Nhà Giả Kim - Chương 12 - 13 -14

12

Hôm sau, cậu chăn cừu dẫn theo sáu
con cừu đến gặp ông già.

- Cháu ngạc nhiên lắm, - cậu nói, -
vì bạn cháu chịu mua ngay số cừu kia. Anh ta bảo rằng đã từ lâu mơ ước được
thành người chăn cừu và đây quả là dấu hiệu tốt cho anh ấy.

- Bao giờ cũng thế cả, - ông già
đáp. – Cái đó gọi là nguyên lí thuận lợi (Guenstige Prinzip; Principle of
favorability). Lần đầu tiên khi ta liều chơi đỏ đen thì thường là ta thắng. Thánh
nhân đãi kẻ khù khờ mà. (Tạm dịch “Anfaengerglueck; beginner’’s luck” cho dễ
hiểu).

- Nhưng tại sao mới được chứ?

- Tại vì cuộc đời muốn rằng ta mãi
đi theo con đường mình chọn.

Rồi ông xem xét lũ cừu, phát hiện
một con bị què. Cậu cả quyết rằng thật chẳng đáng kể vì con cừu nọ thông minh
nhất và cho nhiều lông nhất. “Thế kho tàng ở đâu hở ông?” cậu hỏi. “Ở Kim Tự
Tháp bên Ai Cập”. Cậu thót cả người. Bà già kia cũng nói y như thế mà chẳng đòi
gì hết. “Để đến được đó thì cậu phải lần theo các dấu hiệu. Chúa vạch đường để
người người ta đi theo. Chỉ cần cậu biết nhận ra Người dùng dấu hiệu gì để vạch
đường cho cậu”. Cậu chưa kịp nói gì thì có một con bướm bay lượn giữa cậu và
ông già, làm cậu nhớ đến ông nội của cậu. Hồi cậu còn nhỏ ông nội cậu bảo rằng
bướm mang lại điềm lành, tương tự như dế, cỏ ba lá bốn cánh và móng ngựa (Cỏ ba
lá mà lại bốn cánh rất hiếm. Móng ngựa được dân nhiều nước châu Âu treo trong
nhà hoặc gắn trên xe, coi đó là biểu tượng cho may mắn). “Đúng thế”, ông già
nói vì đọc được cậu đang nghĩ gì. “Nó giống như ông nội cậu đã dạy cậu vậy.
Chúng cũng là những dấu hiệu đấy.” Rồi ông mở áo khoác. Cậu nhìn mà thán phục
và nhớ tới ánh rực rỡ đã thấy hôm qua: ông già đeo giáp che ngực bằng vàng
ròng, gắn đầy đá quý đủ màu. Nhất định ông phải là vua thật rồi. Chắc ông khoác
thêm áo ngoài là để tránh bị cướp thôi. “Cậu hãy cầm lấy”, ông già nói và rứt
từ giữa áo giáp bằng vàng kia một viên đá trắng và một viên đen. “Hai viên đá
này tên là Urim và Thummim. Viên đen nghĩa là có, viên trắng nghĩa là không.
Nếu cậu không tự mình nhận ra được dấu hiệu thì hai viên đá này hữu ích cho cậu
đấy. Phải luôn luôn đặt câu hỏi khách quan. Song tốt nhất là cậu tự quyết định
lấy. Kho tàng nằm ở Kim Tự Tháp, cậu đã biết rồi. Nhưng nhờ có ta cậu mới quyết
định, nên cậu phải trả sáu con cừu.” Cậu nhét hai viên đá vào bị. Trong tương
lai cậu sẽ tự mình quyết định lấy mọi chuyện. “Đừng bao giờ quên rằng tất cả là
một tổng thể. Cũng đừng quên ngôn ngữ của dấu hiệu. Nhất là đừng quên đi cho
hết con đường mình tự chọn. Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu
chuyện:

Một ngày nọ, một thương nhân gửi
con trai của mình đến một nhà thông thái bậc nhất không ai bằng để nhờ ông dạy
cho người con bí quyết đạt được hạnh phúc. Anh con trai đi ròng rã bốn mươi
ngày xuyên qua sa mạc mới đến được tòa lâu đài nguy nga ngự trên núi cao. Nhà
thông thái anh muốn tìm đang ở đó. Thay vì gặp một vị thánh thì anh lại vào một
gian phòng đầy người sinh hoạt tất bật. Thương nhân hết đến rồi đi, người khác
túm tụm ở các góc phòng bàn tán, một dàn nhạc chơi các ca khúc lảnh lót, lại có
cả một bàn tiệc đầy sơn hào hải vị cùng đó. Nhà thông thái chuyện vãn với từng
người một và anh ta phải chờ suốt hai tiếng mới đến lượt mình được tiếp. Nhà
thông thái lắng nghe anh ta trình bày rồi đáp rằng hiện ông không rảnh để chỉ
dạy anh bí quyết của hạnh phúc. Ông bảo anh hãy đi xem khắp lâu đài rồi hai
tiếng sau trở lại. “Nhưng ta yêu cầu anh làm hộ một điều”, nhà thông thái nói
rồi đưa cho anh một muỗng con có hai giọt dầu. “Trong lúc đi xem thì anh cầm
theo muỗng này và nhớ giữ đừng làm sánh dầu nhé.” Anh ta lên lầu, xuống lầu mắt
không rời cái muỗng. Sau hai giờ anh quay lại gặp nhà thông thái. “Sao”, ông
hỏi, “anh đã thấy các tấm thảm Ba Tư quý giá trong phòng ăn của ta chưa? Cả cái
vườn tráng lệ mà người làm vườn đã phải khổ công mười năm xây dựng? Và những
cuộn giấy da tuyệt hảo trong thư viện của ta nữa?” Anh ta ngượng ngùng thú nhận
rằng chẳng hề để mắt đến gì khác vì cứ phải chăm chăm ngó nhìn muỗng dầu đã
được giao phó. “Thế thì anh hãy đi thêm lần nữa và ngắm cho kĩ những thứ tuyệt
mĩ trong thế giới của ta”, nhà thông thái nói. “Không thể đặt tin tưởng vào một
người khi mình không hề biết người ấy sống trong một ngôi nhà như thế nào.” Yên
dạ hơn, anh ta lại cầm muỗng đi một vòng. Lần này anh chăm chú xem xét những
vật quý treo trên tường và trên trần nhà. Anh ngắm khu vườn có núi vây quanh,
với đủ thứ hoa thơm cỏ lạ và mỗi tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ đều được để đúng
chỗ thích hợp. Trở lại gặp nhà thông thái anh kể chi tiết tất cả những gì đã nhìn
thấy.

- Thế còn hai giọt dầu ta nhờ anh
giữ đâu rồi? – nhà thông thái hỏi.

Nhìn cái muỗng, anh ta hốt hoảng
thấy mình đã làm sánh mất rồi.

- Đây là điều duy nhất mà ta có thể
khuyên anh, - nhà thông thái nhất thế gian nói. “Bí quyết của hạnh phúc là biết
ngắm nhìn mọi thứ tuyệt mỹ trên thế gian này mà không hề quên hai giọt dầu trên
muỗng.

Cậu chăn cừu không nói gì cả. Cậu
hiểu ý nghĩa câu chuyện ông vua vừa kể. Người chăn cừu thích đi, đi mãi nhưng
không bao giờ bỏ quên bầy cừu của mình. Ông già thân mật nhìn cậu rồi xòe cả
hai bàn tay làm vài động tác lạ lùng trên đầu cậu. Sau đó ông dẫn bầy cừu đi.

13

Phía trên cao thành phố Tarifa có
một ngôi thành cổ do người Mauren xây. Ngồi trên tường thành có thể trông thấy
bãi chợ, người bán kem và một mẩu của châu Phi. Xế trưa hôm ấy, Melchisedek,
vua xứ Salem,
ngồi trên chỗ tường thành nhô ra, hứng gió Levante. Lũ cừu ở cạnh ông ngọ nguậy
mãi vì lo sợ trước ông chủ mới và những đổi thay vừa xảy ra. Bởi chúng vốn chỉ
cần ăn và uống thôi mà. Melchisedek nhìn theo con tàu nhỏ chạy bằng hơi nước
vừa rời bến. Ông sẽ không bao giờ gặp lại cậu chăn cừu, cũng như ông đã không
hề gặp lại Abraham (phải chăng Coelho muốn ám chỉ “giao ước” giữa Đức Chúa Trời
và Abraham về tương lai dân Do Thái (Cựu Ước)?) sau khi đã nhận một phần mười.
Đó là phần việc của ông. Thần thánh không nên có mơ ước gì, bởi họ không tùy
thuộc định mệnh. Tuy thế ông vua xứ Salem
vẫn thầm mong cậu chăn cừu sẽ thành công. “Tiếc rằng rồi cậu ấy sẽ sớm quên mất
tên ta”, ông thầm nghĩ. “Lẽ ra ta phải nhắc đi nhắc lại tên ta thường hơn để
sau này cậu ấy sẽ kể về Melchisedek, vua xứ Salem.” Rồi ông nhìn trời, nói với vẻ ăn năn:
“Đúng là có cao ngạo thật đấy, nhưng mà một ông vua già thỉnh thoảng cũng được
phép tự hào về mình đấy chứ nhỉ.”

14

“Châu Phi thật lạ lùng,” cậu chăn
cừu thầm nghĩ. Cậu ngồi trong một quán nước giống như nhiều quán nước khác mà
cậu thấy nhan nhản dọc các con đường hẹp của thành phố. Mấy người đàn ông hút
chung một cái ống điếu to xù, chuyền từ người này sang người khác. Chỉ trong
vài giờ từ khi đến nơi cậu đã được chứng kiến bao điều lạ: đàn ông nắm tay nhau
đi ngoài đường phố, phụ nữ dùng khăn che mặt và các thầy tu leo lên các tháp
cao nghệu, ê a đọc kinh như hát trong lúc mọi người quanh đấy quỳ lạy xì xụp,
vập trán xuống nền đất.

“Đây là tập tục của người ngoại
đạo”, cậu tự nhủ. Thửa nhỏ cậu vẫn hay ngắm nhìn trong ngôi nhà thờ ở nguyên
quán pho tượng thánh Santiago de Compostela tay vung thanh kiếm to bản, phóng
ngựa qua những hình người trông giống như người dân ở đây. Cậu thấy bất an và
cô độc quá chừng. Những người ngoại đạo trông mới dễ sợ làm sao. Nhất là do vội
vã lên đường, cậu quên bẵng một điều - điều cỏn con duy nhất thôi - khiến cậu
có thể còn lâu mới đến được kho tàng: ở đất nước này người ta nói tiếng Arập.
Khi chủ quán lại gần, cậu chỉ vào một thứ thức uống trên bàn bên cạnh. Đó là
thứ trà đắng ngắt. Uống vang thú hơn nhiều. Nhưng cậu thấy không nên bận tâm vì
chuyện ấy, mà chỉ nên nghĩ tới kho tàng thôi, bằng cách nào và đi đường nào đến
đấy. Cậu bán bầy cừu được khối tiền và cậu biết rằng tiền như có ma thuật. Có
tiền thì không đơn độc bao giờ. Không lâu đâu, có khi chỉ vài ngày nữa thôi,
cậu sẽ có mặt ở Kim Tự Tháp cho mà xem. Một ông già đầy vàng trên ngực cần gì
phải lừa cậu lấy sáu con cừu chứ. Ông già từng nói về dấu hiệu. Lúc ngồi trên
tàu qua eo biển cậu đã ngẫm nghĩ về thứ dấu hiệu này. Phải, cậu biết ý ông nói
về cái gì chứ: hồi còn rong ruổi trên các cánh đồng cỏ Andalusia
cậu vẫn tập thói quen nhìn đất, nhìn trời tìm dấu hiệu xem nên đi hướng nào.
Cậu nghiệm ra rằng có một giống chim báo hiệu có rắn ở gần đấy và một loại bụi
cây cho biết quanh đấy có nước. Tất cả là do lũ cừu dạy cho cậu đấy. “Khi Chúa
đã dẫn dắt bầy cừu đi đúng đường thì Người cũng sẽ hướng dẫn con người y như
vậy”, cậu ngẫm nghĩ và yên dạ, thấy trà như bớt đắng hơn.

“Anh là ai?” cậu nghe có người hỏi
ngay bên cạnh bằng tiếng Tây Ban Nha. Cậu nhẹ cả người. Cậu vừa nghĩ đến dấu
hiệu, thế là có người xuất hiện ngay. “Do đâu mà anh biết tiếng Tây Ban Nha?”
cậu hỏi. Anh chàng kia còn trẻ, mặc âu phục, tuy màu da giống người bản xứ hơn.
Khổ người và tuổi anh ta trạc như cậu.

“Ở đây hầu như ai cũng nói được
tiếng Tây Ban Nha cả. Đây tới đó chỉ mất ngót ngét hai tiếng thôi mà.”

“Anh ngồi xuống đây và gọi thức
uống, tôi trả tiền”, cậu bảo anh ta. “Gọi cho tôi một ly vang. Tôi ghét thứ trà
này quá”.

“Ở đây không có vang đâu”, anh kia
đáp. “Đạo Hồi không cho phép uống rượu."

Cậu bèn kể rằng mình phải tới Kim
Tự Tháp. Suýt tí nữa thì cậu buột miệng kể luôn về kho tàng, nhưng kịp thôi vì
nếu cậu kể ra thì nhất định anh chàng Arập kia sẽ đòi chia chác mới chịu dẫn
cậu đi. Cậu nhớ đến lời cảnh báo của ông già rằng không nên hứa trả ai cái gì
mình chưa thật có.

“Nếu được thì tôi yêu cầu anh đi
cùng tôi đến đó. Tất nhiên tôi trả tiền dẫn đạo”.

“Anh đã mường tượng sẽ đi đến đó
như thế nào chưa?”.

Cậu để ý thấy chủ quán đứng gần đấy
dỏng tai nghe lỏm. Sự có mặt của ông làm cậu bực mình. Nhưng đã tìm được người
dẫn đường rồi thì cậu không bỏ lỡ dịp được.

“Anh phải băng qua sa mạc Sahara; muốn thế anh phải có nhiều tiền. Tôi muốn biết
anh có đủ tiền không đã.”

Cậu thấy câu hỏi thật lạ lùng.
Nhưng cậu tin tưởng ở lời ông già, khi ông quả quyết rằng nếu ta quyết tâm thì
cả vũ trụ sẽ cùng chung sức. Thế là cậu moi bị lấy tiền cho anh chàng nọ xem.
Chủ quán cũng xích lại nhìn. Rồi hai người lớn tiếng với nhau bằng tiếng Arập.

“Mình đi thôi”, anh chàng kia nói.
“Hắn không muốn bọn mình ngồi đây”.

Cậu chăn cừu như trút được gánh
nặng, đứng dậy trả tiền; nhưng chủ quán túm tay cậu, cao giọng nói một tràng
dài đầy vẻ giận dữ. Cậu tuy sức trai nhưng ở trên đất lạ thành thử đành phải để
người bạn mới gỡ hộ thế bí, đẩy chủ quán sang một bên, kéo cậu ra đường.

“Hắn muốn lấy tiền của anh đó”,
chàng kia nói. “Thành phố Tanger (Tanger: thành phố cảng ở Bắc Marốc) này không
như những nơi khác của châu Phi đâu. Đây là một phố cảng mà cảng nào thì cũng
đầy trộm cắp cả.”

Anh bạn này thật đáng tin quá đi
chứ. Chẳng gì anh ta cũng đã cứu cậu thoát cảnh khó xử vừa rồi. Cậu đem tiền ra
đếm.

“Ngày mai bọn mình đã có thể đến
Kim Tự Tháp rồi”, anh chàng kia nói rồi cầm tiền. “Nhưng tôi phải tìm mua hai
con lạc đà đã”.

Thế là cả hai đi vòng vèo qua những
ngõ ngách của Tanger. Đâu đâu cũng thấy bày hàng quán. Cuối cùngt họ đến một
bãi chợ to. Cả nghìn người đang mặc cả, mua, bán. Rau quả xếp bên cạnh gươm
dao. Thảm bày bên đủ loại ống điếu thuốc lào. Cậu không rời mắt khỏi người bạn
mới. Anh ta cầm trọn số tiền cậu có. Cậu muốn đòi lại quá, nhưng sợ rằng như
thế sẽ bất lịch sự. Dẫu sao cậu chưa biết gì về phong tục của đất nước lạ này.

“Mình chỉ cần coi chừng hắn thôi”,
cậu tự trấn an; hơn nữa cậu to khỏe hơn anh chàng kia mà. Chợt cậu nhìn thấy
giữa đống rau quả một thanh kiếm tuyệt đẹp. Bao kiếm bằng bạc, chuôi kiếm màu
đen cẩn đá đủ màu. Cậu nhất quyết khi từ Ai Cập về sẽ mua thanh kiếm này.

“Anh hỏi hộ người bán hàng xem
thanh kiếm giá bao nhiêu”, cậu định nói với anh chàng kia như thế thì mới hỡi
ôi! Trong lúc ngắm nhìn thanh kiếm cậu đã để gã kia lọt khỏi tầm mắt, dù chỉ có
hai giây thôi. Tim cậu thót lại. Cậu sợ phải quay đầu tìm vì trực giác cho cậu
biết điều gì đã xảy ra. Cậu đăm đăm nhìn thanh kiếm thêm một lúc nữa đến lúc đủ
can đảm nhìn quanh. Quanh cậu là chợ với biết bao kẻ buôn, người bán lớn tiếng
rao hàng, mặc cả; thảm bày cạnh trái phỉ, rau sống chen giữa mâm bạc, đàn ông
nắm tay nhau, đàn bà che mặt, mùi thơm ngào ngạt của các món ăn lạ. Còn người
bạn kia đã biệt tăm, chẳng để lại chút dấu vết gì. Mới đầu cậu còn cố tin rằng
hai người sơ ý mà lạc nhau nên đứng nán lại đó một lúc, chờ gã nọ. Một lát sau
có người leo lên tòa tháp kia ngân nga đọc kinh. Mọi người quỳ vập trán xuống
đất, ngân nga theo. Sau đó họ - cần mẫn như đàn kiến - gỡ quầy hàng, rời khỏi
chợ. Mặt trời dần lặn. Cậu nhìn theo cho đến khi mặt trời xuống khuất sau những
ngôi nhà màu trắng dựng quanh chợ. Cậu hồi tưởng rằng mới đó, khi mặt trời mọc,
mình còn ở một châu lục khác, còn là một gã chăn cừu, chủ một bầy cừu sáu mươi
con và có hẹn với một cô gái. Sáng nay, trên cánh đồng cỏ, cậu còn điểm qua một
lần suốt các chặng đường của cuộc đời mình. Thế mà giờ đây, khi mặt trời lặn,
cậu đứng trên một đất nước xa lạ, không hiểu nổi cả tiếng người ta nói. Cậu
không còn là gã chăn cừu nữa; trắng tay; ngay cả vài đồng lẻ để quay về, lần
nữa làm lại cuộc đời cũng không có nốt.

“Mọi sự diễn ra chỉ từ lúc mặt trời
mọc đến khi mặt trời lặn thôi”, cậu quá nản chí. Cậu thấy thương thân vì đôi
khi cuộc đời thay đổi hẳn chỉ trong khoảnh khắc, nhanh đến nỗi không hiểu
chuyện gì đã xảy đến với mình. Thật ra cậu rất xấu hổ khi phải khóc. Không bao
giờ cậu khóc trước bầy cừu cả. Nhưng giờ đây cậu đứng giữa chợ không một bóng
người, quê nhà xa tít tắp. Cậu khóc. Khóc vì Chúa thật bất công nên mới bắt một
người vững tin vào giấc mơ của mình phải chịu số phận này.

“Khi còn chăn cừu thì mình rất hạnh
phúc và đem lại niềm vui cho mọi người chung quanh. Người ta mong mình đến và
tiếp đón ân cần. Bây giờ mình buồn nản và bất hạnh. Phải làm sao đây? Mình sẽ
giận và hoài nghi hết mọi người chỉ vì có một kẻ đã lừa gạt mình. Mình sẽ thù
ghết tất cả những kẻ tìm được kho tàng vì mình không tìm được kho tàng của mình.
Và rồi đây mình sẽ ôm rịt lấy chút của cải có được, vì mình quá hèn mọn không
thể chinh phục thế giới.”

Cậu mở bị, xem thử còn những gì.
Biết đâu khi ăn trên tàu còn sót lại chút bánh mì. Nhưng cậu chỉ tìm thấy quyển
sách dày, cái áo khoác và hai viên đá ông già cho. Nhìn hai viên đá cậu thấy
nhẹ cả người. Cậu đã đổi sáu con cừu lấy hai viên đá quý từ cái áo giáp bằng
vàng. Cậu có thể bán lấy tiền mua vé về nước. “Từ nay mình phải khôn hơn”, cậu
tự nhủ rồi nhặt hai viên đá ra khỏi bị để đút túi quần. Đây là một phố cảng và
gã kia nói đúng ở một điểm: cảng lúc nào cũng đầy kẻ cắp. Bây giờ thì cậu chợt
hiểu vì sao người chủ quán nổi giận: ông chỉ muốn nói cho cậu hiểu rằng đừng
nên tin gã kia.

“Mình như mọi người thôi: nhìn thế
giới và thấy theo ý mình muốn chứ không phải như trong thực tế.” Cậu ngắm nghía
hai viên đá, gượng nhẹ sờ, tay cảm nhiệt độ và mặt láng của chúng. Chúng là tất
cả gia tài của cậu. Chỉ cần sờ chúng là cậu thấy lòng thanh thản dần. Chúng gợi
nhớ đến ông già. “Chỉ cần cậu tha thiết muốn thì cả vũ trụ sẽ tác động để cậu
đạt được”, ông già đã nói thế. Cậu suy nghĩ thật lung tung để hiểu ý ông. Cậu
đang đứng giữa một bãi chợ vắng tanh, không tiền, không cừu. Nhưng hai viên đá
rõ ràng là một bằng cớ cậu đã gặp một ông vua mà ông vua này biết về chuyện đời
cậu, biết về khẩu súng của bố cậu và về kinh nghiệm tình dục lần đầu của cậu
nữa.

“Hai viên đá này dùng để dự báo.
Chúng tên là Urim và Thummim.” Cậu nhét đá vào bị và muốn thử một lần xem sao.
Ông già bảo rằng phải đặt cậu hỏi thật rõ ràng vì đá chỉ hữu ích khi ta biết ta
muốn cái gì. Thế là cậu hỏi: ông già còn tiếp tục phù hộ cậu không? Cậu lấy ra
một viên. Câu trả lời là “Có”. “Tôi có tìm được kho tàng không?” cậu hỏi tiếp
rồi lại thò tay vào bị, định lấy ra một viên đá thì cả hai viên đều rơi xuống
đất, qua một lỗ thủng. Cậu không biết bị của mình thủng. Cậu cúi xuống định
nhặt lên. Song khi thấy chúng nằm trên nền đất cậu lại nhớ đến một câu nói khác
của ông già: “Hãy học cách nhận ra dấu hiệu và đi theo nó”. Đây hẳn lại là một
dấu hiệu. Cậu cười nhẹ nhõm rồi nhặt đá lên, nhét vào bị. Cậu sẽ không vá bị;
hai viên đá cứ việc rơi. Cậu hiểu rằng có những điều không nên hỏi để khỏi lẩn
tránh số phận. “Vả lại mình đã muốn là sẽ tự quyết định mà”, cậu nhớ lại. Dẫu
sao hai viên đá cũng đã cho cậu biết rằng ông già vẫn phù hộ cậu, khiến cậu
thêm vững tâm. Cậu lại nhìn quanh bãi chợ vắng tanh, nhưng không còn thấy tuyệt
vọng như lúc nãy nữa. Đây không phải là một thế giới lạ, chỉ mới thôi. Vả lại đó
chính là điều cậu vẫn ước ao: được biết những chân trời mới. Cho dù cậu không
bao giờ tới được Kim Tự Tháp đi nữa thì thế này cũng đã là đi xa hơn bất cứ
người chăn cừu nào cậu quen biết rồi. Chà, nếu họ biết được rằng chỉ cách hai
giờ tàu biển thôi mà có bao nhiêu là điều lạ. Tuy thế giới mới của cậu lúc này
mới chỉ là bãi chợ vắng tanh thôi, nhưng cậu đã được biết lúc chợ đông như thế
nào rồi và sẽ không bao giờ quên. Giờ cậu nhớ đến thanh gươm. Quả đấy là một
giá rất đắt cậu đã phải trả để ngắm nghía nó, nhưng trước kia cậu chưa từng
được thấy thanh kiếm nào đẹp như thế cả. Chợt cậu thấy rằng mình có thể nhìn cả
thế giới hoặc với con mắt của một kẻ khốn khổ bị cướp sạch hoặc của một kẻ
phiêu lưu trên đường đi tìm kho tàng. “Ta là một kẻ phiêu lưu đi tìm kho tàng”,
cậu còn nghĩ như thế trước khi thiếp đi vì mệt.

Báo cáo nội dung xấu