Thiên thần và ác quỷ - Chương 109 - 110 - 111 - 112
Chương 109
Cùng lúc ấy, tại quảng trường St. Peter, những người
lính gác Thụy Sĩ
đang ra sức gào thét để đẩy đám đông lui về phía sau, đến một cự ly an toàn
hơn. Nhưng chẳng tác dụng gì.
Người tập trung quá đông, và sự hiếu kỳ của đám đông
đã hoàn toàn át hẳn những lo lắng cho sự an toàn của bản thân họ. Những màn
hình rộng cao ngất ngưởng của các hãng tin lúc này đang phát đi cảnh chiếc đồng
hồ đếm ngược gắn trên hộp phản vật chất - hình ảnh được truyền đi trực tiếp từ
phòng điều phối an ninh của đội lính gác Thụy Sĩ, theo lệnh của Giáo chủ Thị thần. Rủi
thay, những hình ảnh này không đủ sức khiến cho đám đông tản đi. Chắc hẳn những
người có mặt trên quảng trường cho rằng giọt chất lỏng có vẻ vô thưởng vô phạt
trong cái hộp kia không đáng sợ như những gì người ta thông báo với họ. Vả lại
họ cũng có thể đọc được các chữ số hiện lên trên mặt chiếc đồng hồ đếm ngược -
gần 45 phút nữa mới đến giờ phát nổ. Vẫn còn khối thời gian.
Tuy nhiên, các thành viên của đội lính gác Thụy Sĩ đều nhất trí với
nhau rằng quyết định đầy táo bạo của Giáo chủ Thị thần - cho cả thế giới biết
sự thật, sau đó còn cung cấp những hình ảnh về hành động phản trắc của Illuminati cho các hãng
truyền hình là một động thái rất khôn ngoan. Có lẽ hội Illuminati tưởng rằng như thường lệ, Vatican sẽ hành xử một
cách lặng lẽ và kín đáo trong những giây phút cam go kiểu này. Nhưng không.
Giáo chủ Thị thần Carlo
Ventresca đã tỏ ra là một đối thủ đáng gờm của hội kín đáng ghét này.
Trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Giáo chủ Mortati mỗi lúc một bồn chồn hơn. Đã 11 giờ
15 phút. Nhiều vị Hồng y vẫn tiếp tục cầu nguyện, nhưng một số đã xúm lại bên
cửa thoát hiểm, vẻ bất an. Một số vị thậm chí còn bắt đầu đấm cửa thình thình.
Đang đứng gác bên ngoài cánh cửa nhà nguyện, trung uý Chartrand nghe tiếng đấm
cửa, chẳng biết phải xử sự thế nào.
Anh xem đồng hồ. Đã đến giờ rồi. Đại tá Rocher đã hạ lệnh là phải
có lệnh trực tiếp của ông ấy thì mới được đưa các vị Hồng y ra ngoài. Tiếng đấm
cửa càng lúc càng thúc bách hơn, khiến Chartrand thấy lo lắng. Kề từ khi nhận được cú
điện thoại bí hiểm kia, chỉ huy hành xử khá thất thường.
Thế là Chartrand rút máy bộ đàm ra:
- Thưa đại tá, tôi là Chartrand. Đã quá giờ rồi. Chúng ta mở cửa nhà
nguyện Sistine chứ?
- Nhất quyết không được mở! Tôi đã chỉ thị thế cơ mà?
- Vâng, thưa đại tá, nhưng mà…
- Vị khách của chúng ta sắp đến rồi. Anh cùng vài
người nữa lên gác ở cửa phòng làm việc của Giáo hoàng cho tôi. Không để cho
Giáo chủ Thị thần được đi
bất kỳ đâu.
- Cái gì ạ?
- Nói rõ thế còn thế nào nữa hả, đại uý?
- Báo cáo, không có gì. Tôi xin thi hành ngay.
Trên gác, trong phòng làm việc của Giáo hoàng, Giáo
chủ Thị thần đang ngồi trầm ngâm bên lò sưởi. Xin Chúa hãy ban cho con sức mạnh. Xin
Người hãy ban cho chúng con một phép nhiệm màu. Đưa tay gạt những thanh củi trong lò, vị
thầy tu trẻ tự hỏi lòng không hiểu ngài có thể sống sót qua một đêm thế này
không.
Chương 110
11 giờ 23 phút.
Vittoria đang đứng lên ban công của lâu đài St. Angelo, run
rẩy, ánh mắt nhoà lệ hướng sang phía bên kia thành Rome. Cô muốn được ghì chặt
Robert Langdon trong
vòng tay nhưng không thể. Toàn thân tê dại, cô gái cần thời gian để thích ứng,
để huy động năng lượng dự trữ trong cơ thể. Kẻ đã sát hại cha cô giờ đang nằm
sóng soài tít dưới
kia. Hắn đã chết. Và suýt nữa chính cô cũng trở thành nạn nhân của hắn.
Nhưng khi Langdon vừa chạm vào bờ vai, cô gái thấy một luồng hơi ấm kỳ
diệu lan toả khắp cơ thể, băng giá tiêu tan hết. Vittoria run lên, lập tức cảm thấy sinh lực dâng
đầy trong cơ thể.
Sương mù tan hết, cô gái quay sang nhìn Robert. Trông
anh mệt mỏi quá, ướt sũng,
rã rời, có lẽ anh đã phải khổ sở, vất vả lắm mới cứu được cô.
- Cảm ơn anh… - cô gái thì thầm.
Langdon mỉm cười nhìn cô gái, mệt mỏi, và nhắc Vittoria rằng chính cô
mới là người đã tự giải thoát kịp thời và cứu nguy cho cả hai. Vittoria lau nước mắt vẫn
giàn giụa trên mặt. Giá như hai người có thể đứng ở đây mãi mãi, nhưng họ còn
có biết bao việc phải làm.
- Chúng ta phải ra khỏi chỗ này ngay. - Langdon nói.
Sự chú ý của Vittoria cũng đã chuyển sang một địa điểm khác. Cô
gái đưa mắt nhìn sang toà thánh. Giáo quốc nhỏ bé ấy lúc này sáng trưng dưới
ánh đèn máy quay, trông thật gần. Thật đáng kinh ngạc, quảng trường St. Peter
vẫn chật cứng người! Rõ ràng là đội lính gác Thụy Sĩ đã cố hết sức nhưng cũng chỉ đẩy được đám
đông lùi lại khoảng 50 mét - chưa được một phần ba quảng trường, ngay trước mặt
thánh đường rộng lớn. Đám đông lớn đang vây kín thánh đường, những người ở
ngoài thì chen lấn xô đẩy để vào được gần hơn, còn những người ở trong thì
không thể thoát ra nổi. Họ
đứng gần quá! Vittoria
thầm nghĩ. Thế
thì quá gần!
- Anh sẽ quay lại đó. - Langdon điềm tĩnh nói.
Vittoria quay lại, ngạc nhiên:
- Vào trong thành Vatican ư?
Langdon kể cho cô gái nghe những gì anh biết về nhân vật được
gọi là Người
từ tâm lúc 11 giờ khuya, và về âm mưu của Illuminati. Người đứng đầu hội kín này, một người
đàn ông có tên là Janus,
sẽ đích thân đến đây để sát hại và đóng dấu sắt nung lên người Giáo chủ Thị
thần. Bước cuối cùng trong âm mưu của hội Illuminati.
- Trong toà thánh không ai biết điều đó. - Langdon nói tiếp.
- Không thể nào liên lạc được với họ, còn nhân vật kia
thì sắp đến nơi. Cần phải vào để báo cho đội lính gác biết trước.
- Nhưng làm sao mà vượt qua được đám đông này?
Langdon đầy vẻ tự tin:
- Có cách chứ. Cứ tin anh.
Thêm một lần nữa, Vittoria linh cảm rằng anh chàng chuyên gia sử học
này lại biết điều bí mật nào đó.
- Cho em đi theo.
- Đừng, tại sao lại phải liều mạng cả hai. Trong khi…
- Em cũng phải tìm cách giải tán đám đông kia chứ. Họ
đang gặp nguy…
Đúng lúc ấy, cả toà lâu đài rung chuyển. Có tiếng sấm
rền vang. Rồi một luồng sáng chói loà từ quảng trường St. Peter hắt sang chiếu
thẳng vào mắt họ. Trong đầu Vittoria
chỉ có một cách giải thích duy nhất. Chúa ơi! Giọt phản vật chất phát nổ sớm mất
rồi!
Nhưng thay vì tiếng nổ vang rền, họ nghe thấy tiếng
đám đông reo hò vang dậy. Vittoria
nhìn về phía ánh sáng. Hình như toàn bộ đèn máy quay ở quảng trường đều
đang chĩa thẳng về phía họ. Tất cả mọi người cũng quay lại, miệng hò reo, tay
chỉ trỏ. Tiếng hò reo tiếp tục vang lên. Toàn bộ quảng trường bỗng dưng bao phủ
một bầu không khí hồ hởi đầy
lạc quan.
Langdon không hiểu nổi:
- Cái quái quỷ gì thế nhỉ?
Lại thêm một tiếng sấm rền từ trên trời vọng xuống.
Chiếc phi cơ của Đức Thánh Cha bất ngờ xuất hiện từ
sau đỉnh tháp, tiếng sấm rền cách đám đông chừng 15 mét, ầm ầm, nó lao thẳng
hướng toà thánh. Trong ánh sáng chói loà phát ra từ đèn máy quay, cả toà lâu
đài rung chuyển. Tất cả các ánh đèn đều dõi theo chiếc phi cơ, và chỉ sau chốc
lát, Langdon và Vittoria lại đứng trong
bóng tối.
Nhìn chiếc phi cơ đồ sộ hạ cánh xuống quảng trường St.
Peter, Vittoria chợt
linh cảm rằng thời điểm để hành động đã qua mất rồi. Chiếc máy bay phản lực hạ
cánh xuống khoảng trống ngay sát những bậc thang dẫn lên thánh đường St. Peter,
hất lên một đám bụi khổng lồ.
- Xem nghi lễ đón tiếp nào đây. - Vittoria nói.
Một người trông y như một cái chấm nhỏ trên nền đá cẩm
thạch màu trắng từ toà thánh bước ra, tiến đến bên chiếc phi cơ. Nếu không có
chiếc mũ bê-rê đỏ thì cô gái đã không thể nhận ra ông ta.
- Trải thảm đỏ chào đón người từ tâm đây. Không ai
khác, ngài Rocher.
Langdon đấm mạnh tay xuống hàng lan can trước mặt:
- Cần phải cảnh báo họ ngay lập tức. - Anh rảo bước
quay đi.
Vittoria túm tay Robert.
- Khoan đã nào! - Cô vừa nhìn thấy thêm một chi tiết
nữa, nhưng vẫn chưa dám tin vào mắt mình.
Tay run run, cô gái chỉ về phía chiếc máy bay trực
thăng. Một bóng người nữa xuất hiện trên ván lên xuống… dáng dấp đặc biệt có
một không hai đang di chuyển rất nhanh, dù từ xa cũng không thể nhầm. Trong tư thế ngồi,
người này tăng tốc di chuyển qua khoảng trống một cách nhanh chóng và nhẹ nhàng
đến mức đáng kinh ngạc.
- Một vị vua trên chiếc ngai điện tử.
Đó chính là Maximilian Kohler.
Chương 111
Sự sang trọng trong hành lang Belvedere khiến Kohler thấy mệt mỏi. Chỉ riêng tấm vàng lá
dát trên trần cũng đủ để trang trải cho cả một năm nghiên cứu về bệnh ung thư. Rocher dẫn nhà khoa học
ngồi xe lăn đi theo một con đường dốc dành riêng cho người tàn tật, đi theo
đường vòng để vào cung điện Apostolic.
- Không có thang máy à? - Kohler hỏi.
- Không có điện. - Rocher đưa tay chỉ những cây nến đang cháy đặt rải
rác khắp nơi. - Một phần trong nỗ lực tìm kiếm của chúng tôi đấy.
- Những nỗ lực chắc chắn không đem lại kết quả.
Rocher gật đầu…
Kohler lại chịu thêm một cơn ho nữa. Rất có thể đây sẽ là một
trong những cơn ho cuối cùng trong đời ông ta. Dù sao thì Kohler cũng chẳng muốn
thế chút nào.
Khi hai người lên đến tầng trên cùng và sắp sửa rẽ vào
hành lang dẫn tới phòng làm việc của Giáo hoàng thì bốn người lính gác Thụy Sĩ hớt hải chạy đến:
- Thưa đại tá, ngài đang làm gì vậy? Chúng tôi tưởng
là người này có thông tin về…
- Ông ấy yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với Giáo
chủ Thị thần.
Những người lính lùi lại, vẻ hoài nghi.
- Vào báo với Giáo chủ Thị thần ngay. - Rocher ra lệnh. - Giám
đốc của CERN, ông
Maximilian Kohler đã
có mặt ở đây, và muốn gặp ngài ngay lập tức.
- Tuân lệnh. - Một người lính nhận lệnh, và lập tức
chạy lên trước.
Những người lính còn lại vẫn đứng im. Họ chằm chằm
nhìn Rocher, vẻ
không hài lòng.
- Từ từ đã, thưa chỉ huy. Việc thông báo có khách vào
tiếp kiến Giáo chủ Thị thần là của chúng tôi chứ.
Kohler không thèm dừng lại, ông bấm nút, cho xe ngoặt hẳn
sang một bên, tránh mấy người lính gác.
Mấy người cũng quay phắt lại và chạy theo chiếc xe
lăn.
- Dừng lại đã, thưa ông!
Kohler chẳng ưa gì bọn họ. Thậm chí những người lính gác ưu
tú nhất cũng không tránh khỏi cảm giác thương hại thông thường đối với những kẻ
không may bị tàn tật. Nếu Kohler
là người bình thường thì hẳn sẽ bị bọn họ tấn công ngay lập tức. Đã tàn tật thì còn
được tích sự gì nữa, Kohler
thầm nghĩ. Hay
đúng hơn là người đời vẫn nghĩ thế.
Kohler biết thời gian không còn nhiều, và ông cần phải hoàn
thành sứ mệnh của mình. Rất có thể đêm nay ông sẽ phải chết ở đây nhưng chẳng
có gì đáng kể. Ông sẵn sàng trả giá bằng chính mạng sống của mình. Cả đời ông
đã phải chịu đựng quá nhiều, và một người như Giáo chủ Thị thần Ventresca không được phép
làm hỏng thành quả của ông.
- Thưa ông! - Những người lính chạy vượt lên trước, rồi
đứng thành hàng ngang chắn trước chiếc xe lăn. - Ông phải dừng lại ngay! - Một người lính
rút súng chĩa thẳng vào người Kohler.
Kohler dừng lại.
Rocher bước lên, vẻ hối lỗi:
- Xin lỗi ông Kohler. Chỉ chốc lát thôi ạ. Không ai được phép
vào phòng làm việc của Giáo hoàng mà không thông báo trước.
Nhìn sâu vào mắt viên đại tá, Kohler biết là không còn cách nào khác. Tốt thôi, ông thầm
nghĩ. Chúng ta
cùng đợi vậy.
Như thể những người lính này đã cố tình bắt Kohler phải dừng lại
trước một cái gương lớn choán cả một mảng tường. Nhìn thấy hình ảnh méo mó dị
dạng của mình, Kohler bất
giác lùi lại.
Rồi ngay tức thì, cảm giác căm phẫn dồn nén bao lâu
lại bừng bừng dâng lên, khiến ông thấy tràn đầy sức mạnh đối với kẻ thù của
chính mình. Chính những kẻ
này đã tước
mất của ông sự uy nghiêm của một con người. Chính vì những kẻ này mà cả đời ông không một lần được gần gũi
phụ nữ… và cũng chẳng một lần có thể đứng thẳng dậy để nhận những giải thưởng
được trao tặng. Chân
lý của các người là gì nào? Bằng chứng đâu? Một cuốn sách chỉ toàn những câu
chuyện ngụ ngôn cổ lỗ sĩ ư? Những lời hứa hão về Phép màu nhiệm ư? Trong khi
khoa học đang từng ngày mang lại biết bao điều kỳ diệu!
Kohler nhìn vào đôi mắt lạnh lẽo của chính bản thân mình. Đêm nay ta có thể
chết trong bàn tay của tôn giáo, ông thầm nghĩ. Nhưng đây đâu phải là lần đầu.
Trong thoáng chốc, Kohler lại thấy mình là cậu bé 11 tuổi, nằm trên
giường, trong biệt thự của cha mẹ tại Frankfurt. Tấm đệm trải giường hảo hạng
nhất châu Âu dưới lưng cậu bé ướt sũng mồ hôi. Chú bé Max cảm giác như đang bị thiêu đốt, toàn thân đau như xé. Suốt
hai ngày nay, cha mẹ vẫn quỳ bên giường và ra sức cầu nguyện. Trong góc phòng
là ba người thầy thuốc giỏi nhất thành phố Frankfurt.
- Tôi khẩn thiết yêu cầu các vị suy nghĩ cho kỹ càng!
- Một người lên tiếng. - Trông thằng bé kìa! Sốt cao thế kia cơ mà. Nó đang
phải chịu đau đấy. Nguy cấp lắm rồi!
Chưa cần mẹ phải lên tiếng Max đã biết bà sẽ nói gì.
- Chúa sẽ che chở cho thằng bé!
Đúng thế, Max thầm nghĩ. Chúa
sẽ che chở cho mình. Niềm tin mạnh mẽ của mẹ khiến chú thấy vững tâm. Chúa sẽ che chở
cho mình.
Một giờ sau, Max cảm thấy như toàn thân đang bị nghiền nát,
không còn đủ sức để khóc lóc, để hít thở nữa.
- Con ông bà bị đau quá. - Một vị thầy thuốc nói - Hãy
để tôi làm dịu cơn đau cho thằng bé. Chỉ cần tiêm một mũi là sẽ…
- Không cần! - Thậm chí chẳng thèm ngước mắt lên, cha
của Kohler gạt
phắt, rồi lại tiếp tục cầu nguyện.
- Cha ơi, con xin cha! - Max muốn thét lên, - cha hãy đồng ý đi!
Nhưng tiếng kêu của cậu, bị một cơn ho dữ dội át đi.
Một giờ sau, cơn đau càng tồi tệ hơn.
- Con trai ông bà có thể bị bại liệt đấy. - Một người
thầy thuốc tỏ ra cáu kỉnh. - Thậm chí còn mất mạng ấy chứ! Thuốc thì có sẵn đây
rồi!
Frau và Herr
Kohler nhất định không đồng ý. Họ không tin vào y học. Các bác sĩ là ai
mà dám can thiệp vào công việc của Chúa cơ chứ? Và hai người cứ ra sức cầu nguyện.
Chúa đã ban cho họ thằng bé, hà cớ gì lại cướp nó đi cơ chứ? Mẹ của Max thì thầm vào tai chú,
khuyên chú hãy can đảm. Bà nói rằng Người đang thử thách Max… giống như đã thử
thách Abraham trong kinh thánh… để xem đức tin của cậu có mạnh mẽ không.
Max cố giữ niềm tin, nhưng cơn đau mỗi lúc một dữ dội
thêm.
- Tôi không thể đứng nhìn cảnh này được nữa! - Cuối
cùng một bác sĩ vừa nói vừa chạy khỏi phòng.
Đến bình minh, Max gần như đã bất tỉnh, toàn thân đau đớn.
Chúa Giê-su đâu rồi? Chú
bé tự hỏi. Chúa
không rủ lòng thương đối với mình sao? Dường như sự sống đang từ từ rút khỏi cơ
thể bé nhỏ của cậu.
Mẹ đã ngủ thiếp đi, tay vẫn nắm chặt bàn tay cậu bé.
Còn cha thì đứng bên cửa sổ, mắt trân trân nhìn lên trời, như thể đã bị thôi
miên. Cha vẫn đang đọc kinh cầu nguyện.
Max thấy một bóng người tiến lại gần. Có phải là thiên
thần không? Cậu bé gần như không còn nhìn thấy gì nữa, vì hai mắt đã sưng húp
lên. Tai chú nghe thấy những lời thì thầm, của người, không phải của thiên
thần. Giọng của một vị thầy thuốc… người đã có mặt trong phòng suốt hai ngày
nay, đã ra sức thuyết phục cha mẹ cho Max dùng loại thuốc mới nhập về từ Anh quốc.
- Nếu không làm thế này thì ta sẽ không bao giờ có thể
tha thứ cho bản thân mình. - Người thầy thuốc nói khẽ, rồi nhẹ nhàng nhấc cánh tay
gầy guộc của Max. -
Đáng ra ta phải làm thế này từ lâu rồi.
Max cảm thấy một mũi kim xuyên vào da thịt - chẳng thấm
tháp vào đâu so với những đau đớn khủng khiếp chú đang phải trải qua.
Rồi vị thầy thuốc gói ghém dụng cụ. Trước khi ra về, ông còn đặt một bàn
tay lên trán cậu bé.
- Liều thuốc này sẽ cứu được mạng sống của cháu. Ta
tin vào sức mạnh của y học.
Chỉ mấy phút sau, Max cảm thấy một luồng hơi ấm kỳ diệu chạy khắp
các huyết mạch, xoa dịu cảm giác đau đớn. Chú bé ngủ thiếp đi, giấc ngủ đầu
tiên sau mấy ngày vật vã.
Khi Kohler
dứt cơn sốt, cha mẹ sung sướng khẳng định rằng đó chính là phép màu
nhiệm của Chúa, để rồi lại phải thất vọng khi nhận ra cậu bé đã trở thành tàn
tật. Kohler được
đặt lên xe lăn, đưa đến nhà thờ.
- Nhờ có phép màu của Chúa nên cậu bé này mới có thể
vượt qua được cái chết. - Linh mục nói.
Max chỉ lắng nghe, không nói gì.
- Nhưng con của chúng con không đi lại được nữa rồi! -
Frau Kohler chảy
nước mắt nói.
Linh mục buồn bã gật đầu đáp:
- Phải. Có lẽ Người đã trừng phạt thằng bé này vì
thiếu đức tin.
- Thưa ông Kohler. - Người lính gác ban nãy chạy vượt lên đã quay lại. - Giáo chủ Thị thần
đã đồng ý tiếp ông.
Miệng làu bàu, Kohler lập tức di chuyển dọc hành lang.
- Ngài tỏ ra ngạc nhiên về cuộc viếng thăm của ông. -
Người lính nói.
- Rõ rồi. - Kohler đáp. - Tôi muốn được gặp riêng ngài.
- Không được đâu. Người lính gác trả lời. - Không ai
được phép…
- Trung uý! - Rocher lập tức ngắt lời - Cuộc gặp sẽ như ý ông Kohler.
Người lính tròn mắt nhìn chỉ huy, vẻ đầy hoài nghi.
Trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng, Rocher đồng ý cho những
người lính gác làm thủ tục an ninh trước khi Kohler vào trong phòng. Thiết bị dò kim loại trên
tay họ gần như bị vô hiệu hoá hoàn toàn bởi những thiết bị điện tử gắn nhằng nhịt trên xe lăn của Kohler. Những người lính
cũng bật máy lên, nhưng vì thương hại thân hình què quặt của ông nên chỉ rà
soát chiếu lệ.
Họ không phát hiện được khẩu súng lục giấu dưới ghế
ngồi, cũng chẳng tìm thấy vật kia… Thứ sẽ đóng dấu chấm hết một cách hoàn hảo
cho chuỗi sự kiện dày đặc trong buổi tối nay.
Khi Kohler
vào phòng, Giáo chú Thị thần đang quỳ bên lò sưởi để cầu nguyện. Ngài
không quay sang nhìn ông.
- Ông Kohler đấy à? - Giáo chủ Thị thần nói - Ông đến đây để biến ta
thành một con chiên tử vì đạo phải không?
Chương 112
Trong lúc ấy, con đường hẻm chật hẹp mang tên Il Passetto vẫn đang trải
dài ra trước mặt Langdon và
Vittoria khi cả hai
đang hối hả lao về phía toà thánh. Cây đuốc trên tay Langdon chỉ có thể toả sáng một cách yếu
ớt. Lối đi rất thấp và hẹp.
Không khí âm u ẩm ướt. Langdon cứ thế lao thẳng vào vùng tối trước mặt,
còn Vittoria thì
theo sát gót anh.
Ra khỏi lâu đài St. Angelo, con đường bắt đầu hướng
lên cao, hai người đi qua tầng hầm của một thành luỹ bằng đá na ná giống một
cái cống dẫn nước thời La Mã. Sau đó, con đường lại thoải ra, bắt đầu dẫn họ
vào bên trong toà thánh.
Vừa chạy, đầu Langdon vừa ong lên vì biết bao khuôn mặt cứ hiện
ra, xoay đảo: Kohler,
Janus, tên sát thủ,
Rocher… lại còn
biểu tượng thứ sáu nữa chứ! Chắc
ông bạn chưa bao giờ nghe nhắc tới biểu tượng thứ sáu này chứ gì? Tên sát thủ đã nói
với anh thế. Đó
chính là biểu tượng tuyệt hảo nhất. Rõ ràng là Langdon chưa bao giờ nghe nói đến nó. Thậm chí cả
trong những tài liệu về các âm mưu bí mật của Illuminati, anh cũng chưa bao giờ đọc được bất kỳ
thông tin gì về nó. Không hiểu là thật hay chỉ là huyễn hoặc, nhưng những lời
đồn về một nén vàng khối hoàn hảo và viên kim cương Illuminati không một vết xước thì có tồn
tại, còn về biểu tượng thứ sáu thì chưa một tài liệu nào nhắc đến.
- Kohler
không thể là Janus!
- Vittoria vừa chạy
vừa tuyên bố. -Không thể có chuyện đó!
"Không thể" là từ mà tối nay Langdon đã tạm thời loại
khỏi vốn từ vựng của mình.
- Chẳng biết nữa. - Langdon cũng vừa chạy vừa đáp - Kohler vốn rất ghét tôn
giáo, và ảnh hưởng của ông ta cũng rất lớn.
- Cuộc khủng hoảng này khiến cho CERN trở thành quỷ dữ
trong con mắt của công chúng. Mà Max thì không đời nào làm bất kỳ điều gì có thể gây tổn hại đến
danh tiếng của CERN!
Ở một khía cạnh nào đó thì đúng là tối nay danh tiếng
của CERN đã bị tổn
hại nặng nề, tất cả là vì Illuminati
cứ nhất mực muốn cho câu chuyện trở nên ầm ỹ. Tuy nhiên, cũng cần phải cân nhắc xem thực ra CERN đã bị tổn
hại đến mức độ nào. Sự chỉ trích của nhà thờ vốn chẳng có gì là mới lạ đối với CERN. Càng nghĩ, Langdon càng phải thừa
nhận rằng thật ra sự kiện này có thể đã mang lại lợi ích rất to lớn cho CERN. Đây đúng là một màn
quảng cáo độc chiêu, và trong đêm nay, phản vật chất chính là một món hời cực
lớn. Cả thế giới đang nói về nó.
- Em còn nhớ người sáng lập CERN, ông P. T. Barnum đã nói gì không? - Langdon vừa chạy vừa
ngoái đầu lại hỏi. - "Tôi không cần biết các vị nói gì về tôi, điều quan
trọng là lúc này cả thế giới đã biết đến tên tuổi của tôi!" Anh cá là
lúc này khối người đang xếp hàng chờ mua bản quyền của công nghệ phản vật chất
rồi đấy. Nhất là sau khi được tận mắt chứng kiến sức mạnh của nó vào lúc nửa
đêm hôm nay.
- Không hợp lý. - Vittoria đáp. - Thể hiện sức mạnh huỷ diệt kiểu
này đâu phải là cách thích hợp cho việc công bố một phát kiến có tính đột phá
trong khoa học! Việc
này sẽ rất có hại cho phản vật chất đấy!
Cây đuốc trên tay Langdon đang lụi dần.
- Nhỡ đâu mọi việc đơn giản hơn chúng ta tưởng. Nhỡ
đâu Kohler lầm
tưởng rằng Vatican sẽ
giữ kín câu chuyện về hộp phản vật chất, rằng họ không muốn công khai mọi
chuyện, vì làm thế có nghĩa là khẳng định với công chúng rằng Illuminati quả thực tồn
tại và có một sức mạnh đáng gờm. Kohler đã lầm tưởng rằng Vatican sẽ giữ thói quen im lặng như mọi khi,
nhưng không ngờ Giáo chủ Thị thần đã không làm thế.
Vẫn tiếp tục sải bước, Vittoria không nói gì.
Langdon chợt nghĩ ra.
- Đúng rồi! Kohler không thể ngờ Giáo chủ Thị thần sẽ phản ứng theo kiểu
này. Ngài đã phá vỡ thông lệ của toà thánh, và nói toàn bộ sự thật cho công
chúng được biết. Vì Chúa, Ngài lại còn cho truyền hình ảnh cái hộp phản vật
chất trên ti-vi. Đó là một nước cờ tuyệt vời, và Kohler không thể ngờ được. Illuminati bị một vố gậy ông đập lưng ông, đã thế toàn bộ sự
việc lại còn khiến cho Giáo chủ Thị thần bộc lộ tố chất tiềm ẩn của một vị
thánh trong bản thân ngài. Thế là Kohler đến tận nơi để sát hại ngài!
- Max
là đồ đểu giả. - Vittoria
tuyên bố, - nhưng không thể là kẻ giết người. Và ông ta không thể nào
dính líu vào âm mưu sát hại cha em.
Câu trả lời của Kohler vang lên rành rọt trong tâm trí Langdon. Nhiều nhà khoa học khác ở CERN cũng đồng ý rằng Leonardo là một thành
phần nguy hiểm. Kết tội khoa học và Chúa trời là điều cấm kỵ về mặt khoa học.
- Biết đâu mãi gần đây Kohler mới biết sự thật về phản vật chất và không
thích những hàm ý về tôn giáo của dự án này.
- Vì thế mà ông ấy cho người giết cha của em à? Lố
bịch! Mà Kohler cũng
không thể nào biết đến dự án của cha con em.
- Biết đâu trong lúc em không có nhà thì chính cha em
đã phá vỡ quy ước và đến xin lời khuyên của Kohler. Chính em đã kể rằng ông rất băn khoăn về ý
nghĩa đạo đức của phát kiến vĩ đại này.
- Xin lời khuyên của Kohler ư? - Vittoria khịt mũi. - Em không tin có chuyện đó!
Đường hầm bắt đầu chạy chếch về hướng Tây. Họ phải
ráng sức chạy thật nhanh, vì cây đuốc đang lụi dần đi. Không hiểu sau khi lửa
tắt thì mọi thứ sẽ thế nào. Tối thui.
- Đã thế sáng nay Kohler còn mất công gọi điện cho anh nhờ giúp đỡ
làm gì? - Vittoria nói
tiếp, - nếu chính ông ta là người chủ mưu?
Langdon đã nghĩ đến điều này.
- Gọi cho anh là cách để ông ta che giấu hành động của
mình. Ông ta không muốn bị buộc tội là tỏ ra bàng quan không hành động gì hết.
Có thể là ông ta không ngờ chúng ta lại tiến được xa đến thế này.
Nghĩ đến khả năng mình bị lợi dụng một cách chủ tâm
khiến Langdon cảm
thấy đôi chút hãnh diện. Sự góp mặt của anh trong màn kịch này đã khiến cho
thanh danh của Illuminati được
tôn thêm đáng kể. Suốt cả buổi tối nay, bao nhiêu đài truyền hình thi nhau kể
ra những công trình nghiên cứu và các sách xuất bản của cá nhân anh. Kể cũng
buồn cười, sự hiện diện của một vị giáo sư đại học Harvard tại thành Vatican đã khiến cho những người hay hoài
nghi cũng buộc phải tin rằng Illuminati
không chỉ là một cái tên trong lịch sử, một sản phẩm của những bộ óc
hoang tưởng, mà là một thế lực thực sự tồn tại trong cuộc đời thật, một thế lực
không thể xem nhẹ.
- Anh chàng phóng viên của đài BBC tin rằng CERN chính là sào huyệt thời hiện đại của Illuminati. - Langdon bảo Vittoria.
- Sao? - Vittoria vấp ngã. Cô gái lồm cồm bò dậy rồi chạy theo anh. - Anh ta nói thế
thật sao?
- Trên làn sóng điện, anh ta so sánh CERN với đại bản doanh
của hội Tam Điểm - một tổ chức đã từ lâu chứa hội Illuminati trong nội bộ mà không hề biết.
- Chúa ơi, thế này thì CERN sụp đổ đến nơi rồi!
Langdon không dám chắc như vậy. Nhưng dù sao thì giả thuyết đó
cũng không còn quá hoang tưởng nữa. CERN chính là thiên đường của khoa học. Nó đã trở thành ngôi nhà
chung của các nhà khoa học từ hơn một chục quốc gia trên thế giới, với những
nguồn tài trợ bất tận từ khu vực tư nhân. Mà Maximilian Kohler lại là người giữ chiếc ghế giám đốc.
Kohler chính là Janus.
- Nếu Kohler
không liên can thì ông ta đến đây để làm gì? Langdon nói với vẻ thách thức. - Rất có thể
chỉ để giúp một tay. Đề góp phần giải quyết khủng hoảng. Rất có thể ông ta
chính là người Từ
tâm thật sự! Biết đâu ông ấy đã biết sự thật về dự án phản vật chất và muốn
chia sẻ thông tin…
- Tên sát thủ nói rằng ông ta đến để đóng dấu sắt nung
lên người Giáo chủ Thị thần.
- Quá kỳ quặc! Đó sẽ là một hành động tự sát. Kohler không thể toàn
mạng ra khỏi toà thánh được!
Langdon cân nhắc. Cũng có thể đây chính là mấu chốt của vấn
đề.
Phía trước lờ mờ hiện ra một cánh cửa bằng thép chặn
ngang lối đi xuống đường hầm. Tim Langdon gần như ngừng đập. Tuy nhiên, khi đến gần, hai người
phát hiện ra khoá cửa đã được mở.
Cổng để ngỏ.
Langdon thở phào nhẹ nhõm. Anh đã phán đoán chính xác, đường hầm cổ xưa
này vẫn còn được sử dụng. Cho đến tận gần đây, đặc biệt là trong ngày hôm nay.
Lúc này anh gần như khẳng định chắc chắn rằng trước đó bốn vị Hồng y Giáo chủ
đã bị đưa ra ngoài bằng lối này.
Họ tiếp tục chạy. Tiếng huyên náo trên quảng trường
St. Peter vang vào đến tận đây. Họ đã đến rất gần nơi đó.
Lại có cánh cửa thứ hai, nặng hơn cái trước. Khoá cũng
đã được mở sẵn. Lúc này tiếng ầm ỹ trên quảng trường St. Peter chỉ còn vọng vào một cách yếu ớt, Langdon đoán chừng họ đã
vượt qua bức tường bao quanh toà thánh. Không hiểu con đường này sẽ dẫn đến địa
điểm nào trong thành Vatican. Đến
vườn chăng? Hay vào trong Đại thánh đường? Hay đến tận phòng của Đức Thánh Cha?
Thế rồi, bất thình lình, lối đi ngầm chấm dứt.
Hai cánh cửa chặn trước mặt Langdon và Vittoria trông chẳng khác gì một bức tường thép
dày đặc những đinh tán. Trước khi ngọn đuốc tắt ngấm, Langdon còn kịp nhận thấy đây là loại cửa
cực kỳ chắc chắn - không có tay cầm, không quả đấm, không lỗ tra chìa khoá,
không bản lề. Không cách gì mở ra được. Anh cảm thấy hốt hoảng. Theo cách nói
của giới kiến trúc sư thì đây là loại cửa senza chiave - cửa mở một chiều, chỉ
có thể mở được tử một bên - bên kia. Hi vọng của Langdon tắt ngấm, cùng lúc với ngọn đuốc trên tay
anh.
Langdon giơ tay nhìn đồng hồ. Chú chuột Mickey vẫn đang sáng lấp
loáng.
11 giờ 29 phút.
Gào lên đầy bực tức, Langdon quăng cây đuốc, và bắt đầu đấm thình thình
vào cánh cửa.

