai.
Bảo rằng khó giữ
chân người chăm sóc ông là đã nói giảm nhẹ tới mức khôi hài. Hiếm khi có
ai ở lại được quá vài tuần. Francis X. Cassidy là người nóng tính, đã
luôn như vậy theo trí nhớ của tôi, và càng già và ốm yếu thì càng dễ nổi
khùng hơn. Ông luôn hút vài bao thuốc mỗi ngày và ho khan ầm ĩ, luôn
luôn bị viêm phế quản. Vì vậy không ai ngạc nhiên khi ông bị chẩn đoán
mắc khí thũng. Ông còn mong gì chứ? Ông đã không sao thổi tắt nến trên
bánh sinh nhật của mình nhiều năm trời rồi. Giờ bệnh khí thũng đã tới
lúc mà người ta gọi là giai đoạn cuối, có nghĩa là ông có thể đi trong
vài tuần, vài tháng, cũng có thể là cả mười năm. Không ai đoán trước
được.
Thật không may việc lo chăm sóc ông lại tới tay tôi, đứa con
duy nhất, ông vẫn sống trong căn hộ tầng-một-cộng-tầng-hầm trong khu
nhà ba tầng mà tôi đã lớn lên, và ông chưa thay đổi bất cứ điều gì kể từ
khi mẹ tôi mất - vẫn cái tủ lạnh vàng hươm chẳng bao giờ chạy bình
thường, vẫn cái ghế trường kỷ sệ xuống cả một bên, vẫn những tấm rèm cửa
viền đăng ten đã ố vàng theo thời gian, ông không tiết kiệm được tí
tiền nào và lương hưu thì thảm hại; ông chỉ vừa đủ trả chi phí thuốc men
cho mình. Điều đó có nghĩa là một phần lương của tôi phải dùng để trả
tiền thuê nhà, tiền lương cho người trợ giúp y tế, gì gì nữa. Tôi chẳng
bao giờ hy vọng được cảm ơn, và chưa bao giờ nhận được lời cảm ơn nào.
Dù có cả triệu năm nữa thì ông cũng sẽ không hỏi xin tiền tôi. Chúng tôi
giả bộ như ông ấy đang sống nhờ vào một cái quỹ ủy thác hay đại loại
thế.
Khi tôi đến, ông đang ngồi trên chiếc ghế bành hiệu
Barcalounger ông thích nhất trước cái ti vi to tướng, thú vui chủ yếu
của ông. Nó giúp ông có cái gì đó trong thực tế để mà phàn nàn. Ống thở
cắm vào mũi (giờ thì ông phải thở ôxy cả ngày), ông đang xem phim quảng
cáo trên truyền hình cáp.
“Chào bố,” tôi lên tiếng.
Trong
khoảng một phút, ông không nhìn lên - bị chương trình quảng cáo hút hồn,
cứ như thể đó là cảnh tắm vòi sen trong phim Tâm thần hoảng loạn[3]
vậy. Ông gầy đi, dù ngực vẫn thùng phi, và đầu húi cua đã bạc trắng. Khi
nhìn lên tôi, ông bảo: “Con chó cái đó định thôi, mày biết chứ?”
[3]
Cảnh tắm dưới vòi hoa sen của Janet Leigh trong phim Psycho - Tâm thần
hoảng loạn được bình chọn là cảnh chết trong phim hay nhất mọi thời đại,
theo một cuộc bình bầu của các nhà phê bình được công bố trên tạp chí
điện ảnh Total.
“Con chó cái” mà ông nói là nhân viên hỗ trợ
chăm sóc y tế tại nhà mới nhất của ông, một phụ nữ tuổi chừng năm mươi
người Ai len có gương mặt nhăn nhó ủ rũ và mái tóc đỏ chói tên là
Maureen. Bà ta lê bước qua phòng khách, như thể chọn đúng lúc để vào -
bà bị đau hông - rổ quần áo nhựa đầy nhóc áo phông trắng và quần đùi gấp
gọn ghẽ, mấy thứ đồ chủ đạo trong tủ quần áo của bố tôi. Điều ngạc
nhiên duy nhất trong chuyện bà nghỉ việc chỉ là bà quyết định điều đó
quá lâu mà thôi. Bố tôi có cái chuông cửa không dây hiệu Radio Shack
trên bàn nhỏ cạnh ghế Barcalounger, ông dùng nó để gọi Maureen bất cứ
khi nào ông cần, và điều đó cũng chẳng khác gì luôn luôn. Bình ô xy của
ông không hoạt động, hay mấy cái ống thông đang làm mũi ông khô khốc,
hay ông cần giúp ra phòng tắm để đi tiểu. Thỉnh thoảng Maureen đưa bố
tôi ra ngoài “đi dạo” trên chiếc xe lăn gắn động cơ để ông có thể tuần
tra quanh khu mua sắm và phàn nàn về bọn “du côn” và bắt nạt bà hơn nữa.
Ông buộc tội bà tìm cách đầu độc mình. Điều đó sẽ khiến người bình
thường phải hóa điên, mà Maureen thì vốn đã dễ xúc động rồi.
“Sao ông không bảo cậu ấy ông gọi tôi như thế nào?” bà nói, đặt đồ giặt xuống ghế dài.
“Ôi,
vì Chúa,” ông nói, lời ngắn, câu cụt lủn, vì ông lúc nào cũng thiếu
hơi. “Mày bỏ thuốc chống đông vào cà phê của tao. Tao nếm thấy rồi. Cái
đó gọi là giết người già, mày thấy đó. Kiểu giết người mờ ám.”
“Nếu
tôi muốn giết ông thì tôi sẽ dùng thứ tốt hơn là thuốc chống đông đấy,”
bà gắt trả miếng. Giọng bà vẫn đậm chất Ai len dù đã sống ở đây ngoài
hai chục năm. Ông vô cớ buộc tội người chăm sóc mình muốn giết mình. Nếu
họ có làm thế thật thì ai trách họ được chứ? “Ông ta gọi tôi bằng từ -
bằng từ tôi thậm chí không nhắc lại nổi.”
“Lạy Chúa chết dẫm, tao
gọi mụ ta là con đĩ. Với mụ thì đó còn là từ lịch sự đấy. Mụ hành hung
tao. Tao ngồi chết dí ở đây cắm đầy những cái ống hơi mắc dịch, và con
chó cái này còn tát tao nữa.”
“Tôi giật điếu thuốc ra khỏi tay ông
ấy,” Maureen nói. “Ông ấy định lén hút thuốc khi tôi đi xuống dưới nhà
giặt đồ. Cứ như thể tôi không ngửi thấy khắp nhà ấy.” Bà nhìn tôi, một
con mắt hướng ra xa. “Ông ấy không được phép hút thuốc! Tôi thậm chí
không biết ông ấy giấu thuốc ở đâu - ông giấu chúng ở đâu đó, tôi biết
mà!”
Bố tôi cười đắc thắng nhưng không nói gì.
“Mà sao tôi lại phải quan tâm chứ?” bà nói cay đắng. “Đây là ngày cuối cùng của tôi. Tôi hết chịu nổi rồi.”
Đám khán giả thuê trong đoạn phim quảng cáo há hốc miệng và vỗ tay nhiệt liệt.
“Làm
như tao để ý ấy,” bố tôi nói. “Con mụ này chẳng làm gì cả. Nhìn đám bụi
quanh chỗ này xem. Con chó cái này thì đã làm cái gì chứ?”
Maureen
nhấc giỏ đồ giặt lên. “Đáng lẽ ra tôi nên bỏ từ tháng trước. Đáng lẽ ra
tôi không nên nhận công việc này.” Bà rời khỏi phòng với kiểu đi kỳ cục
như ngựa què chạy nước kiệu nhỏ.
“Đáng lẽ ra tao nên đuổi cổ mụ
ngay lúc trông thấy,” bố tôi lầm bầm. “Tao biết là mụ cùng một giuộc với
bọn giết người già mà.” Ông mím môi lại mà thở như thể đang hít vào
bằng ống hút.
Tôi không biết giờ mình sẽ làm gì. Ông không thể ở
một mình được - ông không thể vào phòng tắm mà không có người giúp. Ông
cự tuyệt tới nhà an dưỡng; bảo rằng thà tự tử còn hơn.
Tôi đặt tay
mình lên tay trái ông, bàn tay với ngón tay trỏ được nối với một máy
hiển thị sáng đỏ, tôi nghĩ nó được gọi là máy đo ôxy dạng xung. Con số
điện tử trên màn hình báo 88%. Tôi nói, “Chúng ta sẽ kiếm được ai đó,
đừng lo bố ạ.”
Ông nhấc tay lên, hất tay tôi ra. “Mà mụ là loại y
tá quái quỷ nào vậy?” ông nói. “Mụ không thèm quan tâm tới ai cả.” Rồi
ông ho một tràng dài, khạc nhổ vào cái khăn mùi xoa vo viên lôi ra từ
đâu đó trên ghế. “Tao không hiểu vì cái quái gì mà mày không chuyển lại
về đây. Mày có cái mẹ gì để làm chứ? Mày chỉ có cái công việc chẳng đi
đến đâu cả.”
Tôi lắc đầu và nhẹ nhàng nói, “Con không thể, bố ạ.
Con còn phải trả nợ hồi sinh viên.” Tôi không muốn nói là cũng phải có
người kiếm tiền để trả cho những người hỗ trợ luôn luôn đòi nghỉ việc.
“Học
đại học tốt quá đấy nhỉ,” ông nói. “Tất cả chỉ là lãng phí tiền. Bỏ
thời gian đi chè chén với đám bạn mày, lẽ ra tao không cần phải tốn hai
mươi nghìn đô mỗi năm chỉ để mày chảy thây ra đấy. Cái đó thì mày làm ở
đây cũng được.”
Tôi cười để ông biết là tôi không thấy khó chịu.
Tôi không biết có phải do steroid, dòng prednisone ông uống để giữ khí
quản luôn mở mà ông thành người khó chịu như vậy không, hay đó vốn là
bản chất tự nhiên. “Mẹ mày, mong bà ấy yên nghỉ, mẹ mày chiều mày hư
rồi. Biến mày thành thằng ẻo lả béo phị.” Ông hớp vào một ít không khí.
“Mày đang lãng phí cuộc đời đấy. Mẹ, lúc chết tiệt nào thì mày mới kiếm
được việc cho ra việc chứ hả?”
Bố rất giỏi đánh trúng đích. Một
cơn khó chịu tràn qua tôi. Không thể nào coi những lời ông nói là nghiêm
túc được, bạn sẽ phát rồ mất. Ông có tính khí nóng nảy như một con chó
canh gác ở bãi phế liệu. Tôi luôn nghĩ sự tức giận của ông như bệnh dại -
ông không kiểm soát được, vì vậy mà không thể trách ông. Ông chưa bao
giờ kiểm soát được cơn giận của mình. Khi tôi còn là thằng nhóc, quá nhỏ
không đỡ lại được, chỉ cần bị chọc tức một chút thôi là ông có thể tháo
phắt thắt lưng da mà dần tôi nhừ tử. Ngay khi vừa đánh xong, ông luôn
luôn lẩm bẩm, “Xem mày bắt tao phải làm gì này?”
“Con đang giải quyết chuyện đó,” tôi nói.
“Họ ngửi được mùi kẻ thua cuộc cách cả dặm, biết không.”
“Bố nói ai?”
“Các công ty ấy. Chẳng ai muốn một kẻ thua cuộc. Ai cũng muốn có được người chiến thắng. Mày đi lấy cho tao một chai cô ca đi?”
Đó
là câu cửa miệng của ông, nó bắt nguồn từ những ngày ông còn làm huấn
luyện viên - rằng tôi là “kẻ thua cuộc”, rằng chỉ thắng cuộc mới có ý
nghĩa, rằng về nhì cũng là thua. Đã từng có lúc kiểu nói đó làm tôi tức
tối. Nhưng giờ thì tôi đã quen; tôi thậm chí bỏ ngoài tai.
Tôi vào
bếp, nghĩ xem giờ chúng tôi sẽ làm gì. Bố tôi cần trợ giúp cả ngày,
chuyện đó không có gì bàn cãi. Nhưng sẽ không cơ sở nào gửi bất cứ ai
tới nữa. Lúc đầu chúng tôi có y tá thực sự từ bệnh viện, họ làm ca ngoài
giờ để kiếm tiền. Khi ông đã hành hạ hết lượt bọn họ, chúng tôi cố xoay
xở tìm được một loạt những người chỉ vừa vặn đủ điều kiện vì đã qua
khóa huấn luyện hai tuần để lấy chứng chỉ hỗ trợ y tá. Rồi thì nhận bất
cứ ma nào chúng tôi tìm được qua quảng cáo trên báo.
Maureen đã
sắp xếp cái tủ lạnh hiệu Kenmore màu vàng hươm gọn tới mức cứ như nó
thuộc về một phòng thí nghiệm của chính phủ. Dãy lon cô ca đứng thẳng
hàng, lon này sau lon kia trên cái giá bằng dây kim loại mà bà đã điều
chỉnh cao vừa tầm. Thậm chí cốc trong tủ cũng sáng loáng thay vì đục và
cáu bẩn như thường lệ. Tôi lấy đá đầy hai cốc và rót mỗi cốc một lon.
Tôi sẽ phải ngồi lại với Maureen, thay mặt bố xin lỗi, van vỉ và nài nỉ,
mua chuộc bà ta nếu cần thiết. Ít nhất thì cũng làm bà ở lại cho tới
khi tôi tìm được người thay thế. Có lẽ tôi có thể đánh vào ý thức về
trách nhiệm của bà với người già, dù tôi đoán là nó đã bị xói mòn phần
lớn bởi tính cáu gắt của bố tôi rồi. Thật sự thì tôi đã hết nước. Nếu
làm hỏng buổi phỏng vấn ngày mai, tôi sẽ có tất cả thời gian trên thế
giới này, nhưng tôi sẽ ở sau song sắt ở đâu đó tại Illinois. Thế sẽ
chẳng thay đổi được gì.
Tôi cầm cốc bước ra, đá kêu leng keng theo
mỗi bước đi. Đoạn phim quảng cáo vẫn đang tiếp tục. Mấy thứ đó đã kéo
dài được bao lâu rồi? Ai mà xem chúng chứ? Nghĩa là ngoại trừ bố tôi ra.
“Bố ạ, đừng lo lắng gì cả,” tôi bảo, nhưng ông đã thiếp đi rồi.
Tôi
đứng trước mặt ông vài giây, nhìn xem ông còn thở không. Ông vẫn còn
thở. Cằm tì lên ngực, đầu ngoẹo một góc trông rất buồn cười. Khí ôxy tạo
thành âm huýt khe khẽ. Đâu đó dưới tầng hầm, Maureen đang khua khoắng
các thứ loảng xoảng, có lẽ là đang diễn tập lại lời kết của mình. Tôi
đặt hai ly cô ca xuống chiếc bàn nhỏ đầy thuốc men và điều khiển từ xa.
Rồi tôi rướn người hôn lên cái trán lấm bẩn đỏ ửng của ông già. “Sẽ tìm được ai đó thôi,” tôi nói nhỏ.
9
Trụ
sở chính của Hệ thống Trion trông giống như Lầu Năm Góc phủ crôm mài.
Mỗi một trong năm mặt là một “cánh” nhà bảy tầng. Nó đã được một kiến
trúc sư nổi tiếng nào đó thiết kẽ. Bên dưới là nhà để xe đày những chiếc
BMW và Range Rovers, và rất nhiều VW, và đại loại như thế, nhưng không
có ô giữ trước nào, theo như mắt tôi thấy.
Tôi nêu tên mình cho
“đại sứ tiền sảnh” của Cánh B, cái tên hoa mỹ mà họ đặt cho nhân viên
tiếp tân. Cô ta in ra một miếng dán đánh mã có ghi KHÁCH. Tôi dán nó lên
túi áo ngực bộ com lê Armani xám của mình và ngồi ở sảnh chờ người phụ
nữ có tên là Stephanie đến đón.
Đó là trợ tá cho Phó Giám đốc Nhân
sự, Tom Lundgren. Tôi cố tĩnh tâm, thư giãn, thoải mái đầu óc. Tôi tự
nhắc mình là không thể mong được vụ sắp đặt nào tốt hơn thế này nữa.
Trion đang tìm người lấp chỗ trống cho vị trí quản lý tiếp thị sản phẩm -
một người đột ngột bỏ đi mất, và tôi đã được đo ni đóng giày cho công
việc đó, được thiết kế theo di truyền học, được tái bản theo kỹ thuật
số. Trong vài tuần gần đây, một số tay săn đầu người được lựa chọn và
được cho biết về anh chàng trẻ tuổi đáng kinh ngạc ở Wyatt đã chín sẵn
chỉ còn chờ hái. Quả mọng treo cành thấp. Tin lan truyền một cách ngẫu
nhiên, lúc ở hội nghị công nghiệp, khi qua lời đồn đại. Tôi bắt đầu nhận
được đủ loại cuộc gọi từ các nhà tuyển dụng trong hộp thư thoại.
Thêm
nữa tôi đã nhọc công tìm hiểu về Hệ thống Trion. Tôi biết nó là một gã
khổng lồ trong lĩnh vực thiết bị điện tử tiêu dùng được sáng lập vào đầu
những năm 70 dưới bàn tay của Augustine Goddard huyền thoại, tên thường
gọi là Jock chứ không phải Gus. Ông ta gần như là một hình tượng được
sùng bái. Goddard tốt nghiệp từ trường Công nghệ Cal, phục vụ trong hải
quân, từng làm việc ở hãng Fairchild Semiconductor, rồi Lockheed, và
sáng chế ra một công nghệ đột phá nào đó về sản xuất đèn hình ti vi màu.
Ông ta được nhiều người coi là thiên tài, nhưng không giống như những
thiên tài kiểu bạo chúa sáng lập nên các tập đoàn đa quốc gia khổng lồ,
ông ta rõ ràng không tệ hại như thế. Người ta thích ông ta, trung thành
với ông ta khủng khiếp. Ông ta giống như một hình tượng vừa xa vời, vừa
gần gũi như cha mẹ. Chỉ thoáng nhìn thấy Jock Goddard trong những dịp
hiếm hoi người ta cũng gọi là “chứng kiến”, cứ như thể ông ta là vật thể
bay không xác định vậy.
Dù Trion không còn chế tạo đèn hình ti vi
màu nữa, đèn hình Goddard đã được bán bản quyền cho Sony và Mitsubishi,
cũng như tất cả những công ty Nhật Bản sản xuất ti vi bán vào thị
trường Mỹ. Sau này, Trion chuyển hướng sang truyền thông điện tử - lấy
thiết bị truyền tín hiệu Goddard làm bệ phóng. Bây giờ Trion làm ra điện
thoại di động và máy nhắn tin, linh kiện máy tính, máy in laser màu,
thiết bị hỗ trợ điện tử cá nhân và đại loại như thế.
Một phụ nữ rắn rỏi với tóc nâu uốn quăn xuất hiện ở cửa vào sảnh chờ. “Chắc anh là Adam.”
Tôi dành cho chị ta một cái bắt tay chắc chắn và dễ chịu. “Rất vui được gặp chị.”
“Tôi
là Stephanie,” chị nói. “Trợ lý của Tom Lundgren.” Chị dẫn tôi vào
thang máy và lên tầng sáu. Chúng tôi nói chuyện phiếm với nhau. Tôi cố
tỏ ra nhiệt tình nhưng không lóng ngóng, và chị ta có vẻ không tập trung
lắm. Tầng sáu là khu làm việc chia lô điển hình, các khoang kéo dài đến
hút tầm nhìn, rộng bạt ngàn. Lối tôi được dẫn đi như một mê cung; dù có
thả vụn bánh mì đánh dấu tôi cũng không thể tìm được lối ra thang máy.
Tất cả mọi thứ ở đây đều theo chuẩn của một tập đoàn, trừ cái màn hình
máy tính tôi đi qua, trên đó trình bảo vệ màn hình hiển thị hình ảnh ba
chiều là đầu của Jock Goddard đang cười nhăn nhở và quay mòng mòng như
Linda Blair trong phim Quỷ ám. Cứ thử làm thế ở Wyatt xem, ý tôi là với
cái đầu của Nick Wyatt ấy, thể gì bọn đầu gấu đánh thuê của tập đoàn
Wyatt cũng sẽ đập vỡ đầu gối bạn.
Chúng tôi đến một phòng họp có tấm biển trên cửa ghi STUDEBAKER.
“Studebaker à?” tôi lên tiếng.
“Phải,
tất cả các phòng họp đều được đặt tên theo các loại ô tô kinh điển của
Mỹ. Mustang, Thunderbird, Corvette, Camaro. Jock thích ô tô Mỹ.” Chị nói
từ Jock hơi khang khác, như thể nó được đóng trong ngoặc kép, dường như
ám chỉ rằng chị không thực sự thân tới mức gọi thẳng tên Tổng Giám đốc
Điều hành, nhưng đó là cách ai cũng gọi ông ta. “Tôi lấy gì cho anh uống
được nhỉ?”
Judith Bolton bảo tôi luôn luôn trả lời có, bởi người
ta thích bày tỏ thiện ý, và tất cả mọi người, thậm chí cả nhân viên hành
chính, sẽ có phản hồi lại về cách nghĩ của họ đối với tôi. “Cô ca,
Pepsi, gì cũng được,” tôi nói. Tôi không muốn tỏ ra quá kiểu cách. “Cảm
ơn chị.”
Tôi ngồi xuống một phía bàn, chọn mặt đối diện với cửa ra
vào chứ không phải đầu bàn. Vài phút sau, một gã chắc nịch mặc quần ka
ki và áo chơi gôn màu xanh hải quân có đính lô gô Trion vụt vào phòng.
Tom Lundgen: Tôi lập tức nhận ra hắn nhờ hồ sơ mà Tiến sĩ Bolton chuẩn
bị cho mình. Phó giám đốc Bộ phận Truyền thông Nhân sự. Bốn mươi ba
tuổi, năm đứa con và phát cuồng với môn đánh gôn. Stephanie đi ngay sau
hắn, mang theo một lon Cô ca và một chai nước Aquafina.
Hắn bắt tay tôi rất chặt. “Adam, tôi là Tom Lundgren.”
“Rất vui được gặp ông.”
“Rất vui được gặp anh. Tôi đã nghe nhiều điều hay về anh.”
Tôi
cười, nhún vai khiêm tốn. Lundgren thậm chí không đeo cà vạt, tôi nghĩ
thầm, và tôi thì giống như trưởng ban tang lễ vậy. Judith Bolton đã cảnh
báo là điều đó có thể xảy ra, nhưng lại bảo thà mặc quá trang trọng cho
buổi phỏng vấn còn hơn mặc quá xuề xòa. Đại thể là dấu hiệu tôn trọng.
Hắn ngồi xuống bên cạnh, quay lại đối diện với tôi. Stephanie nhẹ nhàng khép cửa lại khi đi ra.
“Tôi
đoán làm ở Wyatt hẳn căng thẳng lắm nhỉ?” Hắn có môi mỏng dính và điệu
cười thoắt ẩn thoắt hiện. Da mặt thô nháp, đỏ ửng, như thể là hắn hoặc
đã chơi gôn quá nhiều, hoặc bị rối loạn da mãn tính gì đó. Hắn ta ngồi
rung chân phải. Gã đàn ông đó là một bầu năng lượng căng tràn, một trung
tâm sức mạnh; hắn dường như đã hấp thụ quá nhiều cafein và buộc tôi
phải nói nhanh. Rồi tôi nhớ ra hắn là người theo dòng đạo Mormon và
không uống cà phê. Tôi sẽ ghét phải gặp hắn sau một chầu cà phê lắm. Có
khi hắn ta sẽ bắn vào quỹ đạo ngoài ngân hà mất.
“Tôi thích căng thẳng như thế.”
“Tôi
mừng là anh nói vậy. ở đây chúng tôi cũng thế.” Nụ cười của hắn lại lóe
lên rồi tắt. “Tôi nghĩ ở đây nhiều người nhóm A[4] hơn bất cứ nơi nào
khác. Ai cũng có tốc độ đồng hồ nhanh hơn.” Hắn vặn nắp chai nước và
uống một ngụm. “Tôi luôn nói Trion là nơi làm việc rất tốt - khi anh đi
nghỉ mát. Anh có thể trả lời thư điện tử, thư thoại và làm xong đủ loại
việc, nhưng chà, anh phải trả giá để nghỉ ngơi. Anh quay lại và hộp thư
thoại đầy ắp, anh bị nghiền nát như quả nho luôn.”
[4] Một học
thuyết tâm lý chia con người thành Nhóm A và Nhóm B, trong đó Nhóm A
được mô tả là thiếu kiên nhẫn, có nhận thức tốt về thời gian, rất có
tính cạnh tranh, nhiều tham vọng, mạnh mẽ và ít nghỉ ngơi.
Tôi
gật đầu, cười đồng tình. Thậm chí cả những gã làm về tiếp thị ở một tập
đoàn công nghệ cao cũng thích nói chuyện như dân kỹ sư, vì vậy tôi đáp
lời. “Giống nhau rồi,” tôi nói. “Anh chỉ có ngần đó vòng xoay, anh phải
quyết định dùng vòng xoay của mình vào việc gì.” Tôi đang bắt chước ngôn
ngữ điệu bộ của hắn, gần như nhái lại, nhưng hắn dường như không để ý.
“Rõ
ràng là thế rồi. Những ngày này chúng tôi không hẳn trong đợt tuyển
dụng - chẳng nơi nào đang tuyển cả. Nhưng một trong các quản lý sản phẩm
mới của chúng tôi đột nhiên chuyển chỗ.”
Tôi lại gật đầu.
“Con Lucid đúng là thiên tài đấy - đã cứu nguy cho Wyatt khỏi một quý ảm đạm. Nó là con cưng của anh hả?”
“Là đội của tôi thì đúng hơn. Tôi chỉ là một phần trong đội thôi. Không điều hành vụ đó.”
Hắn có vẻ thích thế. “Dù gì thì theo những gì tôi nghe được, anh cũng là một nhân vật chủ chốt.”
“Tôi không dám nói vậy. Tôi làm việc chăm chỉ và thích những gì mình làm, và tôi gặp đúng chỗ đúng thời thôi.”
“Anh khiêm tốn quá.”
“Có lẽ,” tôi cười. Hắn cắn câu, thực sự là ngấu nghiến những khiêm tốn và thẳng thắn giả tạo đó.
“Anh làm thế nào vậy? Có bí quyết gì không?”
Tôi
bặm môi thở ra một hơi, như thể đang nhớ lại chuyện chạy đua ma ra tông
vậy. Tôi lắc đầu. “Không có bí quyết gì. Đó là công việc nhóm. Những
con người đồng tâm và có động lực.”
“Cụ thể hơn xem nào.”
“Thú
thực thì mục đích cơ bản ban đầu là để đè chết máy Palm.” Tôi đang nói
về con PDA không dây của Wyatt, con đã thắng được dòng Palm Pilot.
“Trong những cuộc họp lên ý tưởng đầu tiên, chúng tôi hợp được một nhóm
đa chức năng - kỹ sư, dân tiếp thị, những tay ID trong nội bộ, một công
ty ID bên ngoài.” ID là từ chuyên ngành cho thiết kế công nghiệp. Tôi
đang nhồi câu trả lời cho hắn; tôi đã thuộc lòng nó. “Chúng tôi xem bản
nghiên cứu thị trường, tìm ra khiếm khuyết trong sản phẩm của Trion,
trong máy Palm, Handspring, Blackberry.”
“Và khiếm khuyết ở sản phẩm của chúng tôi là gì?”
“Tốc
độ. Mạng không dây dở tệ, nhưng chắc ông cũng biết điều đó rồi.” Đây là
một cú thúc được tính toán cẩn thận. Judith tải về cho tôi một vài nhận
xét thẳng thắn mà Lundgren đã nói ở những hội thảo công nghiệp trong đó
hắn ta cũng thừa nhận như vậy. Hắn nghiêm khắc phê bình những thành quả
của Trion bất cứ khi nào chúng không đạt yêu cầu. Sự thẳng thừng của
tôi là nước mạo hiểm được tính toán kỹ của Judith. Dựa trên đánh giá về
phong cách quản lý của hắn, Judith kết luận rằng hắn ghét cay ghét đắng
thói xu nịnh và có thói quen thẳng thắn.
“Chính xác,” hắn nói và nở nụ cười một mi li giây.
“Dù
sao thì chúng tôi cũng xét qua rất nhiều tình huống. Một bà mẹ suốt
ngày quanh quẩn với con cái thực sự muốn gì, rồi người điều hành công ty
hay quản đốc công trình xây dựng nữa? Chúng tôi trao đổi về bộ tính
năng, tiêu chuẩn vỏ máy, tất cả những chuyện như thế. Các cuộc thảo luận
khá tự do. Ý tưởng của tôi là thiết kế thanh nhã kết hợp với sự đơn
giản.”
“Tôi nghĩ có lẽ các anh đã thiên quá mức về mặt thiết kế mà hy sinh tính năng chăng,” Lundgren chen vào.
“Ý anh là gì?”
“Thiếu đèn chụp flash. Điểm yếu nghiêm trọng duy nhất trong sản phẩm mà tôi thấy.”
Một
cú ném xa, và tôi lao tới đánh. “Tôi hoàn toàn đồng ý.” Nhìn xem, tôi
đã chuẩn bị đầy những câu chuyện về những thành công “của tôi” và những
thất bại giả tạo mà tôi diễn khéo léo tới mức chúng có thể trở thành
thắng lợi trên chiến trường. “Sai sót thảm hại. Đó rõ ràng là tính năng
lớn nhất bị vứt bỏ - nó có trong ý niệm sản phẩm ban đầu, nhưng nó khiến
tiêu chuẩn vỏ máy vượt quá phạm vi chúng tôi muốn, vì vậy nửa chừng thì
nó bị bỏ mất.” Nếm đòn đi.
“Bên anh có định làm gì về chuyện đó ở thế hệ máy tiếp theo không?”
Tôi
lắc đầu. “Xin lỗi, tôi không thể nói được. Đó là độc quyền của hãng
Viễn thông Wyatt. Đây không phải chỉ là việc tuân thủ pháp luật, nó còn
là chuyện đạo đức với tôi - khi anh đã giao ước thì anh phải giữ lời.
Nếu như thế có vấn đề thì...”
Hắn dành cho tôi một nụ cười có vẻ
tán thưởng và thật lòng. Dễ như bỡn. “Hoàn toàn không thành vấn đề. Tôi
tôn trọng điều đó. Bất cứ ai làm lộ thông tin của người từng thuê mình
cũng có thể làm điều đó với tôi.”
Tôi để ý thấy cụm từ “người từng thuê mình”: Lundgren đã hoàn toàn ưng tôi rồi, hắn ta vừa lộ ra điều đó.
Hắn
lôi máy nhắn tin ra kiểm tra nhanh. Hắn đã nhận được khoảng chục tin
trong khi chúng tôi nói chuyện, để ở chế độ rung. “Tôi không định làm
mất thêm thời gian của anh nữa, Adam. Tôi muốn anh gặp Nora.”