Nhà Giả Kim - Chương 08 - 09 -10 -11
8
Cậu chăn cừu thất vọng ra về và nhất quyết không bao giờ tin vào mộng mị nữa. Rồi cậu chợt nhớ còn phải giải quyết một vài việc: mua thức ăn, đổi sách lấy một quyển dầy hơn. Sau đó cậu ra ngoài bãi chợ, ngồi trên ghế băng thưởng thức rượu vang mới mua. Hôm ấy trời rất nóng và chẳng hiểu sao vang lại làm cậu phấn chấn. Lũ cừu được gửi gắm chăm sóc cẩn thận nơi chuồng của một người bạn cậu mới quen ở lối vào thành phố. Cậu quen biết nhiều người ở vùng này. Cậu thích đi nhiều cũng vì thế. Luôn luôn kết được bạn mới mà không cần mất trọn thì giờ để sống bên họ. Nếu lúc nào cũng chỉ quen một số người thôi, như ở trường đạo, thì họ sẽ trở thành một phần không thể tách rời khỏi cuộc đời mình. Khi đã như thế thì họ muốn thay đổi cuộc đời mình. Rồi khi ta không muốn thay đổi như họ muốn thì họ sẽ thất vọng. Vì hình như ai cũng tưởng mình biết rất rõ người khác phải sống như thế nào cho đúng, trong khi lại mù mờ về cuộc sống của chính bản thân mình. Giống như bà lão giải mộng kia không biến nổi giấc mơ thành hiện thực vậy. Cậu muốn chờ cho đến khi mặt trời xuống thấp nữa mới dẫn đàn cừu đi tiếp. Chỉ còn hơn ba ngày nữa là cậu sẽ gặp lại cô con gái của nhà buôn nọ. Cậu bắt đầu đọc quyển sách mới nhận được của linh mục thành Tarifa. Sách dầy lắm và ngay trang đầu đã nói về một đám tang mà tên các nhân vật phức tạp quá. Nếu một ngày nào đó mình viết sách, cậu nghĩ, mình sẽ chỉ cho nhân vật này xuất hiện tiếp nhân vật khác để người đọc khỏi rối trí. Tập trung đọc một lúc cậu mới thấy hay vì truyện viết về một đám tang trên tuyết trắng đã đem đến cho cậu một cảm giác tươi mát dưới cái nắng trưa gay gắt này. Cậu đang mê mải đọc thì một ông già đến ngồi cạnh và bắt chuyện. “Họ làm gì đấy?” ông già hỏi, tay chỉ những người đi lại hối hả trên bãi chợ. “Làm việc”, cậu đáp cụt ngủn chủ ý cho thấy mình đang say mê đọc. Nhưng thật ra cậu đang nghĩ đến việc sẽ xén lông cừu trước mắt cô con gái chủ tiệm để cô thấy cậu giỏi giang, làm được nhiều việc không dễ tí nào. Cậu đã nhiều lần tưởng tượng cảnh ấy và lần nào cô gái cũng sửng sốt khi cậu giải thích cho cô biết rằng phải xén lông cừu từ sau tới trước. Cậu cũng ráng nhớ vài ba giai thoại để có thể vừa làm vừa kể cô nghe. Phần lớn những giai thoại này cậu đọc trong mấy quyển sách nào đó nhưng lại muốn kể như thể chính mình đã chứng kiến. Đằng nào thì cô cũng không biết thực hư được vì cô không biết đọc. Nhưng ông già không chịu buông. Ông kêu rằng mệt, khát và xin một hớp vang. Cậu đưa ông chai rượu, hi vọng rồi sẽ được để yên. Nhưng ông già cứ nhất định bắt chuyện. Ông hỏi cậu đang đọc gì đấy. Cậu muốn tỏ ra bất lịch sự và đổi sang ghế khác quá nhưng bố cậu đã dạy phải kính trọng người già cả. Thành ra cậu đưa quyển sách cho ông, vì hai lí do: một là cậu không đọc được đúng tên sách, hai là nếu ông già không biết đọc thì có lẽ ông sẽ xấu hổ và tự sang ngồi ghế khác. “Hừm…”, ông già ậm ừ rồi săm soi nhìn quyển sách như thể nó là một vật lạ. “Quyển này tuy là một tác phẩm lớn nhưng rất nhàm chán”. Cậu chăn cừu sửng sốt. Không những ông già biết chữ mà còn đã đọc quyển sách đó rồi nữa. Nếu đúng là nhàm chán như ông già nói thì còn kịp để đổi lấy quyển khác. “Nó cũng nói về cùng một vấn đề như mọi quyển sách khác thôi”, ông già nói tiếp. “Rằng con người không có khả năng lựa chọn lấy vận mệnh của mình. Và kết thúc rằng ai cũng tin vào cái điều bịp bợm nhất thế gian”.
9
“Điều bịp bợm ấy là gì?” cậu chăn
cừu ngơ ngác hỏi. “Đó là: vào một lúc nhất định trong đời, chúng ta không làm
chủ được vận mệnh của mình nữa và rồi đời mình sẽ do định mệnh đưa đẩy. Đó chính
là điều dối trá nhất thế gian!” “Cháu thì không thế”, cậu đáp. “Người ta muốn
cháu trở thành thầy tu nhưng cháu đã quyết định làm kẻ chăn cừu.” “Thế là phải
lắm,” ông già nói. “Bởi cậu thích đi đây đi đó nhiều mà.” “Ông này đọc được ý
nghĩ của mình”, cậu ngẫm nghĩ. Trong lúc ấy ông già lần giở sách, không có vẻ
gì muốn trả lại cả. Cậu chăn cừu nhìn bộ quần áo khác thường ông già mặc trên người.
Trông ông như một người Arập, điều không có gì lạ ở vùng này. Châu Phi chỉ cách
Tarifa có vài giờ đường thôi; chỉ cần dùng thuyền nhỏ vượt eo biển (Châu Phi
cách Tây Ban Nha bởi eo biển Gibraltar) hẹp là
tới. Người Arập thường đến thành phố này mua sắm và ngày nào cũng nhiều lần lâm
râm đọc những bài kinh lạ tai của họ. “Ông từ đâu đến?” cậu hỏi. “Từ nhiều
nơi.” “Không ai có thể đến cùng lúc từ nhiều nơi khác nhau được”, cậu nói.
“Cháu là kẻ chăn cừu và biết nhiều nơi nhưng đến thì chỉ từ một thành phố thôi;
nó ở gần một nơi thành cổ. Cháu sinh ra ở đấy.” “Thế thì có thể nói sinh quán
ta ở Salem.”
Cậu chăn cừu không biết Salem
ở đâu, nhưng không hỏi tiếp để khỏi bị xem là dốt nát. Cậu nhìn những người
lăng xăng đi lại trên bãi chợ một lúc lâu, người nào cũng có vẻ rất bận rộn. “Salem giờ ra sao?”, cậu
hỏi, mong tìm được chút manh mối. “Vẫn thường”. Chẳng lần ra được chút gì. Cậu
chỉ biết Salem không ở trong vùng Andalusia, bởi nếu có thì cậu đã nghe nói tới rồi. “Thế
ông làm gì ở Salem?”
cậu hỏi tới. “Ta làm gì ư?” Ông già bật cười ha hả. “Ta là vua xứ Salem!” ‘Người ta cứ hay
nói những chuyện lạ lùng’, cậu nghĩ thầm. “Đôi khi chơi với lũ cừu còn thích
hơn vì chúng câm, chỉ biết tìm thức ăn và nước uống. Sách cũng giúp ta đỡ buồn
bằng cách kể ta nghe những chuyện hay ho mỗi khi ta muốn nghe. Nhưng khi trò
chuyện với người thì có thể họ sẽ nói những điều quái lạ khiến ta chịu không
biết phải tiếp tục nói gì.” “Tên ta là Melchisedek”, ông già nói. “Cậu có bao
nhiêu cừu?” “Tạm đủ”, cậu nghi ngại đáp. Ông này muốn biết quá nhiều về cậu.
“Thế thì phiền lắm đấy vì ta sẽ không giúp cậu được gì nếu cậu cho rằng có đủ
cừu”. Đến đây thì cậu bực mình thực sự. Cậu có cầu được giúp đỡ gì đâu; ông già
xin cậu rượu vang, bắt chuyện và mượn sách đấy chứ. “Ông cho cháu xin lại quyển
sách. Chái phải trở lại chỗ bầy cừu rồi dẫn chúng đi tiếp.” “Nếu cậu trả thù
lao cho ta một phần mười số cừu của cậu thì ta sẽ chỉ cậu cách đến được cái kho
tàng chôn giấu bí mật đó”, ông già nói. Đến đây cậu chợt nhớ lại giấc mơ và
bỗng thấy mọi sự như sáng tỏ. Mụ già giải mộng tuy không đòi gì hết nhưng bây
giờ lão già này, có thể là chồng mụ lắm, sẽ lấy của cậu đổi lại một lời chỉ dẫn
vô giá trị về một kho tàng không hề có. Chắc hẳn lão cũng là dân Zigeuner thôi.
Cậu chưa kịp mở miệng thì ông già đã cúi nhặt một cây que rồi viết trên mặt
cát. Khi cúi như thế, có gì đó lóe sáng trên ngực ông làm cậu lóa mắt. Nhưng
ông già, bằng một động tác phải nói là quá nhanh nhẹn ở vào tuổi ông, vội kéo
áo khoác che lên. Khi mắt không còn lóa nữa, cậu đọc những gì ông già vừa viết.
Trên mặt cát bãi chợ là tên bố mẹ cậu. Cậu đọc về cuộc đời mình, những trò chơi
thuở nhỏ. Những đêm lạnh lẽo trong chủng viện; cậu đọc tên con gái chủ tiệm vải
mà chính cậu còn chưa biết. Cậu đọc những chuyện của mình mà cậu chưa từng thổ
lộ cùng ai – như vụ cậu lấy trộm súng của bố để đi săn hươu, chuyện lần đầu
tiên trong đời tự thân tìm biết dục tính là gì.
10
“Ta là vua xứ Salem”, ông già dõng dạc nói. “Tại sao một vị
vua lại đi trò chuyện với một kẻ chăn cừu tầm thường nhỉ?” cậu thắc mắc hỏi, có
hơi xấu hổ về xuất thân của mình. “Có nhiều lí do. Nhưng lí do chính là cậu đã
thành công trong sự đeo đuổi vận mệnh của mình.” Cậu chăn cừu chẳng hiểu thế
nào là vận mệnh. “Vận mệnh chính là điều mà anh luôn luôn muốn đạt được. Khi còn
trẻ ai ai cũng biết vận mệnh của mình là gì. Trong đoạn đời này mọi sự đều đơn
giản và người ta dám mơ mộng đủ thứ về những điều họ muốn làm trong đời. Nhưng
rồi, theo thời gian, một sức mạnh thần bí sẽ tìm cách thuyết phục ta rằng con
đường đời như ta mơ ước sẽ không thể nào thực hiện được đâu.” Cậu chăn cừu
chẳng hiểu gì lắm những gì ông già nói. Tuy thế, cậu vẫn muốn biết sức mạnh
thần bí kia nghĩa là gì. Rồi cô gái con chủ tiệm vải sẽ tròn xoe mắt nghe cậu
giảng cho mà xem. “Đó là một lực thần bí xem ra có vẻ không tốt lành nhưng
trong thực tế lại giúp chúng ta đi hết con đường đời của mình. Lực thần bí này
chuẩn bị cho tinh thần và ý chí ta sẵn sàng, bởi sự thật vĩ đại trên hành tinh
này chính là: bất kể anh là ai, anh làm gì, khi anh thật tâm mong muốn điều gì
thì điều mong muốn đó sẽ được hình thành trong cõi Tâm linh vũ trụ
(Weltenseele; Soul of the Universe). Đó sẽ là nhiệm vụ của anh trên trái đất.”
“Ngay cả khi chỉ là mong muốn được đi đây đi đó hay là được lấy con gái nhà
buôn vải hay sao?” “Hoặc mơ ước tìm kho tàng chẳng hạn. Tâm linh vũ trụ được
nuôi dưỡng bởi hạnh phúc của con người, bởi cả sự bất hạnh, tị hiềm và ghen
tuông nữa. Nhiệm vụ duy nhất của mỗi chúng ta là thực hiện con đường mình đã
chọn. Tất cả chỉ là một. Rồi khi anh quyết chí muốn điều gì thì toàn vũ trụ sẽ
chung sức để anh đạt được điều ấy.” Cả hai ngồi lặng thinh hồi lâu, quan sát
người qua kẻ lại trên bãi chợ. Rồi ông già lên tiếng trước. “Tại sao cậu chọn
nghề chăn cừu?” “Vì cháu thích đi đây đi đó.” Ông già chỉ vào một người bán kem
với chiếc xe kéo màu đỏ hai bánh đậu ở một góc bãi chợ. “Khi còn nhỏ người bán
kem kia cũng muốn đi đây đi đó lắm. Nhưng mà anh ta thấy nên mua một xe kem để
kiếm tiền và dành dụm đã. Khi nào đủ tiền anh ta sẽ sang châu Phi chơi một
tháng. Anh ta không hề hiểu rằng người ta lúc nào cũng có thể thực hiện được
ước mơ của mình.” “Lẽ ra anh ta nên làm kẻ chăn cừu”, cậu buột miệng nói to.
“Anh ta quả cũng có nghĩ thế đấy”, ông già nói. “Nhưng mà nghề bán kem được coi
trọng hơn là chăn cừu. Họ có nhà cửa, còn người chăn cừu phải ngủ ngoài đồng
trống. Thiên hạ thích gả con gái cho người bán kem hơn cho gã chăn cừu.” Chàng
trai thấy tim mình đau nhói khi nghĩ đến con gái chủ tiệm vải. Chắc hẳn trong
thành phố của cô cũng có một người bán kem. “Nói cho cùng con người coi việc kẻ
khác đánh giá anh bán kem hay cậu chăn cừu quan trọng hơn là thực hiện điều
thâm tâm mình muốn.” Nói đến đây ông già lật sách, đọc qua loa. Chàng chăn cừu
đợi một lúc rồi mới lên tiếng cắt ngang, giống như lúc đầu cậu bị cắt ngang. “Tại
sao ông nói với cháu về những điều này?” “Vì chính cậu đã cố gắng đi theo tiếng
gọi của thâm tâm và giờ đây sắp bỏ cuộc.” “Lúc nào ông cũng xuất hiện vào đúng
giây phút quyết đinh sao?” “Không phải lúc nào cũng dưới hình dáng này, nhưng
ta luôn luôn xuất hiện, dưới một dạng nào đó. Đôi khi dưới dạng một giải pháp
tốt, một ý kiến xuất thần. Có lần, vào lúc quyết định, ta tạo hoàn cảnh thuận
lợi hơn. Vân vân. Nhưng phần lớn người ta không nhận ra điều ấy.” Ông già kể
rằng tuần trước ông, dưới dạng một viên đá, đã đến với một người tìm đá quý.
Người đó đã bỏ tất cả để tìm ngọc lục bảo. Ông ta đã làm việc ròng rã năm năm ở
một con sông và đã đập 999999 viên đá chỉ để tìm lấy một viên ngọc lục bảo. Bấy
giờ người tìm ngọc đã định bỏ cuộc rồi, trong khi chỉ cần một hòn đá nữa thôi,
một hòn đá duy nhất nữa, là sẽ tìm được ngọc. Chính vì người này đã tin theo
tiếng gọi của thâm tâm nên ông già quyết định ra tay giúp. Ông biến thành một
viên đá lăn tới chân người nọ. Người này, với tất cả phẫn nộ và tuyệt vọng của năm
năm mất trắng, liệng viên đá ra thật xa. Ông ta ném mạnh đến nỗi nó làm vỡ
toang một hòn đá khác, làm lộ ra viên ngọc lục bảo đẹp nhất thế gian. “Con
người nhận thức rất sớm họ sống trên đời để làm gì”, ông già nói, giọng nhuốm
vẻ chua chát. “Có thể chính vì thế mà họ lại bỏ cuộc sớm. Đành thôi.” Lúc ấy
cậu chăn cừu mới nhắc ông rằng hai người bắt đầu bằng câu chuyện kho tàng bị
chôn giấu. “Kho tàng được dòng sông đưa lên mặt nước rồi lại vùi xuống đáy”,
ông già nói. “Nếu cậu muốn biết gì về kho tàng của mình thì phải chịu trả ta
một phần mười số cừu của cậu”. “Ông không thích nhận một phần mười kho tàng hơn
à?” Ông già tỏ vẻ không hài lòng. “Nếu cậu hứa trả bằng cái mình chưa sở hữu
thì rồi sẽ có lúc cậu mất đi ý chí đạt được nó đấy.” Nghe thế cậu chăn cừu bèn
thú thật đã hứa trả một phần mười kho tàng cho bà già Zigeuner rồi. “Phải,
người Zigeuner khôn lắm”, ông già nói. “Dù sao thì cũng tốt vì cậu đã học được
rằng ở đời mọi thứ đều có giá của chúng cả. Đó chính là điều mà chúng ta, những
sứ thần đem ánh sáng đến soi rọi (Lichtbote; Warrior of the Light), muốn truyền
đạt.” Ông già đưa trả cậu quyển sách. “Ngày mai giờ này cậu đem một phần mười
số cừu đến cho ta. Ta sẽ chỉ cho cậu con đường tìm đến được kho tàng. Tạm
biệt.” Rồi ông già bỏ đi, biến mất sau một góc tường.
11
Chàng trai cố đọc tiếp nhưng không
tập trung nổi nữa. Cậu thấp thỏm và căng thẳng vì biết những gì ông già nói là
đúng sự thật. Cậu lại xe kem mua một cây kem rồi cân nhắc xem có nên kể cho
người bán kem những gì ông già vừa nói không. “Đôi khi nên để yên cho mọi sự
tiếp diễn là khôn ngoan hơn”, cậu nghĩ và bình tâm lại. Nếu cậu nói ra thì biết
đâu người bán kem sẽ băn khoăn suốt vài ba ngày liền, rằng có nên tung hê hết
tất cả không, mà anh ta lại đã quá quen với cái xe kem rồi. Cậu thấy đừng nên
làm người bán kem phải lo nghĩ nữa. Thế là cậu đi lang thang thơ thẩn trên
đường phố, ra đến bến cảng. Ở đây có một ngôi nhà nhỏ với quầy bán vé đi châu
Phi. Ai Cập ở bên châu Phi mà! “Cậu cần gì?” người đàn ông ngồi ở quầy hỏi.
“Mai hẵng hay”, cậu đáp rồi vội vã đi ra. Chỉ cần bán đi một con cừu là đủ tiền
qua eo biển thôi mà. Ý nghĩ này khiến cậu băn khoăn. “Lại một tay mơ mộng vẩn
vơ”, gã ngồi quầy nói với đồng nghiệp trong lúc cậu đi ra. “Hắn cóc có tiền mua
vé đâu.” Lúc đứng ở quầy vé, cậu chăn cừu nhớ tới lũ cừu của mình và chợt thấy
cần phải về với chúng. Trong vòng hai năm cậu đã học được hết mọi việc của nghề
chăn cừu; cậu xén lông được này, săn sóc các con có mang này, bảo vệ chúng
trước chó sói này. Và cậu cũng biết rành mọi đồng cỏ vùng Andalusia.
Cậu biết cả giá mua và bán của từng con một. Cậu chọn con đường vòng vo xa nhất
để về chuồng của người bạn. Thành phố này cũng có ngôi thành cổ, thế là cậu
quyết định leo hết bậc thang đá, lên chỗ cao nhất để ra ngồi nơi công sự. Có ai
đó đã giải thích cho cậu rằng người Mauren đã qua eo biển này chiếm cứ gần hết
Tây Ban Nha trong nhiều năm. Cậu căm ghét người Mauren, vì chính họ đã đưa
người Zigeuner đến đây. Từ trên cao này cậu nhìn thấy gần hết thành phố, cả cái
bãi chợ nơi cậu trò chuyện với ông già. “Cái giây phút đã xui khiến ta gặp gỡ
lão già kia thật là đáng nguyền rủa”, cậu ngẫm nghĩ trong tuyệt vọng. Cậu chỉ
muốn tìm mụ già giải mộng thôi. Thế mà cả mụ lẫn lão già đều chẳng cần biết cho
rằng cậu là một gã chăn cừu. Hẳn họ là những người rất cô đơn, chẳng còn tin gì
vào cuộc đời nữa nên không hiểu rằng người chăn cừu gắn bó với lũ vật của mình
như thế nào. Cậu biết rõ đặc điểm của từng con một: con nào đi cà nhắc, con nào
hai tháng nữa sẽ đẻ và con nào lười nhất hạng. Cậu cũng biết phải xén lông thế
nào, phải mổ thịt chúng ra sao. Nếu cậu bỏ chúng mà đi thì chúng sẽ khốn khổ
thôi. Một làn gió nhẹ thổi. Cậu biết loại gió này; người ta gọi nó là gió
Levante (Levante: vùng đất trải từ đông Địa Trung Hải tới sông Euphrat, sông
Nil và bờ biển vùng Tiểu Á), vì đám Mauren xưa đã từ phương Đông theo gió này
mà tới đây. Trước khi đến Tarifa cậu không hề biết rằng châu Phi gần đến thế.
Nhưng cũng là mối nguy lớn đấy, vì bất cứ lúc nào người Mauren cũng có thể lại
tấn công sang được. Gió thổi mạnh hơn. “Mình kẹt giữa một bên là lũ cừu và một
bên là cái kho tàng”, cậu nghĩ. Cậu phải chọn giữa một bên là những gì quen
thuộc, gần gũi và một bên là cái cậu muốn sở hữu. Còn cô gái nữa chứ, nhưng cô
không cần được cậu lo cho bằng bầy cừu vì cô không lệ thuộc vào cậu. Có thể cô
không còn cả nhớ cậu là ai nữa. Cậu dám chắc rằng nếu hai ngày nữa cậu không
xuất hiện ở đó thì cô cũng chẳng biết. Với cô thì một ngày như mọi ngày; và khi
ngày nào cũng như ngày nấy thì con người cũng chẳng nhận biết được những việc hay
ho xảy đến trong đời. “Mình đã giã từ cha mẹ và ngôi thành cổ của quê hương ra
đi. Cha mẹ và ngôi thành cổ đã quen với chuyện ấy rồi, giống như mình cũng đã
quen vậy. Thế thì lũ cừu cũng sẽ quen với sự vắng mặt của mình thôi”, cậu ngẫm
nghĩ. Từ chỗ cao này cậu nhìn rất rõ bãi chợ. Người bán kem vẫn còn đó. Một đôi
trai gái còn trẻ ngồi trao nhau nụ hôn dài trên cái ghế cậu và ông già đã ngồi.
“Chà, người bán kem”, cậu buột miệng rồi không nói tiếp vì gió Levante thổi
thốc vào mặt. Gió này tuy mang theo người Mauren thật, nhưng đưa đến cả mùi
thơm của sa mạc và hương thơm của các phụ nữ đeo khăn che mặt (phụ nữ nhiều
nước theo đạo Hồi thường đeo khăn che kín mặt, chỉ để hở hai mắt). Nó đem theo
cả mùi mồ hôi và giấc mơ của những người đàn ông một ngày nào đó đã lên đường
vào chốn vô định để tìm vàng, tìm sự phiêu lưu, tìm cả Kim Tự Tháp nữa. Cậu
chợt ganh tị với ngọn gió tự do kia và thấy rằng mình cũng có thể được tự do
không kém. Chẳng có gì ngăn cản được cậu, trừ chính cậu ra. Bầy cừu, cô con gái
chủ tiệm vải, những cánh đồng cỏ vùng Andalusia
chỉ là những chặng trên con đường đời của cậu thôi.

