11. Lịch sử một truyện dài - Phần 3

Từ trong rạp chiếu phim thị trấn vẳng ra tiếng nhạc câm nén.
Nhà nhà đã lên đèn. Sương nhẹ như hơi samovar lơ lửng trên những khu vườn. Đằng
sau những cành trần trụi đã lấp lánh những vì sao.

Một nỗi bồi hồi khó hiểu làm lòng tôi se lại và tôi nghĩ
rằng vì đất đai tươi đẹp này, hay hơn nữa, vì chỉ riêng một thiếu nữ như Polina
thôi, cũng đủ để ta phải kêu gọi con người đấu tranh cho một cuộc sống vui tươi
và có ý nghĩa. Tất cả những gì đè nén con người, làm cho con người buồn khổ,
những gì làm nhỏ ra dù chỉ một giọt nước mắt, cũng phải nhổ đến tận rễ. Cả sa
mạc, cả chiến tranh, cả bất công, cả sự dối trá và cả sự miệt thị tâm hồn
người.

Polina đi với tôi đến tận những ngôi nhà đầu tiên của thị
trấn. Ở đó tôi từ biệt cô.

Polina nhìn xuống, đưa tay gỡ bím tóc, và bất thần cô nói
với tôi:

- Giờ tôi sẽ đọc thật nhiều, ông ạ!

Cô ngước mắt lên, bối rối nhìn tôi, đoạn chìa tay cho tôi
bắt, rồi rảo bước về nhà.

Tôi trở về Moskva trên một toa ghế cứng chật ních.

Ban đêm tôi ra đầu toa hút thuốc. Tôi hạ kính cửa xuống và
thò đầu ra ngoài.

Tàu hỏa phóng nhanh trên con đường sắt xuyên qua những khu
rừng rụng lá. Hầu như không trông rõ rừng. Nhưng có thể đoán ra rừng ở bên ta
nhờ tiếng động, cái tiếng vang vội vã xuất hiện trong rừng rậm giội lại tiếng
bánh xe ầm ầm chuyển động. Trên tuyết, không khí dường như bị tê cóng, tụ thành
hạt, phả vào mặt người mùi lá ủng.

Bên trên rừng, bầu trời thu lúc nửa đêm như bốc khói bởi
những vì sao sáng chói cũng phóng nhanh, không chịu thua con tàu. Những cây cầu
kêu ầm ầm ngắn ngủi. Mặc dầu tàu chạy nhanh ta vẫn có thể nhìn thấy bên dưới
cầu ánh sao phản chiếu vụt hiện ra rồi vụt biến đi trên mặt nước tối đen, không
ra là nước đầm lầy, mà cũng chẳng ra nước sông.

Con tàu phóng ào ào, rầm rĩ trong hơi nước, trong khói.
Những ngọn nến cháy nốt mẩu cuối cùng, tỏa sáng trong những chiếc đèn lồng run
rẩy. Bên ngoài cửa sổ, những tia lửa đỏ thẫm bay theo đường đi của con tàu. Đầu
máy hân hoan la hét, say sưa vì tốc độ vùn vụt của chính nó.

Tôi tin rằng con tàu đang phóng nhanh đưa tôi đến với hạnh
phúc. Ý sáng tác cuốn sách mới đã tràn ngập óc tôi. Tôi tin rằng tôi sẽ viết
được cuốn sách ấy.

Tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ, hát lên những lời không mạch
lạc về đêm tối, về chuyện trên thế giới này không có nơi nào thân yêu đối với
tôi hơn là nước Nga. Gió, giống như những bím tóc thiếu nữ xổ tung, thơm mát
mơn man trên mặt tôi. Tôi muốn hôn những bím tóc ấy, làn gió ấy, mảnh đất lạnh
lâu đời ấy. Nhưng tôi không làm thế được, mà chỉ hát lung tung như một người
điên và ngạc nhiên trước cái đẹp của bầu trời phương đông mới rạng lên một chút
sác xanh yếu ớt và dịu dàng.

Tôi ngạc nhiên trước vẻ kiều diễm của bầu trời ấy, trước ánh
hào quang yếu ớt và trong trẻo của nó, cho đến khi hiểu ra rằng một buổi bình
minh mới đang ló dạng.

Tất cả những gì tôi nhìn thấy bên ngoài cửa sổ, tất cả những
niềm vui hỗn độn đang lồng lộn trong ngực tôi, không hiểu bằng cách nào đã hợp
lại với nhau thành một quyết định: viết, viết và viết!

Nhưng viết cái gì kia chứ? Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy,
tôi chẳng hề bận tâm đến chuyện rồi đây những ý nghĩ của tôi về vẻ kiều diễm
của đất đai, cũng như ý muốn thiết tha bảo vệ nó, cho nó khỏi bị kiệt quệ, khỏi
trở nên cằn cỗi, sẽ xoay quanh cái gì, sẽ gắn với đề tài nào như sắt với nam
châm. Đối với tôi giờ đây tất cả những cái đó đều bất thành vấn đề.

Ít lâu sau, những ý nghĩ đó hòa vào nhau thành ý sáng tác
cuốn Kara-Bugaz. Chúng có thể chuyển thành ý sáng tác một cuốn khác; nhưng bất
kể là thế nào cuốn sách đó nhất thiết phải bao hàm đầy đủ nội dung chính và
những tình cảm đã choán lấy tôi lúc đó. Rõ ràng là ý sáng tác bao giờ cũng từ
trong tim mà ra.

Từ đó trở đi bắt đầu một giai đoạn mới, giai đoạn mà người
ta gọi là thời kỳ "thai nghén" ý sáng tác, nói cho đúng hơn, thời kỳ
tích lũy chất liệu thực sự cho sáng tác.

Nghiên cứu bản đồ địa lý

Tại Moskva tôi kiếm được một bản đồ chi tiết biển Kaspy và
lang thang rất lâu (dĩ nhiên là trong tưởng tượng) trên những bờ đông khô cạn
của nó.

Từ khi còn nhỏ tôi đã mê những bản đồ địa lý. Tôi có thể
ngồi mấy giờ liền với những tấm bản đồ như đọc một cuốn sách hay.

Tôi nghiên cứu dòng chảy những con sông chưa từng biết,
những bờ biển kỳ cục, luồn vào vùng rừng taiga, nơi những trạm vô danh chuyên
thu mua da lông thú của những người đi săn được đánh dấu bằng những vòng tròn
tí xíu, hoặc nhắc đi nhắc lại những tên đất kêu như những vần thơ: Quả cầu
Yugor, quần đảo Hebridres, Guadarrama và Inverness, Onega và Cordillera

Dần dần tất cả những vùng đất đó sống dậy trong trí tưởng
tượng tôi, rõ ràng đến nỗi tưởng chừng tôi có thể viết được những cuốn nhật ký
hành trình bịa đặt qua các lục địa và các xứ sở khác nhau.

Đến cha tôi là người vốn có đầu óc lãng mạn cũng không bằng
lòng cái thói say mê bản đồ thái quá của tôi.

Người nói rằng cái đó sẽ mang lại cho tôi nhiều thất vọng.

- Nếu rồi đây đời con khấm khá - cha tôi nói - và con có khả
năng làm những chuyến viễn du thì rồi con cũng sẽ chỉ gặt hái cho mình độc
những buồn phiền mà thôi. Con sẽ thấy những điều khác hẳn cái mà con tưởng
tượng. Thí dụ, con sẽ thấy Mehico là một nước bụi bặm và nghèo khổ, còn bầu
trời xích đạo thì xám xịt và đáng ngán.

Tôi không tin cha tôi. Tôi không thể nào tưởng tượng rằng
bầu trời xích đạo có một lúc nào đó lại có màu xám xịt. Theo tôi nó sẫm đến nỗi
tuyết trên núi Kilimanjaro cũng nhuốm màu xanh chàm của nó.

Dù sao mặc lòng tôi cũng vẫn không bỏ cái thú của tôi. Sau
này, khi đã trưởng thành, tôi mới thấy cha tôi đã nói không đúng cho lắm.

Chẳng hạn, khi đến Krym lần đầu (trước đó tôi đã nghiên cứu
cả chiều ngang lẫn chiều dọc của nó trên bản đồ), tất nhiên tôi thấy nó khác
hẳn điều tôi đã hình dung ra trước kia.

Nhưng chính cái hình dung đã có trước kia của tôi về vùng
đất này đã làm cho tôi nhìn thấy nó sâu sắc hơn là tôi chỉ tới Krym mà chưa
biết chút gì về nó.

Cứ mỗi bước đi tôi lại gặp cái mà trí tưởng tượng của tôi
chưa hề nghĩ đến và những nét mới đó của Krym đặc biệt làm tôi nhớ rất lâu.

Tôi cho rằng điều khẳng định đó đúng cả với các địa phương
và những con người.

Chẳng hạn, mỗi người hình dung Gogol theo cách của họ. Nhưng
nếu như ta gặp Gogol trong cuộc đời thì ta sẽ nhận ra rất nhiều nét không giống
như cách ta hình dung về ông. Nhưng chính những nét đó sẽ hằn sâu và sống động
trong trí nhớ của ta.

Nhưng nếu ta không có cái hình dung từ trước ấy thì có thể
chúng ta sẽ không nhận ra được nhiều nét ở ông và đối với ta, Gogol sẽ là một
người hết sức bình thường.

Chúng ta đã quen hình dung Gogol là một người sầu não, đa
nghi và phớt đời. Chính vì thế mà chúng ta nhận ra ngay những gì khác hẳn với
cái mà ta hình dung về ông: đôi mắt sáng lấp lánh, tính hoạt bát, thậm chí hơi
lăng xăng, cái miệng hay cười, cách ăn vận duyên dáng và giọng nói nặng thổ âm
Ukraina.

Tôi không biết làm thế nào để diễn đạt được những ý nghĩ ấy
cho thật thuyết phục, nhưng tôi cho rằng đúng nó là như thế đấy.

Thói quen lang thang trên các bản đồ và hình dung ra những
vùng khác nhau trong tưởng tượng giúp tôi thấy được chúng một cách đúng đắn
trong thực tế.

Ở đó bao giờ cũng còn lưu lại một cái gì như là dấu vết mờ
nhạt của trí tưởng tượng của anh, một màu sắc bổ sung, một ánh lấp lánh thêm
vào, một màn sương mỏng nào đó, là cái không cho phép anh nhìn những miền đất
ấy bằng cặp mắt ngán ngẩm.

Thế là ở Moskva tôi đã lang thang trên những bờ Kaspy sầu tư
và đồng thời đọc rất nhiều sách, nhiều báo cáo khoa học và tất cả những bài thơ
về sa mạc. Nghĩa là hầu hết những gì tôi có thể tìm thấy trong thư viện Lênin.

Tôi đọc Przhevansky và Anuchin, Sven Gedin và Vamberi,
Mac-Gaham và Grum-Grzhimailo, nhật ký của Taras Sepchenko ở Mangyshlak, lịch sử
Khiva và Bukhara, những báo cáo của trung úy Butakov, những công trình của nhà
thám hiểu Karelin, tài liệu thăm dò địa chất và thi ca Ả-rập.

Một thế giới huy hoàng của trí tò mò và lòng ham hiểu biết
của con người mở ra trước mắt tôi.

Đã đến lúc phải đi Kaspy, tới Kara-Bugaz, nhưng tôi lại
chẳng có tiền.

Tôi tới một nhà xuất bản và đề nghị ông giám đốc - một người
đàn ông tóc bạc và đáng ngán - ký với tôi một hợp đồng cho cuốn sách về vịnh
Kara-Bugaz. Ông giám đốc uể oải nghe tôi rồi nói:

- Ông đã đánh mất hết hay là trong ông không có lấy một mảy
may ý niệm nào về thực tế xô-viết, mà dám đề nghị với nhà xuất bản in một cuốn
sách như thế?

- Tại sao lại như vậy chứ?

- Trong cái vịnh của ông ấy, người ta đang khai thác muối
Glauber đấy, ông ạ. Chẳng có lẽ ông thật sự định viết một cuốn tiểu thuyết về
thuốc xổ? Hay là ông định giễu tôi? Ông nghĩ sao... ông tưởng bọn ngốc làm nghề
xuất bản sẽ bỏ ra dù chỉ một xu keng cho cái dự định rồ dại ấy ư?

Tôi phải vất vả lắm mới kiếm được tiền ở một nơi khác.

Tôi đáp tàu đi Saratov,
rồi từ đó xuôi sông Volga tớiAstrakhan. Đến đấy
thì tôi bị kẹt, phải nằm lại. Số tiền ít ỏi của tôi đã hết và để có tiền đi
tiếp, ở Astrakhan tôi phải viết mấy bút ký cho tạp chí "Ba Mươi Ngày"
và một tờ nhật báo của của thành phố.

Để có chất liệu viết những bài bút ký đó tôi đi vào thảo
nguyên Astrakhan và
tới sông Emba. Những chuyến đi đó đã giúp tôi viết cuốn sách về Kara-Bugaz.

Tôi đi bằng đường biển Kaspy dọc theo những bờ rậm rịt những
dải rộng lau sậy để tới Emba. Con tàu cũ kỹ chạy guồng mang một cái tên lạ:
"Heliotrop". Giống như mọi tàu thủy cũ, trên tàu có rất nhiều đồng
đỏ.Tay vịn, địa bàn, ống nhòm, mọi thứ máy móc, cả đến bậc cửa cao của các
ca-bin, đều bằng đồng. Tàu "Heliotrop" trông như một ấm samovar bụng
phệ được đánh bằng gạch non đến bóng loáng, đang bốc khói và bập bềnh trên
những đợt sóng thấp của một biển cạn.

Những con hải báo nằm ngửa trong nước ấm như người đi tắm
biển. Thỉnh thoảng chúng lười biếng ve vẩy những cái chân bơi béo mập.

Trên những bến nổi của vạn chài, những cô gái răng trắng mặc
quần áo xanh thủy thủ huýt sáo và tươi cười nhìn theo tàu
"Heliotrop", má cô nào cô ấy đầy vẩy cá.

Những đám mây trắng và những dải cát trắng soi mình trong
làn nước phẳng lì bóng loáng, lắm lúc không phân biệt nổi đâu là trời mây, đâu
là đảo nữa.

Khói nhẹ và mỏng từ chất đốt bằng phân gia súc đóng bánh
lượn lờ trên thị trấn Guriev. Tôi đi Emba trên chuyến tàu chạy bằng động cơ vừa
mới bắt đầu hoạt động, qua một thảo nguyên khô cằn.

Ở thị trấn Dossor bên sông Emba, những tháp dầu thở phì phò
giữa những hồ nước hồng tươi phảng phất mùi nước dưa. Cửa sổ các nhà đều không
có kính. Người ta thay kính bằng những tấm lưới thép mau mắt. Mặt ngoài những
lưới thép ấy bị côn trùng bám dày đặc làm cho trong nhà tối thui.

Ở Emba, tôi vùi đầu vào nghiên cứu công việc sản xuất dầu
hỏa, vào những câu chuyện về "những vòm muối mỏ", việc thăm dò trên
sa mạc, về dầu hỏa nặng và dầu hỏa nhẹ, về đầm nước mặn có dầu nổi tiếng
Marakaibo ở Venezuela, nơi những kỹ sư tỉnh Emba thường tới thực tập.

Ngay trước mắt tôi một kỹ sư bị nhện độc cắn. Ngày hôm sau
ông ta chết.

Miền Trung Á đặc biệt oi bức. Đêm đêm sao sáng qua màn bụi
cát. Những bà lão kazak mặc quần rộng và ngắn bằng vải thô có những hình sặc sỡ
đi lại trong các phố. Trên màu vải hồng in rối rắm hình hoa mao lương đen và
những lá xanh.

Sau mỗi chuyến đi tôi lại lần về Astrakhan, về ngôi nhà gỗ nhỏ của một nhà báo
địa phương. Ông ta lôi tôi về ở với ông và tôi đã quen ở đấy.

Ngôi nhà gỗ nhỏ nằm trên bờ con sông đào Varvatziev, trong
một khu vườn nhỏ. Trong vườn hoa kim liên mọc thành đống.

Tôi viết những bài bút ký trong cái phong đình bé xíu, vừa
đủ cho đúng một người. Tôi ngủ luôn ở đó.

Bà vợ của nhà báo, một thiếu phụ trẻ ốm yếu nhưng niềm nở,
suốt ngày khóc thầm trong bếp, vừa khóc vừa xếp đi xếp lại những chiếc áo trẻ
con. Cách đây hai tháng bà mất đứa con trai mới sinh.

Từ Astrakhan tôi đi Makhachkala, Baku và Krasnovodsk.
Mọi chuyện sau đó tôi đã tả trong Kara-Bugaz.

Tôi trở về Moskva, nhưng vài ngày sau đã lại phải đi đến
miền Bắc Ural, tới Berezniki và
Solikamsk, với tư cách phóng viên.

Rời cái nóng không thể tưởng tượng nổi của châu Á, tôi lại
rơi vào xứ sở của những rừng vân sam tăm tối, những đầm lầy, những ngọn núi rêu
phong và mùa đông đến sớm.

Ở đó tôi bắt đầu viết Kara-Bugaz trong một khách sạn tại
Solikamsk. Khách sạn đặt trong một tòa nhà trước kia là nhà dòng. Gian phòng
tôi ở xây cuốn, lạnh buốt. Ngoài tôi ra còn có ba kỹ sư hóa: một người đàn ông
và hai người đàn bà. Họ sống như ở ngoài mặt trận. Ba kỹ sư làm việc ở mỏ kali
Solikamsk.

Trong khách sạn sặc mùi trầm, mùi bánh mì và mùi da thuộc,
mùi của thế kỷ XVIỊ Đêm đêm, những người gác mặc áo choàng lông điểm giờ bằng
cách gõ vào những tấm gang. Trong ánh tuyết mờ nổi bật lên những ngôi nhà thờ
trát thạch cao, từ thời "triều Stroganov".

Ở đây không có gì nhắc tôi nghĩ đến châu Á và vì thế, không
hiểu sao, tôi viết thấy dễ hơn.

Đấy là câu chuyện ngắn ngủi, được kể vắn tắt, về cuốn
Kara-Bugaz. Không thể nào kể hết được, cho dù chỉ đơn giản kê ra tuốt tuột
những cuộc gặp gỡ, những buổi trò chuyện và những việc xảy ra dọc đường.

Tất nhiên, các bạn cũng thấy rằng chỉ có một phần - mà là
phần nhỏ - chất liệu mà tôi đã thu lượm được dùng trong tác phẩm. Phần lớn còn
nằm ngoài lề cuốn truyện.

Nhưng cũng chẳng nên tiếc rẻ làm gì. Những chất liệu chưa
dùng đến ấy bất cứ lúc nào cũng có thể sống lại trên những trang của một cuốn
khác.

*

*  *

Tôi viết Kara-Bugaz và không nghĩ tới việc xếp sắp chất liệu
sao cho chỉnh. Tôi xếp nó theo trình tự chất liệu được gom góp lại mỗi lúc một
nhiều trong chuyến đi trên những vùng duyên hải Kaspy.

Sau khi Kara-Bugaz ra đời, các nhà phê bình tìm thấy trong
truyện dài ấy "bố cục theo hình xoáy ốc' và rất khoái phát hiện đó. Nhưng
trong việc này cả óc tôi, cả tim tôi đều không cố tình làm ra như thế.

Khi viết Kara-Bugaz, chủ yếu tôi nghĩ rằng nhiều cái trong
đời sống của chúng ta vốn tràn đầy âm hưởng trữ tình và hùng tráng, và ta có
thể biểu hiện nó một cách đẹp đẽ và chính xác. Dù cho đó là cuốn truyện dài về
muối Glauber hay về công trình xây dựng nhà máy giấy ở vùng rừng phương Bắc.

Tất cả những cái đó có thể tác động mạnh mẽ vào tâm hồn
nhiều người, nhưng với một điều kiện nhất thiết phải có, không có không được,
là: người viết những truyện ấy phải hướng tới sự thật, tin tưởng vào sức mạnh
của trí tuệ, vào quyền lực đáng tin cậy của trái tim và phải yêu mến đất đai.

Mới đây tôi có đọc thơ của Antokonsky và bắt gặp trong đó
hai đoạn rất hay, có sức truyền đạt trạng thái say mê cuộc sống của trái tim
người. Trái tim đó không thể không nghe mà phải nghe thấy:

Cả tiếng vĩ cầm rên rỉ xa xa

Cảm trước thấy mùa xuân đang tới

Cả tiếng vọng tơ đàn, rơi rơi

Những giọt nước gieo trong yên lặng.

Khúc nhạc ấy đất trời - ta tặng.

Đất trời ta, bao thế kỷ rồi

Vẫn vĩnh cửu, vẫn hằng trong sáng

Vẫn mãi mãi làm vui cho người...

Báo cáo nội dung xấu