Đời ảo - Chương 65
65
Ngày hôm sau, thứ Bảy, là bữa tiệc
ngoài trời của Goddard. Tôi mất một tiếng rưỡi để đến ngôi nhà ven hồ
của Goddard, phải đi qua nhiều đoạn đường làng hẹp. Trên đường đi, tôi
gọi cho bố bằng điện thoại di động, một sai lầm. Tôi nói vài câu với
Antwoine, rồi bố chen vào, hổn hển cáu gắt, vẫn con người lôi cuốn như
mọi khi, và đòi tôi tới ngay lập tức.
“Không thể đâu, bố ạ,” tôi
nói. “Con có công chuyện cần phải làm.” Tôi không muốn nói mình phải tới
bữa tiệc ngoài trời ở ngôi nhà nông thôn của Tổng Giám đốc Điều hành.
Đầu tôi lướt qua tất các phản ứng mà ông có thể có và bị quá tải. Nào là
bài diễn văn về các Tổng Giám đốc Điều hành thối nát, nào là bài diễn
văn về Adam-thằng-liếm-gót-thảm-hại, rồi bài mày-không-biết-mày-là-ai,
bài bọn-nhà-giàu-bắt-mày-nhớ-là-chúng-giàu-có, bài cái-gì-chứ-
mày-không-muốn-bỏ-thời-gian-ở-với-thằng-bố-đang-chết-dần-của- mày-à...
“Bố cần gì không?” tôi nói thêm, biết ông sẽ không bao giờ thừa nhận mình cần gì.
“Tao không cần gì cả,” ông gắt gỏng. “Không cần nếu mày quá bận.”
“Sáng mai con đến, được chứ?”
Bố im lặng, cho tôi biết mình đã chọc giận ông, rồi để Antwoine nói chuyện, ông đã lại biến thành con người khó chịu thường lệ.
Tôi
chấm dứt cuộc gọi khi tới ngôi nhà. Nơi này được cắm biển gỗ đơn giản
trên cọc, chỉ có chữ GODDARD và một con số. Rồi một con đường đất dài
đầy vết xe qua đám cây cối rậm rạp, đột ngột mở rộng vào đường lái xe
vòng tròn đầy vỏ sò vỡ. Một thằng nhóc mặc áo xanh đang tạm thời đóng
vai trò người phục vụ. Tôi miễn cưỡng đưa cho nó chìa khóa chiếc
Porsche.
Ngôi nhà nằm trải dài, ấm cúng, ván lợp màu xám, trông
giống như xây từ cuối thế kỷ mười chín gì đó. Nó tọa lạc trên một mũi
đất nhìn ra hồ, với bốn ống khói đá lớn và cây thường xuân leo trên các
tấm ván lợp. Mặt trước là bãi cỏ mênh mông, tỏa mùi như vừa được cắt, và
đây đó là những cây sồi già khổng lồ và cây thông khẳng khiu.
Hai
ba mươi người đang đứng trên khắp bãi cỏ, mặc quần ngắn áo phông và
trên tay cầm đồ uống. Một đám trẻ con chạy qua lại, la hét và ném bóng,
chơi đùa. Một cô bé tóc vàng xinh xắn ngồi tại bàn phát thẻ trước hiên
nhà. Cô bé cười, tìm thẻ tên và đưa cho tôi.
Hoạt động chính có lẽ
ở mặt bên kia nhà, bãi cỏ đằng sau thoai thoải xuống cầu tàu bằng gỗ
trên mặt nước, ở đó mọi người đông đúc hơn. Tôi nhìn quanh tìm gương mặt
quen thuộc, nhưng không thấy ai. Một người phụ nữ mập mạp khoảng sáu
mươi mặc áo captan đỏ tía, da nhăn nheo và tóc bạc trắng, tiến đến chỗ
tôi.
“Anh lạc đường thì phải,” bà ta tử tế nói. Giọng bà trầm và
khàn, và mặt cũng dãi dầu sương gió và gây ấn tượng mạnh như ngôi nhà.
Tôi
biết ngay lập tức bà hẳn phải là vợ của Goddard. Bà trông thô kệch y
như được quảng cáo. Mordden nói đúng: bà thực sự trông giống như một chú
chó nhăn.
“Tôi là Margaret Goddard. Anh chắc là Adam.”
Tôi
chìa tay ra, hãnh diện không biết vì sao bà lại nhận được tôi, rồi nhớ
ra tên mình nằm ở trước ngực áo. “Rất vui được gặp bà, bà Goddard,” tôi
nói.
Bà không chỉnh lại tôi, bảo tôi gọi mình là Margaret. “Jock
kể với tôi khá nhiều về anh.” Bà bắt tay tôi rất lâu và gật đầu. Đôi mắt
nâu nhỏ mở rộng. Bà trông kinh ngạc, trừ phi tôi tưởng tượng ra điều
đó. Bà lại gần hơn. “Chồng tôi là một ông già lẩm cẩm hay hoài nghi, và
không dễ gây được ấn tượng với ông ấy. Vậy nên anh hẳn phải giỏi lắm.”
Một
hành lang dưới mái hiên ôm lấy phía sau ngôi nhà. Tôi đi qua vài vỉ
nướng Cajun lớn màu đen với hàng cuộn khói bốc lên từ than hồng. Vài cô
gái mặc đồng phục trắng đang đứng trông đống bánh kẹp, thịt nướng và
thịt gà cháy xèo xèo. Một quầy dài được đặt gần đó với khăn trải bàn vải
lanh trắng, một số thanh niên ở độ tuổi học cao đẳng đang ở đó, rót đồ
uống thập cẩm, nước ngọt và bia vào các cốc nhựa trong. Tại bàn khác,
một người đang mở vỏ hàu và trải chúng ra trên lớp đá lạnh.
Khi
tiến đến mái hiên, tôi bắt đầu nhận ra mọi người, phần lớn họ là các
lãnh đạo cấp khá cao ở Trion, đi cùng vợ con. Nancy Schwartz, phó giám
đốc cao cấp của bộ phận Giải pháp Kinh doanh, một người phụ nữ nhỏ bé,
tóc sẫm màu, dáng vẻ lo lắng, mặc áo phông Day Glo màu vàng của Trion
được may trong Giải đấu Tập đoàn năm ngoái, đang chơi bóng vồ với Rick
Durant, Giám đốc Tiếp thị, cao, mảnh khảnh, rám nắng với mái tóc sấy tạo
kiểu, cả hai đều trông u sầu. Nhân viên hành chính của Goddard, Flo,
mặc váy Hawaii bằng lụa, đầy hoa và rất ấn tượng, đang lượn quanh như
thể chính mình là bà chủ nhà.
Rồi tôi thấy Alana, cặp chân dài rám
nắng nổi bật trên nền cái quần lửng trắng. Cô cũng thấy tôi đúng lúc
đó, và mắt như sáng bừng lên. Cô có vẻ ngạc nhiên. Cô ngấm ngầm vẫy tay
nhanh và cười với tôi rồi quay đi. Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì,
nếu nó có nghĩa. Có lẽ cô muốn kín đáo về quan hệ giữa chúng tôi, chuyện
đừng-mang-quan-hệ-cá- nhân-vào-công-ty cũ rích.
Tôi đi qua sếp cũ
của mình, Tom Lundgren, hắn mặc một chiếc áo sơ mi chơi gôn xấu xí với
các dải xám và hồng tươi. Hắn đang vừa cầm một chai nước và căng thẳng
xé lớp vỏ nhãn thành một dải dài hoàn hảo vừa cười gượng gạo nghe một
người phụ nữ da đen hấp dẫn nói, có lẽ là Audrey Bethune, Phó Giám đốc
và người đứng đầu đội Guru. Đứng hơi lùi về đằng sau là một người phụ nữ
tôi cho là vợ của Lundgren, mặc đồ chơi gôn giống hệt, mặt cũng gần như
đỏ ửng và bực bội hệt ông ta. Một cậu nhóc cao gầy đang nắm lấy khuỷu
tay bà ta và léo nhéo nài nỉ gì đó.
Cách đấy khoảng mươi mười lăm
mét, Goddard đang cười phá lên giữa một đám người trông quen thuộc. Ông
đang uống một chai bia và mặc áo sơ mi xanh mở khuy, ống tay áo cuộn
lên, quần kaki gấp nếp phẳng lì, thắt lưng vải xanh hải quân với hình cá
voi trên mặt, và giày da nâu cũ kỹ. Một vị nam tước miền quê vừa lập dị
vừa kiểu cách điển hình. Một cô bé chạy ra chỗ ông, thế là ông cúi
người rồi như ma thuật lấy ra một đồng xu từ sau tai nó. Nó kêu ré lên
ngạc nhiên. Ông đưa cho cô bé đồng tiền và nó chạy đi, la hét vui sướng.
Ông
nói gì đó, và người nghe cười phá lên như thể ông là Jay Leno, Eddie
Murphy và Rodney Dangerfield đồng thời nhập lại thành một. Paul
Camilletti đứng ở bên cạnh, mặc quần jean phẳng phiu, bạc mầu và áo sơ
mi trắng mở khuy, tay áo cũng xắn lên. Hắn chọn đúng bản ghi nhớ cách ăn mặc, dù tôi thì không - tôi mặc quần kaki ngắn và áo phông cổ bẻ.
Đối
diện hắn là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành, hai cẳng chân trắng nhợt
lẻo khẻo như chim chích lộ ra phía dưới cái quần ngắn hiệu Bermuda màu
xám giản dị. Đúng là một cuộc trình diễn thời trang thực thụ. Goddard
ngước lên, bắt gặp ánh mắt tôi và ra hiệu bảo tôi tới.
Khi tôi bắt
đầu bước đến, một người tự dưng từ đâu xuất hiện và bắt lấy cánh tay
tôi. Nora Sommers, mặc áo đan màu hồng với cổ đứng và quần kaki rộng cỡ,
trông sướng rơn khi gặp tôi. “Adam!” Mụ kêu lên. “Tôi mừng thấy anh ở
đây quá! Chỗ này không tuyệt sao?”
Tôi gật đầu, cười lịch sự. “Con gái chị có đến không?”
Trông
mụ đột nhiên không thoải mái. “Megan đang trải qua một thời kỳ khó
khăn, con bé tội nghiệp. Nó chẳng bao giờ muốn dành thời gian với tôi.”
Thật buồn cười, tôi nghĩ, tôi cũng đang trải qua đúng thời kỳ như thế
đấy. “Nó thích đi cưỡi ngựa với bố nó còn hơn lãng phí một buổi chiều
với mẹ và hội bạn buồn chán ở chỗ làm của mẹ.”
Tôi gật đầu. “Xin phép...”
“Anh
đã bao giờ có dịp thấy bộ sưu tập xe của Jock chưa? Nó ở trong nhà để
xe đằng kia.” Mụ chỉ về một ngôi nhà trông giống như kho thóc cách
khoảng trăm mét bên kia bãi cỏ. “Anh phảithấy những chiếc xe đó. Chúng thật lộng lẫy!”
“Tôi sẽ xem, cảm ơn,” tôi nói, rồi bước một bước về phía nhóm của Goddard.
Nora tóm chặt cánh tay tôi hơn. “Adam, tôi luôn muốn nói với anh, tôi rất vui
trước thành công của anh. Nó thực sự nói lên rằng Jock sẵn lòng đánh
cược vào anh, đúng không? Đặt niềm tin vào anh? Tôi thật mừng cho anh!” Tôi nồng nhiệt cảm ơn mụ và gỡ cánh tay tôi ra khỏi móng vuốt mụ.
Tôi
tới chỗ Goddard và lịch sự đứng sang một bên cho tới khi ông thấy tôi
và vẫy tôi lại. Ông giới thiệu tôi với Stuart Lurie, người lãnh đạo bộ
phận Giải pháp Doanh nghiệp, ông ta bảo, “Chuyện thế nào, anh bạn?” và
siết thật chặt tay tôi. Ông ta trông khá điển trai, khoảng bốn mươi
tuổi, đã sớm hói và cạo sát ở hai bên nên trông vừa kỹ tính vừa hay ho.
“Adam là tương lai của Trion,” Goddard nói.
“Chà, này, rất vui được gặp tương lai!” Lurie nói với một thoáng châm chọc. “Anh sẽ không rút đồng xu nào ra từ tai cậu ấy chứ, Jock?”
“Không
cần làm thế,” Jock nói. “Adam luôn lấy thỏ ra khỏi mũ, đúng không,
Adam?” Goddard quàng tay qua vai tôi, một hành động lúng túng vì tôi cao
hơn ông nhiều. “Đi với tôi,” ông khẽ khàng nói.
Ông dẫn tôi đi
tới hành lang dưới mái hiên. “Một chút nữa tôi sẽ thực hiện một nghi lễ
truyền thống nho nhỏ,” Ông nói trong khi chúng tôi leo lên những bậc
thang gỗ. Tôi giữ cửa che mở cho ông. “Tôi đem tặng những món quà nhỏ,
những vật be bé ngốc nghếch - quà đùa giỡn thôi, thật đấy.” Tôi cười, tự
hỏi tại sao ông lại kể cho tôi điều này.
Chúng tôi đi qua hành
lang dưới mái hiên, với đồ đạc cũ kỹ làm bằng liễu gai, vào tiền phòng,
rồi vào phần chính của ngôi nhà. Sàn làm bằng gỗ thông bản rộng cũ, nó
kêu cót két khi chúng tôi bước qua. Tường đều được sơn màu trắng sữa, và
mọi thứ đều toát lên vẻ sáng sủa, vui vẻ và ấm cúng. Nó tỏa ra thứ mùi
không thể miêu tả nổi của các ngôi nhà cũ. Tất cả đều thoải mái, gần gũi
và sống động. Đây là ngôi nhà của một người giàu có không tự phụ, tôi
nghĩ. Chúng tôi đi xuống một hành lang rộng, qua phòng khách có lò sưởi
bằng đá lớn, rồi quành ở góc vào hành lang hẹp lát gạch. Cúp và đồ trưng
bày xếp trên giá hai bên hành lang. Rồi chúng tôi vào một phòng sách
nhỏ với bàn đọc dài ở chính giữa, trên đặt máy tính và máy in, cùng vài
hộp các tông lớn. Đây rõ ràng là phòng làm việc của Goddard.
“Bệnh
viêm xương khớp cũ lại tái phát,” ông xin lỗi, chỉ những hộp các tông
lớn trên bàn đọc, đầy quà đã được gói sẵn. “Anh là thanh niên lực lưỡng.
Nếu anh không phiền mang những thứ này ra chỗ dãy ghế, gần quầy...”
“Không
phiền chút nào,” tôi nói, thất vọng nhưng không để lộ ra. Tôi nâng một
cái hộp to tướng lên, nó không chỉ nặng mà còn kềnh càng, sức nặng không
cân và cồng kềnh đến mức tôi gần như không thấy nổi đường phía trước
khi bước đi.
“Tôi sẽ dẫn anh ra khỏi đây,” Goddard nói. Tôi theo
ông ta vào hành lang hẹp. Cái hộp cọ xát vào giá hai bên, và tôi phải
quay nó hơi nghiêng lên trên để luồn kéo nó qua. Tôi cảm thấy cái hộp
huých phải gì đó. Rồi một tiếng loảng xoảng lớn, tiếng kính vỡ.
“Thôi chết,” tôi thốt lên.
Tôi
quay cái hộp để thấy được chuyện gì vừa xảy ra. Tôi trân trối nhìn: tôi
hẳn đã gạt một cái cúp rơi khỏi giá. Giờ nó biến thành chục mảnh vỡ màu
vàng rải rác trên sàn gạch. Đó là loại cúp trông như bằng vàng ròng
nhưng thực ra là đồ gốm được mạ vàng gì đó.
“Chúa ơi, tôi xin
lỗi,” tôi nói, đặt cái hộp xuống và cúi mình nhặt các mảnh vỡ. Tôi đã
rất thận trọng với cái hộp, thế mà không hiểu sao tôi lại va phải nó,
tôi không biết sao lại thế nữa.
Goddard quay đi chỗ khác, mặt trắng bệch. “Quên nó đi,” ông nói gượng gạo.
Tôi
cố nhặt hết những mảnh vỡ mình nhặt được. Nó là - nó từng là - bức
tượng của một cầu thủ bóng bầu dục. Có một mảnh mũ, một mảnh nắm tay,
một quả bóng nhỏ. Bệ bằng gỗ có tấm biển đồng ghi VÔ ĐỊCH NĂM 1995 -
TRƯỜNG LAKEWOOD - ELIJAH GODDARD - VỊ TRÍ CHỦ CÔNG.
Elijah Goddard, theo lời Judtih Bolton, là người con trai đã mất của Goddard.
“Jock,” tôi nói. “Tôi rất xin lỗi.” Một mảnh lởm chởm khía vào tay tôi đau đớn.
“Tôi nói quên chuyện đó đi,” Goddard nói, giọng cứng rắn. “Không sao đâu. Giờ thôi nào, ta đi thôi.”
Tôi
không biết phải làm gì, tôi thấy thật tệ vì đã phá hủy kỷ vật của cậu
con trai đã mất. Tôi muốn dọn dẹp đống đổ vỡ, nhưng tôi cũng không muốn
làm ông tức giận thêm. Quá nhiều chuyện cho tất cả mớ thiện ý tôi xây
dựng được với người đàn ông già này. Vết rách trong lòng bàn tay tôi giờ
ứa máu.
“Bà Walsh sẽ dọn chỗ này,” ông nói, giọng có phần gay
gắt. “Đi nào, hãy mang các món quà này ra.” Ông đi xuống hành lang và
biến mất đâu đó. Trong lúc ấy, tôi nâng cái hộp lên mang nó đi, cực kỳ
cẩn thận, qua hành lang hẹp ra khỏi ngôi nhà. Tôi để lại một dấu tay
dính máu trên hộp các tông.
Khi quay lại lấy hộp thứ hai, tôi thấy
Goddard ngồi trên ghế trong góc phòng làm việc, ông ngồi khom vai, đầu
chìm trong bóng tối, và ông cầm cái đế cúp gỗ bằng cả hai tay. Tôi do
dự, không chắc mình nên làm gì, liệu tôi nên rời khỏi đây, bỏ ông lại
một mình, hay tôi nên tiếp tục chuyển mấy cái hộp và giả bộ như không
thấy ông.
“Nó là một thằng nhóc dễ chịu,” Goddard đột nhiên lên
tiếng, nhẹ giọng đến nỗi đầu tiên tôi cứ ngỡ mình tưởng tượng. Tôi dừng
bước. Giọng ông trầm, khàn khàn và bé, không to hơn một tiếng thì thầm.
“Một vận động viên thể thao, cao lớn, ngực vạm vỡ, cũng như anh. Và nó
có... có tài mang lại hạnh phúc. Khi nó bước vào phòng, anh sẽ thấy tâm
trạng khá hẳn lên. Nó khiến người ta cảm thấy tốt đẹp. Nó điển trai, và
tử tế, và có - có ánh lấp lánh trong mắt nó.” Ông chậm rãi
ngẩng đầu lên và nhìn xa xăm. “Thậm chí khi nó chỉ là một đứa bé, nó hầu
như không bao giờ khóc hay nhặng xị lên hay...”
Goddard dứt
giọng, và tôi đứng đó giữa phòng, cứng người lại, chỉ lắng nghe. Tôi đã
vo một cái khăn ăn vào trong bàn tay để thấm máu, và tôi cảm thấy nó bắt
đầu ướt. “Anh hẳn sẽ thích nó,” Goddard nói. Ông nhìn về phía tôi,
nhưng không hẳn vào tôi, như thể ông đang thấy con trai mình tại chỗ tôi
đứng. “Đúng vậy. Anh với nó hẳn sẽ trở thành bạn.”
“Tôi rất tiếc không gặp được cậu ấy.”
“Ai
cũng yêu nó. Đây là một thằng bé được đặt vào thế gian này để làm mọi
người hạnh phúc - nó có tia sáng, nó có nụ...” Giọng ông vỡ ra. “Nụ
cười-đẹp nhất...” Goddard cúi đầu xuống, và vai ông rung lên. Một phút
sau ông nói, “Rồi một ngày ở công ty, tôi nhận được một cuộc gọi từ
Margaret. Bà ấy hét lên... Bà ấy thấy nó trong phòng ngủ. Tôi lái xe về,
tôi không suy nghĩ minh mẫn được nữa... Elijah đã bỏ trường Haverford
vào năm thứ ba - thật ra là, họ tống cổ nó, điểm số nó sụt thảm hại, nó
không tới trường nữa. Nhưng tôi không thể bắt nó nói về chuyện đó được.
Tôi ngờ là nó dùng thuốc, dĩ nhiên, và tôi cố nói chuyện với nó, nhưng
giống như nói với bức tường vậy. Nó chuyển về nhà, hầu hết thời gian ở
lì trong phòng hay ra ngoài với bọn nhóc mà tôi không biết. Sau này tôi
nghe được từ một người bạn của nó là nó đã hút heroin vào đầu năm thứ
ba. Nó không phải bọn thanh niên phạm pháp, nó là một anh chàng tài
năng, tính dễ chịu, một đứa con ngoan... Nhưng rồi đến một lúc nó bắt
đầu... từ đó là gì nhỉ, tiêm chích? Và điều đó làm nó thay đổi. Không
còn ánh sáng trong mắt nó nữa. Nó bắt đầu suốt ngày nói dối. Cứ như thể
nó đang cố xóa bỏ tất cả con người cũ của nó. Anh hiểu tôi nói gì
không?”
Goddard ngước lên. Nước mắt giờ chảy xuống mặt ông.
Tôi gật đầu.
Một
vài giây chậm chạp trôi qua, rồi ông tiếp tục. “Nó đang tìm kiếm gì đó,
tôi đoán vậy. Nó cần thứ mà thế giới này không thể cho nó. Hoặc có lẽ
nó quá đa cảm và nó quyết định mình cần loại bỏ phần đó trong mình.”
Giọng ông lại trở nên nặng nề. “Và sau đó là phần còn lại.”
“Jock,” tôi lên tiếng, muốn ông dừng lời.
“Nhân
viên điều tra y tế kết luận đó là dùng thuốc quá liều, ông ta bảo không
nghi ngờ gì chuyện đó là có chủ ý, rằng Elijah biết mình đang làm gì.”
Bàn tay múp míp áp lên mắt. “Tôi tự hỏi mình, liệu tôi đã có thể làm gì
khác đi? Tôi đã làm hỏng nó như thế nào? Tôi thậm chí từng dọa sẽ để nó
bị bắt. Chúng tôi cố đưa nó đi cai nghiện. Tôi đã chuẩn bị đẩy nó tới
đó, bắt nó phải đi, nhưng tôi không bao giờ có cơ hội. Và tôi
tự hỏi mình hết lần này đến lần khác: Tôi có quá cứng rắn, quá nghiêm
khắc với nó không? Hay không đủ cứng rắn? Tôi có quá bù đầu vào công
việc của mình không? - Tôi nghĩ là tôi có như vậy đấy. Hồi đó tôi quá
tham vọng. Tôi quá bận rộn xây dựng Trion đến nỗi chẳng thể cho nó một
người cha thực sự.”
Giờ ông nhìn thẳng vào tôi, và tôi thấy được nỗi đau khổ trong mắt ông. Nó như một lưỡi dao đâm vào bụng tôi. Mắt tôi ươn ướt.
“Anh
đi làm và xây dựng vương quốc nho nhỏ của mình,” ông nói, “rồi anh quên
mất điều gì thực sự đáng giá.” Ông chớp mắt liên hồi. “Tôi không muốn
anh quên mất, Adam. Không bao giờ.”
Goddard trông càng nhỏ hơn,
héo hon hơn, và như đã một trăm tuổi. “Nó nằm trên giường dính đầy dãi
và nước tiểu như trẻ nhỏ, và tôi ôm nó trong tay như một đứa bé sơ sinh.
Anh biết nhìn thấy con mình nằm trong quan tài là như thế nào không?”
ông thì thầm. Tôi nổi da gà, phải quay đầu đi. “Tôi nghĩ mình không bao
giờ quay lại làm việc nổi. Tôi cứ ngỡ mình không thể vượt qua điều đó.
Margaret nói tôi chưa bao giờ vượt qua được. Trong gần hai tháng liền
tôi ở nhà. Tôi không thể tìm ra lý do để sống nữa. Một chuyện như thể
này xảy ra và anh - anh sẽ nghi ngờ giá trị của mọi thứ.”
Ông
dường như nhớ ra mình có khăn tay trong túi, và ông lấy nó lau mặt. “Ôi
chao, nhìn tôi xem,” ông nói với một tiếng thở dài sườn sượt, và bất ngờ
ông cười. “Nhìn lão già ngu xuẩn này xem. Khi tôi ở tuổi anh, tôi tưởng
tượng khi mình già như bây giờ tôi hẳn đã tìm ra ý nghĩa của cuộc đời.”
Ông cười buồn bã. “Và giờ tôi không đến được gần ý nghĩa cuộc đời hơn
bất cứ khi nào trước kia. Ồ, tôi biết nó không phải là cái gì.
Bằng quá trình loại bỏ. Tôi đã phải mất một đứa con để biết được điều
đó. Anh có nhà to xe đẹp, và có lẽ họ đưa anh lên trang bìa tờ tạp chí Fortune,
và anh cho rằng mình đã hiểu được hết tất cả, phải không? Cho tới khi
Chúa gửi cho anh một bức điện tín nho nhỏ nói, ‘Ồ, quên không nhắc,
chẳng thứ nào trong số đó có ý nghĩa. Và tất cả mọi người ngươi yêu quý
trên thế gian này, thực ra chỉ là ta cho ngươi mượn họ thôi, hiểu chưa.
Và tốt nhất là ngươi nên yêu thương họ khi còn có thể.’ ” Một giọt nước
mắt chầm chậm lăn xuống má ông. “Tới ngày hôm nay tôi vẫn hỏi mình, tôi
đã bao giờ hiểu Elijah chưa? Có lẽ chưa. Tôi từng nghĩ mình hiểu. Tôi
biết mình yêu nó, hơn tôi nghĩ mình có thể yêu bất cứ ai. Nhưng tôi có
thực sự hiểu con trai mình không? Tôi không thể nói chắc.” Ông
lắc đầu chậm rãi, và tôi thấy ông bắt đầu bình tĩnh lại. “Bố anh thật
rất may mắn, dù ông ấy là ai, vô cùng may mắn, và ông sẽ không bao giờ
hiểu đâu. Ông ấy có được một người con như anh, một người con vẫn còn ở
bên ông ấy. Tôi biết ông ấy hẳn phải tự hào vì anh.”
“Tôi không chắc điều đó lắm,” tôi nói nhỏ.
“Ồ, tôi thì chắc đấy,” Goddard nói. “Vì tôi biết tôi hẳn sẽ tự hào.”