Chuyện tình vịnh Cedar (Tập 2) - Chương 14 phần 1
14
Vào hai ngày cuối tuần, Grace đặt phòng trong một khách
sạn sang trọng tại Seattle. Thông thường thì dù có thẻ giảm giá chị
cũng chẳng bao giờ làm thế vì túi tiền không cho phép, song thái độ lẩn
tránh của Maryellen suốt từ hôm Giáng sinh khiến chị bồn chồn, và không
thể ngơi yên mặc tình trạng đó tiếp diễn.
“Chào con yêu”, chị nói và thấy mừng vì Maryellen đang ở phòng tranh một mình.
Maryellen
tỏ ra ngại ngần. Grace biết rằng cô đang tìm lý do để rút ngắn cuộc gặp
gỡ này. “Con chào mẹ”. Maryellen nói. “Con không biết phải nói thế nào
vì bất ngờ thú vị này”.
“Mẹ đến với một nhành ô liu đây(1)”.
Con gái chị nhìn mẹ thận trọng.”Sao lại thế ạ? Chúng ta có tranh cãi gì đâu?”.
“Không
hẳn là vậy. Nhưng lâu rồi mẹ con mình không ở bên nhau. Mẹ đã cố gắng
tìm hiểu thông tin về cha của đứa trẻ và những kế hoạch của con. Nhưng
mẹ đã nhầm”. Maryellen đã từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào và Grace
tin rằng người đàn ông là cha đứa trẻ chắc chắn chưa biết chuyện này.
Chị sợ nhất là người đó đã có gia đình. Phản ứng của Maryellen trước
những thăm dò của chị đã khẳng định chắc chắn thêm điều đó.
Maryellen
mỉm cười. Bây giờ da cô không còn tái như một tháng trước nữa. Nhìn kỹ
cũng khó mà phát hiện được cô đang mang thai. Nhưng Grace có thể nhìn
thấy điều đó bằng kinh nghiệm của mình và lấy làm ngạc nhiên tại sao chị
lại không nhận ra lần mang thai đầu tiên của con gái. Hôm đó là lần duy
nhất Maryellen thổ lộ, và cô không hề đề cập thêm một lần nào. Nhiều
lúc Grace băn khoăn hay là con gái chị tưởng tượng ra chuyện ấy.
“Mẹ đã đặt chỗ khách sạn cho mẹ con mình ở Seattle rồi”. Grace nói và giải thích lý do chuyến đi.
“Một phòng khách sạn ạ? Để làm gì hả mẹ?”.
“Để
mẹ con ta được nghỉ cuối tuần ở một nơi xa - đây là lần đầu tiên và mẹ
hy vọng là năm nào chúng ta cũng thực hiện được điều đó”.
Maryellen nhướng mày. “Kelly có đến không ạ?”.
“Mẹ
hy vọng là có”. Grace biết các con chị không được hòa thuận với nhau
cho lắm. Kelly tự ái và giận dỗi vì Maryellen đã không nói cho nó biết
về việc mang thai. Grace thực sự phải cố gắng rất nhiều để không bị mắc
vào sự bất hòa giữa hai đứa con. Nhưng bây giờ thì thật khó khăn vì
Kelly cũng đang rất giận chị.
Kelly lúc nào cũng coi Dan như một
thần tượng. Cái gì bố cũng là nhất. Cô cảm thấy bố đã phụ lòng mình -
bây giờ mẹ lại còn hẹn hò yêu đương với Cliff Harding. Tất cả khiến
Kelly càng có cảm giác bị phản bội. Việc Maryellen giữ bí mật về cái
thai đúng là đòn tấn công cuối cùng đối với cô.
“Nếu Kelly đồng ý thì con cũng sẽ đi”. Maryellen nói với mẹ. “Mẹ rất mừng vì con nói thế”.
Tối
đó Grace gọi cho con gái út. Thật không dễ dàng chút nào để thuyết phục
Kelly đi nghỉ cuối tuần ở tận Seattle. Nhưng thật may mắn con rể Paul
của chị đã động viên vợ đi cùng mẹ. Paul biết Kelly đang đau khổ nên đã
năn nỉ và thuyết phục vợ rằng đây sẽ là cơ hội để anh và con trai anh
gắn bó với nhau hơn.
Grace vui mừng khôn xiết khi thấy Kelly đồng ý.
Tối
thứ sáu ấy, ba mẹ con đi phà đến Seattle và bắt tắc-xi đến khu cảng.
Người lái xe tắc-xi trẻ tuổi rõ ràng là dân mới nhập cư, anh ta đã nhảy
ra khỏi xe để mở cửa cho họ và vội vàng quay trở lại ghế lái.
Đây
quả là một chuyến phiêu lưu của Grace. Chị quyết tâm tạo ra một kỳ nghỉ
cuối tuần đáng nhớ với hai cô con gái xinh đẹp của mình. “Thật vui khi
gặp một người lái xe lịch lãm như cậu. Cậu rất biết cách chiều khách
đấy”. Grace khen cậu ta và thấy tinh thần phấn chấn hơn.
“Xin cảm
ơn bà”, người tài xế quay lại và lái xe vào bến tàu. Cậu ta nói tiếng
Anh khá tồi nhưng cũng đủ để diễn tả cho người đối thoại hiểu những bình
luận của mình về thành phố. Cậu lái đến khách sạn Đại lộ 4 và đỗ vào lề
đường. Một người bảo vệ bước ra mở cửa xe cho họ.
Grace trả tiền cho cậu tài xế và thêm vào đó một ít tiền boa. “Chào mừng cậu đến nước Mỹ”, chị nói.
“Cảm ơn bà”, cậu đáp lại và cúi đầu. “Chúa phù hộ cho nước Mỹ”.
“Đúng, Chúa phù hộ nước Mỹ”.
Phòng
chờ khách sạn khá sang trọng và rộng rãi thoáng đãng với một bệ đá cẩm
thạch rất lớn nằm chính giữa sảnh, trên có một lẵng hoa thật to mà Grace
chưa trông thấy ở đâu bao giờ. Họ thong thả bước về quầy đăng ký lễ tân
và làm thủ tục nhận phòng; Grace chìa tấm thẻ tín dụng ra, và cố không
nhăn mặt. Vài phút sau họ được một nhân viên đưa lên phòng nghỉ.
Sau
khi gọi điện về nhà hỏi xem tình hình bé Tyler thế nào, Kelly thấy yên
tâm và bắt đầu thư giãn. Đây là lần đầu tiên Kelly xa con nhiều tiếng
đồng hồ như vậy nên cô rất nhớ nó.
Kelly ngồi trên chiếc giường đôi rộng rãi và vòng tay qua đầu gối. Cô hỏi chị gái. “Chị đã nghĩ là sẽ đặt tên gì cho con chưa?”.
Một
giây căng thẳng Maryellen trả lời. “Thật ra thì chưa... Chị hy vọng nó
là con gái, và nếu được thế chị sẽ gọi nó là Catherine Grace”.
“Tên đẹp đấy”.
Grace
rưng rưng lệ khi thấy con gái muốn lấy tên mình đặt cho con nó. Nhưng
chị nhanh chóng lau nước mắt vì không muốn làm hỏng buổi tối vui vẻ của
ba mẹ con bằng những cảm xúc ủy mị. Chị đã gửi gắm nhiều hy vọng vào
chuyến đi nghỉ này. Chỉ muốn được cười, được trò chuyện vui vẻ với các
con để gợi lại cho chúng những ngày xưa đầm ấm khi cả nhà sum vầy bên
nhau.
Dan biến mất khiến ba người phụ nữ mất mát: người mất chồng,
kẻ mất cha, tổ ấm gia đình tan vỡ cả Grace luôn muốn có một lời giải
đáp thỏa đáng, nhưng lúc này đây, những thứ đó chẳng có ý nghĩa gì với
chị nữa.
Ba mẹ con bỗng cùng im lặng. Họ băn khoăn về những việc
đã làm và cả những việc không làm. Chẳng ai tìm ra lý do hay câu trả lời
nào cho sự bỏ đi của Dan - chỉ còn lại những nghi ngờ thắc mắc. Cũng
chính vì điều này mà vết rạn tình cảm giữa ba mẹ con cứ dần dần lớn lên.
Grace muốn hàn gắn vết rạn đó.
Sáng hôm sau họ dậy sớm và hào
hứng muốn khám phá nơi đây bằng một tua du lịch. Điểm xuất phát đầu tiên
là chợ Pike Place. Họ ăn nem nóng và uống cà-phê pha với nhiều hương
liệu khác nhau trên đường phố. Họ dạo bước giữa những quầy hàng dài bày
bán đủ các loại hoa quả và rau. Grace thích nhất quầy hải sản. Cá, cua,
tôm, trai, sò biển và điệp được bày bán la liệt trên lớp đá vụn ướp
lạnh. Họ gia nhập vào đám đông ngư dân đang tung cho nhau một con cá hồi
rất lớn.
Ba mẹ con ăn trưa trên khu cảng biển, dưới bầu trời u ám
mây che. Rồi họ lại du ngoạn ở công viên sinh vật biển Seattle và xem
một bộ phim Imax nói về núi lửa Saint Helens phun trào, một địa danh du
lịch được nhiều người ưa thích. Cuối ngày, cả ba đều mệt lử. Chẳng ai
muốn đi chơi nữa nên gọi pizza vào khách sạn. Ba mẹ con ngồi trên
giường, bốc bánh và cười nói vui vẻ về việc phải trả những ba đô la để
mua một lon sô-đa ở quay bar mini trong phòng nghỉ. Mặc dù rất mệt nhưng
chẳng ai muốn đi ngủ sớm. Họ cởi bỏ bộ đồ đang mặc và thay bằng áo
pijama và váy ngủ. Rồi họ nói chuyện suốt đêm. Ai cũng tránh nhắc đến
Dan và những phỏng đoán xung quanh vụ mất tích ấy. Họ cũng không bàn
luận gì về cái thai của Maryellen mà chỉ đưa ra vài cái tên để đặt cho
đứa bé nếu nó là con trai. Nhưng cả hai chủ đề bị tránh né vẫn luôn hiện
hữu trong suy nghĩ của mọi người. Giống như Grace, hai chị em đều không
muốn phá vỡ không khí êm đềm tuyệt diệu mà cả ba đang chung hưởng.
Ngày
chủ nhật họ làm thủ tục rời khách sạn. Grace rất vui và hối tiếc vì
thời gian họ dành cho nhau đã đến lúc kết thúc. Nhưng chị thật sự phấn
khởi vì đã có ngày cuối tuần vui vẻ với hai cô con gái đáng yêu. Đó là
tất cả những gì chị mong muốn.
“Lần sau chúng ta sẽ lại đi thế này các con nhé”, chị nói lúc ba mẹ con ngồi đợi phà và đi xuống thuyền.
“Năm sau thì hơi khó mẹ ạ”, Maryellen nói, “không phải là con không muốn, mà vì nguyên nhân khác. Con sẽ sinh cháu”.
“Thì đưa con bé đi cùng chứ sao”. Kelly khăng khăng.
“Con bé á?”. Maryellen đùa, “em cứ làm như là chắc chắn chị sẽ có con gái ấy”.
“Nó sẽ là một đứa con gái”. Kelly nói với vẻ tự tin.
“Làm sao em biết được?”.
“Em
đoán vậy”. Kelly đan tay vào nhau và vòng quanh chân, dựa lưng vào
chiếc ghế băng gỗ cứng. “Rất lâu trước khi sinh Tyler, em đã linh cảm
rằng bé là con trai. Và em chắc chắn rằng chị sẽ cho ra đời một bé gái
mang tên Catherine Grace”.
Grace không hiểu điều Kelly nói liệu có
trở thành sự thật không, nhưng chính chị cũng có linh cảm đó. “Thì các
con cứ tin là bé gái đi”. Dù sao dự đoán của Kelly cũng có tới năm mươi
phần trăm chính xác, và quan trọng hơn cả là chị đã được ngắm các con
cười đùa với nhau, điều mà chỉ mấy ngày trước chị không ngờ tới được.
Lúc
đặt phòng khách sạn, Grace chỉ sợ không khéo chị chẳng kham nổi những
chuyện sẽ xảy ra; nhưng bây giờ chị mới thấy rằng chuyến đi này thật
xứng đáng với sự đầu tư của mình.
Roy McAfee rời mắt khỏi màn hình
máy tính và nhìn xuống hồ sơ của Sherman đang để trên bàn. Bộ hồ sơ mỗi
tuần một dày thêm. Mấy tháng trước, Grace Sherman đã thuê anh tìm kiếm
thông tin về người chồng mất tích của chị. Cho đến nay anh đã phải bác
bỏ hầu hết mọi nghi ngờ rủa mình. Anh đã nghĩ đến nhiều khả năng khác
nhau, nhưng cũng chẳng đi đến đâu cả. Roy đích thân đảm nhiệm vụ này và
thấy bản thân bất lực vì vẫn chưa tìm ra bất cứ một manh mối nào.
Sau
hai mươi năm phục vụ trong lực lượng cảnh sát ở Seattle, Roy đã leo lên
đến chức điều tra viên. Nhưng vết thương trên lưng trong một lần phá án
đã khiến anh phải chấp nhận về hưu non. Điều đó cũng tốt thôi; cả hai
thằng con trai anh đều đã tốt nghiệp đại học và có thể tự lo cho bản
thân mình được rồi.
Anh và Corrie chuyển nhà đến vịnh Cedar. Ở đây
chi phí sinh hoạt cũng phải chăng, mà giá nhà đất lại rất hợp lý. Roy
mong rằng mình có thể ổn định và sống thoải mái kể cả khi về hưu sớm như
vậy.
Nhưng Roy mau chóng nhận ra nếp sống quanh quẩn ở nhà trong
bốn bức tường sẽ làm thui chột mọi hứng thú của cuộc đời mới. Vì vậy,
mười tám tháng sau khi chuyển đến vịnh Cedar, anh bắt đầu khởi nghiệp
làm thám tử tư. Corrie cũng đã từng công tác trong môi trường cảnh sát
một thời gian dài nên chị cũng vui vẻ làm trợ lý và thư ký giúp chồng.
Khi
mở văn phòng điều tra, Roy xác định rằng phạm vi chủ yếu của mình là
theo dõi các vụ mất tích và các vụ việc có liên quan đến bảo hiểm. Nhưng
do đặc thù nghiệp vụ, anh phải thực hiện rất nhiều công việc khác nhau.
Điều đó khiến anh nhận ra rằng cuộc sống này có vô vàn chuyện khó giải
quyết. Vụ khó nhất và đánh đố nhất đối với Roy chính là sự mất tích của
Dan Sherman. Người đàn ông này đã hoàn toàn bốc hơi. Roy không thể tìm
ra được tung tích hay manh mối nào. Thậm chí anh còn nghĩ có lẽ Dan đã
tham gia vào chương trình bảo vệ nhân chứng rồi cũng nên.
Corrie bước vào văn phòng và mang theo một tách cà-phê thật đặc. Chị trỏ màn hình máy tính. “Vụ Dan Sherman phải không anh?”.
Roy
nhún vai. Corrie chẳng nói gì thêm nữa, nhưng cả hai đều hiểu họ không
thể bỏ cuộc được. Mấy hôm nay Roy phải tiến hành công việc bằng chi phí
tự bỏ ra. Grace đã trả cho anh một khoản, số tiền đã hết mà anh vẫn chưa
tìm được câu trả lời cho chị ta.
“Troy Davis vừa gọi đấy anh ạ”, Corrie báo với chồng, “anh ta hẹn gặp anh chiều nay”.
Thú
vị đây Roy quen viên cảnh sát trưởng của thị trấn chưa được bao lâu.
Anh mới nói chuyện với ông ta vài lần nhưng xem chừng họ khá hợp chuyện
nhau. Roy thấy mến Davis, nhưng viên Cảnh sát trưởng thì hình như không
tin tưởng anh lắm. Roy vẫn bảo lưu ý kiến của mình, cho rằng cần thêm
bằng chứng nữa mới có thế kết luận.
“Anh ta có nói cụ thể là về
việc gì không?”, anh hỏi vợ. Corrie lắc đầu. “Không, anh ta chỉ nói muốn
trao đổi với anh đôi chút”. Đúng 3 giờ, Troy tới văn phòng. Corrie dẫn
anh ta vào phòng Roy. Roy đứng lên chào viên Cảnh sát trưởng. Roy đã cao
đến 1.82m mà Troy còn cao hơn Roy khoảng bốn, năm xen-ti-mét gì đó. Lại
thêm cái bụng khá to, chắc là do ngồi bàn giấy quá nhiều nên mới như
thế. Họ bắt tay nhau và ngồi xuống.
Troy bắt tréo chân lên gối,
rút cây tăm ra khỏi túi áo sơ mi và cắm vào mép. Một lát sau ông ta hỏi.
“Anh có nhớ cách đây không lâu có vụ chết người ở nhà nghỉ Thyme và
Tide không? Cái nhà trọ chỉ phục vụ phòng ngủ và bữa sáng của gia đình
Beldon ấy”.
Roy vẫn nhớ vụ đó. Tất cả những bài báo có đăng về
việc này hầu như chẳng có gì mới cả. Một người lạ mặt xuất hiện vào một
đêm giông bão và đặt phòng, sáng hôm sau thì bị phát hiện là đã chết.
Không có nguyên nhân rõ ràng. Sau khi đọc bài đó ở trang nhất tờ Bản tin
vùng vịnh Cedar, Roy chẳng còn nghe nói gì đến kẻ lạ mặt bí ẩn đó nữa,
mặc dù anh cũng có nhớ lại thêm một chi tiết. Bài báo đó đã kể rằng
người đàn ông đó mang căn cước giả - bằng lái xe cho biết anh ta là
James Whitcomb đến từ một vùng nào đó của bang Florida.
“Chúng tôi
vẫn không tìm ra được tên cho anh chàng John Doe đó”. Troy cau mày.
“Đôi lúc Joe Mitchell nghĩ rằng chuyện này có gì đó liên quan đến Dan
Sherman”.
“Dan ư? Hẳn phải có người nào đến nhận diện anh ta rồi chứ”.
“John
Doe đã phẫu thuật thẩm mỹ khá nhiều. Anh ta có vóc người và nước da
giống Dan. Thế nên chúng tôi mới gọi Grace đến để nhận diện. Thật tồi tệ
Grace bị chấn động kinh khủng. Nhưng cô ấy đúng là một phụ nữ cứng rắn
và nghị lực. Tôi thật sự khâm phục”.
“Vậy đó không phải là Dan rồi”. Roy nghĩ cũng có thể Troy đang khẳng định.
“Chắc
chắn là không”, Troy gằn giọng. Ông ta chuyển chiếc tăm xỉa răng sang
mép bên kia. “Lẽ ra mọi chuyện phải dễ dàng hơn mới đúng”.
“Thế dấu vân tay của John Doe có nói lên điều gì không?”.
Troy
thả chân xuống và ngồi thẳng dậy. “Đáng tiếc là chẳng nói được khỉ gì.
Anh ta không có vân tay nữa kia, chắc là đã phẫu thuật xóa vân tay”.
“Thật
thế sao? Anh cho rằng anh ta đã cố tình loại bỏ vân tay của mình?”. Có
khả năng đó lắm, nếu thế thì còn cách khác là dùng ADN. Nhưng khi đó,
công nghệ ADN vẫn tương đối mới mẻ.
Troy nhún vai bất lực. “Anh
đoán y như tôi vậy. Tôi chỉ biết là thẻ căn cước của John Doe là giả
mạo. Anh ta vào thị trấn, trú chân tại nhà nghỉ chỉ phục vụ
phòng-ngủ-và-bữa-sáng ấy, rồi chết. Điều tra không đem lại kết luận gì.
Sự việc khá bất bình thường, không như vụ đăng nhan nhản trên các báo lá
cải đâu”. Roy nhăn mặt. “Liệu có phải anh ta nằm trong chương trình bảo
vệ nhân chứng không nhỉ?”. Thật buồn cười là vài tiếng trước Roy lại có
giả thiết đó về Dan Sherman.
“Tôi có nghĩ như vậy. Và tôi đã lập tức liên hệ với lực lượng FBI địa phương”.
“Họ sẵn sàng giúp đỡ anh chứ?”.
Troy
gật đầu. “Tôi cung cấp cho họ tất cả những thông tin tôi có. Một tuần
trước đây họ liên lạc lại với tôi nhưng cũng chẳng sáng tỏ được gì
nhiều”.
“Chiếc xe thì sao?”
“Đó là xe đi thuê”.
“Ít nhất Mitchell cũng phải tìm ra nguyên nhân cái chết chứ?”
Troy
cắn gập chiếc tăm. “Như tôi đã nói, mọi chi tiết trong vụ này đều rất
khó lý giải. Nói thẳng ra là chúng ta không thế hiểu được. Bob và Peggy
kể lại là trước lúc đi ngủ, trông anh ta hoàn toàn còn khỏe mạnh. Bob
nhận xét nom anh ta có vẻ bồn chồn khi đi về phòng, nhưng Peggy cho rằng
đó là vì anh ta mệt. Lúc ấy cũng muộn rồi”.
“Mitchell nghĩ thế nào?”
“Vì
không tìm thấy dấu vết gì bất thường, nên Mitchell bác bỏ hết mọi khả
năng gây ra cái chết. Đó không phải là một kết luận cảm tính đâu. Mặc dù
chưa có lấy được các kết quả xét nghiệm nhưng không có gì chứng tỏ rằng
hắn bị ngộ độc. Chịu không hiểu nổi nguyên nhân cái chết của hắn. Có
khi đang khỏe mạnh bình thường, một phút sau hắn bỗng lăn ra chết cũng
nên”.
“Hắn tắt thở vào lúc nào?”.
“Joe nhận định có thể hắn ta chết trong khi ngủ, gần như ngay sau khi tới nhà trọ của gia đình Beldon”.
Roy
phải thú nhận càng lúc anh càng tò mò hơn; vụ việc ngày một cuốn hút.
“Anh hẹn gặp tôi chắc không chỉ để bàn luận mấy vấn đế đó, đúng không?
Tôi giúp được gì cho anh nào?”.

