Đời ảo - Chương 62 - 63 - 64
62
Có người trong văn phòng tôi.
Khi
tới làm vào sáng hôm sau, tôi thấy họ từ đằng xa - hai người đàn ông,
một trẻ, một già hơn - và tôi sững người. Đã bảy giờ ba mươi sáng, và
không hiểu tại sao Jocelyn không ở bàn mình. Trong khoảnh khắc, đủ loại
khả năng lướt qua đầu tôi, càng về sau càng tệ: Nhân viên an ninh không
biết làm sao đã tìm thấy thứ gì đó trong văn phòng tôi. Hay tôi đã bị
đuổi việc và họ đang dọn đồ khỏi bàn. Hay tôi bị bắt.
Tiến về phía văn phòng, tôi cố giấu sự căng thẳng. Tôi vui vẻ lên tiếng, như thể họ là bạn thân ghé qua chơi, “Chuyện gì vậy?”
Người
nhiều tuổi hơn đang ghi chép lên một kẹp hồ sơ, người trẻ hơn giờ đang
cúi người qua máy tính của tôi. Người nhiều tuổi hơn, tóc bạc và ria
quặp, kính không vành, nói: “Nhân viên an ninh. Thư ký của anh, cô
Chang, cho chúng tôi vào.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi
đang rà soát tất cả các văn phòng trên tầng bảy. Không biết liệu anh đã
nhận được thông báo về vụ vi phạm an ninh ở bộ phận Nhân sự chưa.”
Tất
cả chuyện là như thế sao? Tôi nhẹ người. Nhưng chỉ trong một vài giây.
Nếu như họ tìm thấy thứ gì trong bàn tôi thì sao? Liệu tôi có để món đồ
nghề gián điệp nào rồi khóa lại trong ngăn bàn hay ngăn tủ hồ sơ không?
Tôi đã tạo thành thói quen không bao giờ để gì trong đó. Nhưng nếu tôi
sơ suất? Tôi căng ra như dây đàn đến mức có thể dễ dàng lầm lỡ để lại đồ
ở đó.
“Hay quá,” tôi nói. “Thật mừng có các anh ở đây. Các anh chưa tìm thấy thứ gì chứ, phải không?”
Một
thoáng im lặng trôi qua. Người trẻ hơn nhìn lên từ máy tính của tôi và
không trả lời. Người lớn tuổi hơn bảo, “Vẫn chưa, chưa đâu.”
“Tôi không nghĩ mình là
mục tiêu, chắc chắn rồi,” tôi bổ sung. “Trời ạ, tôi không quan trọng
đến thế. Ý tôi là ở trên tầng này, trong văn phòng của các sếp ấy.”
“Chúng
tôi không được phép trao đổi về vấn đề đó, nhưng chưa, chúng tôi chưa
tìm thấy gì cả. Tuy nhiên, cũng không có nghĩa là chúng tôi sẽ không tìm
thấy.”
“Máy tính của tôi ổn chứ?” tôi nói với người thanh niên.
“Cho
đến giờ không phát hiện ra thiết bị hay thứ gì như thế.” Anh ta trả
lời. “Nhưng chúng tôi sẽ phải chạy một vài chẩn đoán. Anh đăng nhập vào
cho chúng tôi được không?”
“Chắc chắn rồi.” Tôi không gửi thư nào có thể buộc tội mình từ máy tính này, phải không nhỉ?
Chà,
có, tôi đã gửi. Tôi gửi thư cho Meacham từ tài khoản Hushmail. Nhưng
thậm chí dù tin nhắn đó không được mã hóa, nó cũng sẽ không nói cho họ
biết điều gì. Tôi chắc chắn tôi không lưu tệp tin nào mà mình không nên
có vào máy tính. Điều đó thì chắc chắn. Tôi bước ra đằng sau bàn và gõ
mật khẩu. Cả hai nhân viên an ninh đều biết ý nhìn ra chỗ khác cho tới
khi tôi đã đăng nhập xong.
“Ai được vào văn phòng của anh?” người lớn tuổi hơn hỏi.
“Chỉ có tôi. Và Jocelyn.”
“Và đội lao công nữa,” anh ta tiếp tục.
“Tôi đoán thế, nhưng tôi chưa bao giờ thấy họ.”
“Anh chưa bao giờ thấy họ?” Anh ta lặp lại ngờ vực. “Nhưng anh làm tới tối muộn, đúng không?”
“Họ còn làm muộn hơn.”
“Còn về thư từ nội bộ thì sao? Anh có biết có người chuyển thư nào tới đây khi anh ra ngoài không?”
Tôi lắc đầu. “Mọi thứ đều tới bàn của Jocelyn. Người ta không bao giờ chuyển thẳng tới bàn tôi.”
“Có ai ở phòng công nghệ thông tin từng xử lý máy tính hay điện thoại của anh không?”
“Như tôi biết thì không.”
Người trẻ hơn bảo, “Anh nhận được thư nào lạ lùng không?”
“Lạ lùng...?”
“Từ những người anh không biết, với tệp tin đính kèm gì đó.”
“Như tôi nhớ thì không.”
“Nhưng anh có sử dụng các dịch vụ thư điện tử khác phải không? Ý tôi là ngoài Trion?”
“Chắc chắn rồi.”
“Đã bao giờ anh truy cập vào chúng từ máy tính này chưa?”
“Rồi, tôi chắc là rồi.”
“Và ở những hòm thư đó anh có bao giờ nhận được thư nào trông buồn cười không?”
“Chậc,
lúc nào tôi cũng nhận được thư rác, như tất cả mọi người thôi. Anh biết
đấy, Viagra hay ‘Dài thêm bảy centimet’ hay thư về gái trang trại.”
Dường như không ai trong hai người bọn họ có tính hài hước. “Nhưng tôi
chỉ xóa hết đi.”
“Sẽ chỉ mất năm mười phút,” người trẻ hơn nói, đẩy một cái đĩa vào ổ CD-ROM. “Có lẽ anh có thể làm một tách cà phê gì đó.”
Thực
ra tôi phải họp, vì vậy tôi bỏ mấy tay an ninh lại văn phòng, dù cảm
thấy không yên tâm lắm, rồi tới Plymouth, một trong các phòng họp nhỏ.
Tôi
không thích họ lại hỏi về các hòm thư ngoài. Như thế tồi tệ lắm. Đúng
hơn, nó dọa tôi sợ chết khiếp. Nếu như họ quyết định lục lọi tất cả thư
từ của tôi thì sao? Tôi đã được thấy điều đó dễ thực hiện như thế nào.
Nếu họ phát hiện ra tôi đã yêu cầu bản sao lưu lượng thư của Camilletti?
Điều đó có khiến tôi thành kẻ bị nghi ngờ không?
Khi đi ngang qua
văn phòng của Goddard, tôi thấy cả ông và Flo đều không có mặt - Jock
tới cuộc họp, tôi biết. Rồi tôi đi qua Jocelyn, chị mang theo một ca cà
phê. Trên đó có in dòng chữ LÝ TRÍ ĐI VẮNG - QUAY LẠI SAU NĂM PHÚT.
“Bọn an ninh ngu ngốc đó còn ở bàn tôi không?” chị hỏi.
“Giờ họ ở trong văn phòng tôi rồi,” tôi nói và tiếp tục đi.
Chị hơi vẫy tay chào.
63
Goddard
và Camilletti ngồi quanh một cái bàn tròn nhỏ cùng Giám đốc Điều hành
Jim Colvin, còn một Jim nữa, Giám đốc Nhân sự Jim Sperling, và vài phụ
nữ tôi không nhận ra. Sperling, một người da đen với râu cạo sát và kính
gọng dây quá cỡ, đang nói về “đối tượng cơ hội”, tôi đoán ông ta muốn
nói các nhân viên họ có thể cắt bỏ. Jim Sperling không mặc áo cổ lọ như
Jock Goddard, nhưng cũng gần như thế -
áo-khoác-thể-thao-và-áo-phông-cổ-bẻ-sẫm-màu. Chỉ có Jim Colvin mặc com
lê cà vạt công sở truyền thống.
Cậu trợ lý tóc vàng trẻ tuổi của
Sperling dúi cho tôi vài tờ giấy liệt kê các phòng ban và những cá nhân
khờ khạo tội nghiệp sẽ là ứng cử viên cho chiếc rìu. Tôi đọc lướt nhanh
qua và thấy đội Maestro không ở trên đó. Rốt cuộc vẫn là tôi cứu được
công việc cho họ.
Rồi tôi để ý danh sách tên của bộ phận Tiếp thị
Sản phẩm mới, trong đó có Phil Bohjalian. Nhân viên có thâm niên này sẽ
bị cắt giảm, cả Chad và Nora đều không ở trong danh sách, nhưng Phil đã
bị nhắm vào. Vì Nora, hẳn là vậy. Mỗi giám đốc và phó giám đốc đã được
yêu cầu xếp hạng cấp dưới của mình và cắt bỏ ít nhất một phần mười. Nora
rõ ràng đã chọn xử tử Phil.
Buổi họp gần gần giống một phiên đóng
dấu. Sperling lên danh sách, làm “tình huống kinh doanh” cho những “vị
trí” ông ta muốn loại bỏ, và ít có thảo luận. Goddard trông ủ rũ;
Camilletti trông hăng hái, thậm chí hơi sôi nổi.
Khi Sperling nhắc
tới bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, Goddard quay sang tôi, im lặng chờ ý
kiến của tôi. “Tôi có thể nói một chút được không?” tôi chen vào.
“Ừm, dĩ nhiên,” Sperling nói.
“Ở đây có một cái tên, Phil Bohjalian. Ông ta đã đi cùng công ty phải hai mươi, hai mươi mốt năm rồi.”
“Ông ta cũng xếp hạng thấp nhất,” Camilletti nói. Tôi tự hỏi liệu Goddard đã nói gì với hắn về vụ rò rỉ tin cho tờ Nhật báo Phố Wall chưa.
Tôi không thể đoán được từ thái độ của Camilletti, vì hắn xử sự với tôi
cũng chẳng khó chịu nhiều hơn hay ít đi so với thường lệ. “Hơn nữa với
thâm niên của ông ta ở công ty, phúc lợi cho ông ta tốn của chúng ta rất
nhiều tiền.”
“Chậc, tôi muốn hỏi về xếp hạng của ông ấy,” tôi
nói. “Tôi biết cách làm việc của ông ấy, và tôi nghĩ điểm của ông ấy có
lẽ nghiêng về lề lối quan hệ cá nhân hơn.”
“Lề lối,” Camilletti nói.
“Nora
Sommers không thích tính cách của ông ấy.” Công nhận vậy, Phil không
hẳn là bạn bè thân thiết với tôi, nhưng ông ta không thể gây hại gì cho
tôi, và tôi thấy tệ cho ông ấy.
“Chà, nếu đây chỉ là vấn đề xung
đột về tính cách, đó là lạm dụng hệ thống xếp hạng,” Jim Sperling nói.
“Anh muốn nói rằng Nora Sommers đang lạm dụng hệ thống?”
Tôi thấy
rõ chuyện có thể đi đến đâu. Tôi có thể giữ việc cho Phil Bohjalian,
đồng thời vứt bỏ Nora. Thật cám dỗ nếu có thể cứ thế lên tiếng và cắt cổ
Nora. Không ai trong phòng này đặc biệt quan tâm, dù về khía cạnh nào
đi nữa. Tin sẽ xuống tới Tom Lundgren, hắn có lẽ sẽ không chống đối để
giữ lại bà ta. Thực ra, nếu Goddard không dứt tôi ra khỏi nanh vuốt của
Nora, chắc chắn trên danh sách sẽ là tên tôi chứ không phải Phil.
Goddard sắc sảo nhìn tôi, Sperling cũng vậy. Những người khác quanh bàn đang ghi chép.
“Không,”
cuối cùng tôi nói. “Tôi không nghĩ chị ấy lạm dụng hệ thống. Đó chỉ là
chuyện hợp nhau giữa hai người thôi. Tôi nghĩ cả hai đều làm được việc
của mình.”
“Rồi,” Sperling nói. “Chúng ta tiếp tục được chứ?”
“Nghe này,” Camilletti nói: “Chúng ta đang cắt giảm bốn nghìn nhân sự. Chúng ta không thể xét kỹ từng người một được.”
Tôi gật đầu. “Dĩ nhiên.”
“Adam,”
Goddard nói. “Giúp tôi một chuyện. Tôi cho Flo nghỉ sáng nay - anh
không phiền đi lấy cho tôi, ừm, thiết bị cầm tay trong văn phòng chứ?
Tôi để quên.” Mắt ông như lấp lánh. Ông muốn nói tới cuốn sổ ghi hẹn nhỏ
màu đen của mình, và tôi đoán câu đùa là dành cho tôi.
“Chắc chắn rồi,” tôi nói và nuốt mạnh. “Quay trở lại ngay.”
Cửa văn phòng Goddard đóng nhưng không khóa. Cuốn sổ đen nhỏ đang nằm trên mặt bàn trống, ngăn nắp, cạnh máy tính.
Tôi
ngồi xuống ghế và nhìn quanh các vật dụng, những khung ảnh Margaret vợ
ông, tóc bạc, trông như bà ngoại; một bức ảnh ngôi nhà ven hồ. Tôi để ý
thấy không có ảnh con trai ông, Elijah: có lẽ quá đau đớn khi gợi nhớ
lại.
Tôi đang ở một mình trong văn phòng của Jock Goddard, và Flo
nghỉ buổi sáng. Tôi có thể ở đây bao lâu mà không khiến Goddard nghi
ngờ? Liệu có thời gian tìm cách vào máy tính của ông ta không? Nếu như
Flo xuất hiện khi tôi đang làm thế thì sao...?
Không. Mạo hiểm
điên rồ. Đây là văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành, và có lẽ lúc nào
cũng có người ra người vào. Và tôi không thể liều lĩnh mất hơn hai hay
ba phút cho việc vặt này: Goddard sẽ tự hỏi tôi đang ở đâu. Có lẽ tôi đi
vệ sinh trước khi lấy cho ông cuốn sổ: như thế hẳn giải thích được năm
phút, không hơn.
Nhưng có lẽ tôi sẽ không bao giờ có được cơ hội này nữa.
Tôi
vội vã giở cuốn sổ cũ ra và thấy các số điện thoại, ghi chép nguệch
ngoạc trên các ô lịch... và trên trang bên trong bìa sau là dòng chữ hoa
được viết cẩn thận, “GODDARD” và bên dưới nó là “62858”.
Đó phải là mật khẩu của ông.
Bên trên năm con số đó, bị gạch đi là “THANGSAU 2858.” Tôi nhìn hai dãy số và đoán nó đều là ngày tháng, và chúng đều là cùng một
ngày: Ngày 28 tháng Sáu năm 1958. Rõ ràng một ngày quan trọng với
Goddard. Tôi không biết ngày gì. Có lẽ là ngày cưới. Và cả hai cách viết
rõ ràng đều là mật khẩu.
Tôi vớ lấy một cái bút và một mẩu giấy chép lại mã và mật khẩu.
Nhưng tại sao không sao chép cả cuốn sổ? Rất có thể có những thông tin quan trọng khác ở đây.
Đóng cửa văn phòng Goddard lại sau lưng tôi, tôi tới máy sao chép sau bàn Flo.
“Anh đang định giành việc của tôi à, Adam?” giọng Flo cất lên.
Tôi quay lại và thấy Flo cầm một cái túi Saks Đại lộ số năm. Cô ta đang nhìn tôi dữ dằn.
“Chào buổi sáng, Flo,” tôi nói một cách tự nhiên. “Không, đừng lo. Tôi chỉ lấy đồ cho Jock thôi.”
“Thế
là tốt. Bởi vì tôi đã ở đây lâu hơn, và tôi sẽ ghét phải chèn ép anh
đấy.” Ánh mắt cô ta dịu đi, và một nụ cười ngọt ngào nở trên khuôn mặt.
64
Khi buổi họp kết thúc, Goddard lách tới chỗ tôi và quàng tay qua vai tôi. “Tôi thích điều anh làm trong đó,” ông nói nhỏ.
“Nghĩa là sao?”
Chúng
tôi bước dọc hành lang tới văn phòng của ông. “Tôi muốn nói về sự kiềm
chế của anh trong trường hợp Nora Sommers. Tôi biết anh cảm thấy thế nào
về chị ta. Tôi biết chị ta thấy thế nào về anh. Với anh loại bỏ chị ta
hẳn sẽ là điều dễ dàng nhất trên thế giới. Và thẳng thắn thì tôi sẽ
không phản đối lắm đâu.”
Tôi hơi thấy không thoải mái trước cảm tình của Goddard, nhưng tôi cười, cúi đầu. “Đó là điều đúng đắn phải làm,” tôi nói.
“
‘Ai có đủ quyền hành và cái ác - Mà chẳng bắt ai đau đớn một ngày’,”
Goddard nói, “ ‘Người ấy đáng được Chúa trời ban phước.’ Shakespeare.
Trong tiếng Anh hiện đại: Khi anh có quyền lực để giày xéo lên người
khác và anh không làm thế - chà, đó là khi anh chứng tỏ được anh thực sự
là ai.”
“Tôi cho là vậy.”
“Và người lớn tuổi hơn mà anh muốn giúp giữ việc là ai?”
“Chỉ là một nhân viên làm tiếp thị.”
“Bạn bè?”
“Không. Tôi cũng không nghĩ ông ấy đặc biệt quý mến gì tôi. Tôi chỉ nghĩ ông ấy là một nhân viên trung thành.”
“Tốt
cho anh đấy.” Goddard siết mạnh vai tôi. ông dẫn tôi vào văn phòng,
dừng lại một lúc trước bàn của Flo. “Chào cưng,” ông nói. “Tôi muốn xem
váy để xác nhận cho chắc nào.”
Flo tươi cười rạng rỡ, mở túi Saks, lấy ra một chiếc váy bé gái nhỏ bằng lụa trắng và tự hào giơ lên.
“Tuyệt diệu,” ông nói. “Đúng là tuyệt diệu.”
Rồi chúng tôi đi vào văn phòng và ông đóng cửa lại.
“Tôi
vẫn chưa nói một lời nào với Paul,” Goddard nói, ngồi xuống đằng sau
bàn. “Và tôi cũng chưa quyết định liệu tôi có nói không. Anh vẫn chưa
bảo ai khác, đúng không? Về chuyện tờ Nhật báo đó?”
“Đúng vậy.”
“Cứ
để như thế đi. Nghe này, Paul và tôi có một vài quan điểm khác nhau, và
có lẽ đây là cách cậu ấy đốt lửa dưới chân tôi. Có lẽ cậu ấy nghĩ mình
đang giúp công ty. Tôi không biết nữa.” Một tiếng thở dài sườn sượt.
“Nếu tôi thực sự nhắc tới chuyện này với cậu ấy - chà, tôi không muốn
tin lan ra xung quanh. Tôi không muốn bất cứ điều khó chịu nào. Những
ngày này chúng ta có chuyện quan trọng hơn nhiều nhiều lần.”
“Được rồi.”
Ông liếc xéo tôi. “Tôi chưa bao giờ tới nhà hàng Auberge, nhưng tôi nghe nói nó rất tuyệt. Anh nghĩ sao?”
Bụng tôi ọc ạch. Mặt nóng bừng lên. Camilletti đã ở đó tối hôm qua, tồi tệ đến thế là cùng.
“Tôi chỉ - thực ra tôi chỉ uống một ly rượu.”
“Anh không bao giờ đoán nổi ai tối qua cũng ăn ở đó đâu,” Goddard nói. Biểu cảm của ông không thể đọc nổi. “Nicholas Wyatt.”
Rõ
ràng Camilletti đã hỏi dò xung quanh, cố phủ nhận rằng tôi đã ngồi với
Wyatt sẽ là tự sát. “Ồ, chuyện đó,” tôi nói, cố tỏ ra chán chường. “Từ
khi tôi nhận việc ở Trion, Wyatt đã theo tôi...”
“Ồ, vậy à?” Goddard ngắt lời. “Vậy dĩ nhiên anh không còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận lời mời ăn tối với ông ta, hử?”
“Không, giám đốc, không phải như vậy,” tôi nói, nuốt khan.
“Anh thay đổi công việc không có nghĩa là anh từ bỏ bạn bè cũ, chắc vậy.”
Tôi lắc đầu, nhíu mày. Mặt tôi cảm giác đang đỏ bừng lên y như mặt Nora. “Thực ra không phải chuyện bạn bè gì...”
“Ồ,
tôi biết chuyện như thế nào,” Goddard nói. “Người kia khiến anh thấy
tội lỗi và phải gặp ông ta chỉ vì chuyện ngày xưa, còn anh không muốn
thô lỗ, và rồi ông ta đề nghị mật ngọt chết ruồi...”
“Ông biết tôi không có ý định...”
“Dĩ nhiên là không, dĩ nhiên là không,” Goddard lẩm bẩm. “Anh không phải là loại người đó. Thôi tôi xin. Tôi biết nhìn người. Tôi thích nghĩ đó là một trong những điểm mạnh của mình.”
Khi về văn phòng, tôi ngồi xuống bàn, run rẩy.
Sự
việc Camilletti báo cáo cho Goddard biết hắn thấy tôi ở Auberge cùng
lúc với Wyatt có nghĩa là Camilletti ít nhất cũng nghi ngờ động cơ của
tôi. Hắn hẳn phải nghĩ tối thiểu cũng là tôi để mặc ông chủ cũ nài nỉ,
níu kéo mình. Nhưng hắn là Camilletti, hắn có lẽ có ý tưởng đen tối hơn
thế nữa.
Thật đúng là một tai họa chết tiệt. Tôi cũng tự hỏi liệu Goddard có thực sự nghĩ tất cả chuyện này là vô hại không. “Tôi biết nhìn người,”
ông ta đã nói vậy. Ông ta ngờ nghệch đến thế sao? Tôi không biết phải
nghĩ gì. Nhưng rõ ràng từ giờ trở đi tôi phải rất cẩn thận dè chừng.
Tôi hít thở sâu, ấn mạnh đầu ngón tay lên đôi mắt nhắm. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì thôi.
Vài
phút sau, tôi tìm kiếm nhanh trên website của Trion và thấy tên người
điều hành đơn vị sở hữu Trí tuệ trong bộ phận Pháp lý của Trion. Hắn tên
là Bob Frankenheimer, bốn mươi tư tuổi, đã làm cho Trion được tám năm.
Trước đó hắn là Tổng Cố vấn ở Oracle, và trước đó nữa làm ở Wilson,
Sonsini, một công ty luật lớn ở Thung lũng Silicon. Nhìn ảnh, hắn béo
phì quá mức, với tóc quăn đen, râu mọc lún phún, kính dày. Nhìn như một
gã mọt sách hoàn hảo.
Tôi gọi hắn từ bàn mình, vì tôi muốn hắn
thấy mã gọi và biết tôi gọi từ văn phòng của Tổng Giám đốc. Hắn trả lời
điện thoại, với giọng êm dịu đến ngạc nhiên, như giọng ca sĩ trên sóng
đêm khuya của một đài rock nhẹ.
“Anh Frankenheimer, tôi là Adam Cassidy tại văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành.”
“Tôi giúp gì được anh?” hắn hỏi, nghe thực sự hợp tác.
“Chúng tôi muốn xem lại tất cả bằng sáng chế của bộ phận số ba trăm hai mươi.”
Đó
là một nước đi táo bạo, và chắc chắn mạo hiểm. Nếu như hắn lại đề cập
chuyện này với Goddard thì sao? Sẽ đại thể là vô phương giải thích.
Một quãng lặng dài. “Dự án AURORA.”
“Đúng
vậy,” tôi nói tự nhiên. “Tôi biết lẽ ra chúng tôi cần phải có tất cả
các bản sao hồ sơ ở đây, nhưng tôi vừa bỏ hai giờ đồng hồ qua tìm khắp
mọi nơi, nhưng tôi không thể tìm được, làm Jock thực sự bực tức về
chuyện này.” Tôi hạ giọng, “Tôi là người mới ở đây - tôi chỉ vừa mới bắt
đầu - và tôi không muốn làm hỏng việc này.”
Lại một khoảng lặng,
giọng Frankenheimer đột nhiên trở nên lạnh hơn, ít hợp tác hơn, như thể
tôi vừa bấm nhầm nút. “Tại sao anh lại gọi tôi?”
Tôi không biết ý
hắn là gì, nhưng rõ ràng tôi vừa dẫm chân vào. “Vì tôi đoán anh là người
có thể giúp tôi giữ được việc,” tôi nói, hơi cười châm chọc.
“Anh nghĩ tôi có các bản sao ở đây?” hắn sẵng giọng.
“Chậc, vậy anh có biết các bản sao hồ sơ ở đâu không?”
“Anh
Cassidy, tôi có một đội gồm sáu luật sư hàng đầu về lĩnh vực sở hữu trí
tuệ trong này có thể xử lý hầu hết tất cả mọi chuyện. Nhưng hồ sơ của
AURORA? Ồ, không. Chúng phải do các luật sư bên ngoài xử lý. Tại sao?
Được vin vào cớ ‘an ninh tập đoàn’.” Giọng hắn cứ to dần lên, và hắn
nghe thực sự phẫn nộ. “ ‘An ninh tập đoàn.’ Bởi vì có lẽ là những luật
sư bên ngoài thực hiện được một loại an ninh tốt hơn người của chính
Trion. Vậy tôi hỏi anh: Một thông điệp như thế nên hiểu như thế nào?”
Hắn không còn nghe êm dịu nữa.
“Thật không phải,” tôi nói. “Vậy ai xử lý các hồ sơ.”
Frankenheimer
thở hắt ra. Hắn chua chát, giận dữ, có thể làm ứng cử viên sáng giá cho
bệnh đau tim. “Tôi ước mình giúp được anh. Nhưng rõ ràng người ta cũng
không thể tin cậy trao cho chúng tôi thông tin đó. Các biểu trưng văn
hóa của chúng ta nói gì chứ, ‘Truyền Thông Mở’? Tôi thích nó quá đi mất.
Tôi nghĩ chắc mình phải in nó lên áo phông mặc trong Giải đấu Tập đoàn
mất thôi.”
Sau khi dập máy, tôi đi ngang qua văn phòng của Camilletti trên đường tới nhà vệ sinh nam, và rồi tôi lộn ngược lại.
Ngồi trong văn phòng của Paul Camilletti với vẻ mặt nghiêm trọng, là anh bạn cũ của tôi.
Chad Pierson.
Tôi rảo bước nhanh hơn, không muốn bị ai trong hai người đó nhìn thấy qua tường kính văn phòng của Camilletti. Dù tại sao tôi không muốn bị thấy thì tôi chẳng rõ. Giờ tôi chạy theo bản năng.
Chúa ơi, Chad mà biết Camilletti
ư? Hắn chưa bao giờ nói hắn quen, và cứ xét thái độ nhún nhường và
khiêm tốn của Chad, điều đó chính là loại chuyện mà hắn hẳn sẽ huênh
hoang với tôi. Tôi không nghĩ ra được bất cứ lý do hợp lý - hay ít nhất
là vô hại - nào giải thích được việc hai người đó có thể đang nói
chuyện. Và chắc chắn không phải chuyện bạn bè: Camilletti sẽ không phí
thời gian với hạng sâu bọ như Chad.
Lý do hợp lý duy nhất là lý do
tôi sợ nhất: Chad đã đem nghi ngờ về tôi thẳng lên cấp trên cao nhất,
hay cao nhất mà hắn có thể với tới. Nhưng tại sao lại là Camilletti?
Không
nghi ngờ gì rằng Chad muốn làm hại tôi, và một khi hắn nghe được về
người mới được tuyển từ Viễn thông Wyatt, hắn có lẽ đã lựa Kevin Griffin
ra để tìm thông tin bôi nhọ tôi. Và hắn đã gặp may.
Nhưng có thật hay không?
Ý
tôi là, Kevin Griffin thực sự biết được bao nhiêu về tôi? Hắn biết các
tin đồn, chuyện ngồi lê đôi mách; hắn có thể bảo biết gì đó về quá khứ
của tôi ở Wyatt. Nhưng đây là một kẻ mà thanh danh của chính mình còn
phải xem xét. Dù bộ phận An ninh của Wyatt đã nói gì với Trion, rõ ràng
người ở Trion tin điều đó - nếu không họ đã không đá hắn đi nhanh như
thế.
Vậy liệu Camilletti có thực sự tin vào những lời buộc tội
gián tiếp từ một nguồn tin có vấn đề, rất có thể là một đống rác rưởi,
như Kevin Griffin không?
Mặt khác... giờ hắn đã thấy tôi đi ăn với Wyatt, trong một nhà hàng kín đáo, có lẽ hắn sẽ tin.
Bụng tôi bắt đầu đau quặn. Tôi tự hỏi liệu mình có bị loét dạ dày không.
Thậm chí nếu như đúng vậy, cũng sẽ chỉ là rắc rối nhỏ bé nhất mà thôi.