Chai thời gian - Chương 17 - 18
Chương 17
Trong chuyến đi
Chiangmai, mẹ dường như là người hạnh phúc nhất. Đã lâu rồi chúng tôi không
trông thấy mẹ hào hứng hay nghe thấy mẹ cười sảng khoái như vậy. Dù tôi và Ning
thường nói xấu sau lưng mẹ, rằng bà cư xử như đang đi nghỉ trăng mật với bác
Amorn, hai anh em vẫn phải công nhận rằng sự ngọt ngào ấy đem lại cho mẹ một
nguồn sinh khí mới sau những năm tháng mòn mỏi chịu đựng.
“Mẹ và bác Amorn
đang bàn sau khi về đến Bangkok, mình sẽ tìm chỗ mở một hàng ăn,” mẹ nói với
tôi và Ning vào một tối nọ, khi chúng tôi đang dùng bữa tại một quán vỉa hè
trên đường tới thác Huay Kaeo và bác Amorn đang ngồi im lặng hút xì gà.
Dù tâm trạng mẹ
đang vui vẻ hơn thường lệ, chúng tôi vẫn biết tốt nhất không nên phản đối hay
tranh cãi với bà.
“Mẹ định bán
loại đồ ăn gì ạ?” Ning điềm tĩnh hỏi, nhằm chiều lòng mẹ nhiều hơn là vì tò mò.
“Thức ăn Thái
bình thường thôi, đồ chiên và cà ri, đại loại thế, bán buổi trưa cho những
người đi làm, có khi cả tối nữa.”
“Con thấy cũng
được.” Tôi gật gù. “Nhưng mẹ lấy vốn đâu ra?”
Mẹ lại ngưng một
lúc, rồi khẽ đáp: “Mẹ nghĩ mẹ sẽ bán nhà. Ít nhất cũng đủ tiền đặt cọc cho cửa
hàng.”
Tôi nhìn Ning.
Cả hai đứa đều biết là bố mẹ tôi giúp nhau đi lên từ tay trắng, tích góp mãi
mới đủ xây căn nhà bằng chính sức mình, và đó là thứ duy nhất bố để lại cho
chúng tôi. Dù ở nơi đó không có hạnh phúc và hơi ấm, chúng tôi không khỏi cảm
thấy đau lòng trước viễn cảnh sẽ mất nó.
“Các con biết đấy…”
Mẹ nhìn chúng tôi như thể biết chúng tôi nghĩ gì. “Nhà nào thì cũng thế thôi
miễn là chúng ta giúp nhau biến nó thành một mái ấm.”
Trong suốt cuộc
nói chuyện, bác Amorn ngồi yên nghe chúng tôi nói. Thỉnh thoảng, bác lại cố
tình rít tẩu thuốc. Đôi mắt hẹp sau cặp kính mỏng không biểu lộ một chút cảm
xúc.
Cuối cùng, mẹ
tôi cũng bán nhà và thuê một cửa hàng ba tầng trên đường New Pheitburee để mở
quán ăn như mẹ muốn. Sau này tôi và Ning mới biết là bố đã nhượng quyền sở hữu
căn nhà cho mẹ mấy ngày trước khi mẹ rao bán nó, để đổi lại việc mẹ chịu ký đơn
ly dị, cũng có nghĩa là, ngoài việc mất ngôi nhà, chúng tôi còn mất luôn hy
vọng là có ngày bố sẽ quay về.
Mẹ đặt tên cửa
hàng là “Chuleephorn” theo họ của mình. Bác Amorn thuê thợ tân trang lại cửa
hàng cũ, biến nó thành một nơi đáng để dừng chân dùng bữa. Mẹ giao cho một
trong các chị em họ của bà, bác Ngop, người đã trông tôi và Ning khi nhỏ, phụ
trách nhà bếp. Mẹ cũng thuê vài thanh niên vùng Đông Bắc làm phụ bếp và mấy
người họ hàng trẻ của bạn bè làm bồi bàn, còn bà thì đứng quầy thu ngân.
Ngay từ đầu quán
đã làm ăn rất khá. Lúc tôi và Ning đi học về, chúng tôi nhanh nhanh làm bài tập
rồi ba chân bốn cẳng xuống phụ bê thức ăn giúp bác Ngop, cốt để mẹ đỡ kêu.
Thỉnh thoảng, khi tâm trạng bác Ngop không được tốt, bác sẽ la bọn tôi, bảo bọn
tôi làm vướng chân khiến bác không làm được việc.
Còn bác Amorn,
mỗi khi ở lại qua đêm, bác ấy sẽ ngồi ở một chiếc bàn nhỏ trong góc cửa hàng,
nhấp từng ngụm bia nhẹ và hút tẩu thuốc, lặng lẽ trầm tư về những tiến bộ mà mình
đem đến mãi tới giờ đóng cửa, và mẹ thường phải đẩy bác đi vì bác đang giữ chân
nhân viên lại trong khi đáng lẽ ra họ đã được về.
Bác Ngop là họ
hàng duy nhất thân thiết với chúng tôi. Từ ngày anh em tôi còn bé, mẹ đã luôn
đối xử với bác nửa như với họ hàng, nửa như người ở. Bác Ngop là người duy nhất
trong mấy anh chị em nhà bác không đỗ đạt và điều ấy khiến bác rất tự ti vì
nghĩ mình dốt nát hơn người nhà. Bác lớn hơn mẹ tôi bảy tám tuổi gì đó và từng
chăm sóc mẹ khi mẹ còn nhỏ. Vậy nên ngay sau khi sinh tôi, mẹ nhờ bác lên chăm
tôi, và hơn một năm sau thì chăm cả Ning nữa. Bác Ngop ác khẩu và đôi lúc đãng
trí, nhưng ở bác có cái gì đó khiến chúng tôi yêu mến và rất thương bác, đặc
biệt là với hoàn cảnh của bác khi đã vào tuổi xế chiều và những điều ấy còn ám
ảnh tôi đến tận bây giờ.
Bác thích mặc
những chiếc áo cánh rộng, không tay để bộ ngực nặng nề được thoải mái. Tôi nhớ
khi còn nhỏ, chúng tôi nằm cạnh bác nghịch ti cho tới khi thiếp đi. Hồi ấy, bác
hay kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện cổ tích đơn giản như “Cô bé quàng
khăn đỏ” hay “Cô bé Lọ Lem”, và chúng tôi mê mẩn lắng nghe. Ning cười bò ra sàn
mỗi khi bác giả cái giọng khàn khàn của con sói gian ác để trả lời cô bé quàng
khăn đỏ tại sao tai bà dài thế và răng bà to thế. Nhưng khi chúng tôi lớn dần
lên, những câu chuyện cổ tích bác thường kể không còn níu giữ được tâm trí
chúng tôi nữa. Thay vào đó, tôi và Ning bị thu hút bởi những thứ xung quanh mà
chúng tôi lấy làm thú vị hơn, và bác Ngop tội nghiệp bị bỏ lại một mình ở cái
xó xỉnh tối tăm của bác trong căn nhà.
Dù tỏ ra rất
kính trọng mẹ nhưng thi thoảng bác cũng phản đối mẹ vì dù gì bác cũng lớn tuổi
hơn mẹ và từng là người chăm lo cho mẹ. Thường thì khi bị mẹ la mắng hay trút
bực tức, bác chỉ nín nhịn như một người biết thân biết phận. Nhưng có những khi
bác nói lại mẹ cho đến lúc tím tái cả mặt mũi rồi bác vùng vằng bỏ đi, giam
mình trong phòng suốt cả ngày, không chuyện trò với ai hết – và trong những lúc
như thế mẹ có trách nhiệm phải đi xoa dịu cho bác nguôi giận. Mẹ sẽ đến gần bác
giả bộ đang làm gì hay nhặt thứ gì rồi lầm bầm một mình thật to: “Chà, không có
chị Ngop yêu quý ở đây, mình chẳng biết mình sẽ làm được gì nữa,” hoặc mẹ sẽ
nhắc đến chuyện ngày xưa, kiểu như “Chuyện này làm mình nhớ hồi hai chị em mình
còn nhỏ…” Mẹ sẽ nhấn giọng từ “hai chị em mình” để nhấn mạnh tuổi ấu thơ gắn bó
và mối gắn kết cả đời của hai người.
Có hai thứ mà
bác Ngop yêu thích: đó là phim truyền hình nhiều tập và phim Ấn Độ. Vài tuần
một lần, mẹ lại nịnh bác bằng cách cho bác tiền đi xem phim Ấn Độ. Bác Ngop
sung sướng ăn vận thật đẹp rồi đưa tôi và Ning đến rạp chiếu phim trên một
chiếc xe ba bánh. Lúc đầu chúng tôi cũng thích thú y như bác, nhưng sau vài bữa
tôi đã luôn ngủ gật vì chán những cốt truyện cường điệu quá, kiểu như bố và con
trai (hoặc chồng và vợ) lên những chuyến tàu khác nhau rồi gặp nhau, chia tay
rồi lại gặp nhau rồi kết thúc trong một phiên tòa mà chính đứa con sẽ là luật
sư hoặc quan tòa, còn người cha hóa ra chính là kẻ xấu, vân vân – một phim Ấn
Độ điển hình. Câu chuyện có thể rất dài vì có những chuyến tàu và những cuộc
tranh cãi trên toa. Nhưng bác Ngop thì vẫn mải mê xem và khóc theo phim.
Chuyện đời bác
là một câu chuyện rất buồn, và tôi hoàn toàn không hiểu tại sao con người lại
sinh ra có số phận khác nhau đến vậy, người thì thành công, người thì như bác
Ngop cả đời chỉ là thua thiệt và thất vọng.
Bác rời khỏi nhà
chúng tôi lần đầu khi tôi tám tuổi còn Ning bảy tuổi. Thời ấy, chúng tôi được
xe buýt của trường đưa đi đón về, và sáng nào bác cũng dắt tay chúng tôi ra
đường lớn và đứng đó đón chúng tôi mỗi chiều.
Hình như cái
ngày xui xẻo đó là một ngày thứ Sáu. Xe buýt của trường bị hỏng và đến lúc sửa
xong thì đã muộn lắm rồi. Đến nhập nhoạng chúng tôi mới đi về nơi đầu đường.
Không thấy bác Ngop đâu nên hai anh em tự đi về nhà. Thời ấy hai bên đường chỉ
có vài ngôi nhà. Hầu như nhà nào cũng có hàng rào thép gai bao quanh và trồng
đủ loại dây leo để trang trí. Có một thời gian cây hoa đậu biếc leo quanh một
hàng rào và Ning bị màu tím biếc của những bông hoa hút hồn. Gần như chiều nào
nó cũng bắt bác Ngop đi qua những lùm cỏ hái những bông hoa tím kia cho nó và
bác Ngop luôn vui vẻ làm theo.
Tối đó, khi Ning
đi qua hàng rào có dây đậu biếc, nó dừng lại không đi nữa. “Em muốn hoa đậu
biếc. Hái cho em đi anh Nat!”
“Không phải bây
giờ. Tối rồi. Mai anh hái cho.”
“Nhưng em muốn
bây giờ cơ!” Ning nằng nặc đòi, trông nó đã sẵn sàng lăn ra ăn vạ.
“Được rồi, được
rồi, anh sẽ hái cho em.” Để chiều lòng đứa em gái nhỏ, tôi đi qua mấy lùm cỏ,
thấy hơi run. Mấy bông hoa Ning muốn ở cao quá, tôi phải kiễng chân lên. Ngay
lúc tôi tóm được nắm hoa, một lũ kiến lửa nhào vào tôi, đốt lia lịa làm tôi
khua tay như điên. Thế là đủ khiến tôi lộn nhào và dây thép gai cắm phập vào
tay lẫn đầu gối. máu túa ra tức thì. Ning khóc ré lên. Dựa vào nó, tôi đau đớn
nhảy lò cò về nhà.
Mẹ nổi đóa lên
với bác Ngop, đổ cho bác là vô trách nhiệm làm tôi bị thương dù bác đã cố giải
thích là bác phải về nhà trông chừng nồi cơm và đang định ra đón chúng tôi lần
nữa. Mẹ lại càng điên khi bố về bảo tôi phải đi tiêm phòng uốn ván, vậy là mẹ
trút cả lên đầu bác Ngop lúc này đang khóa mình trong phòng. Khi chúng tôi từ
phòng khám về, bác Ngop đã dọn hết đồ đạc bỏ đi. Sau đấy hàng năm trời chúng
tôi mới nghe được tin của bác và bác mới bắt đầu thỉnh thoảng tới thăm tôi cùng
Ning.
Một tối, Jom đến
cửa hàng gặp tôi. Chị bận quần bò bạc phếch và áo sơ mi cũ rộng thùng thình như
thể chẳng quan tâm gì đến ngoại hình của mình.
“Làn gió nào
mang chị tới đây vậy?” Tôi chào lúc thấy chị đang đứng lúng túng trước cửa
hàng.
“Chỉ vì chị muốn
gặp cậu thôi,” Jom nói rồi đi sượt qua tôi vào cửa hàng. Bóng chị đổ trên sàn
cho tôi thấy chị đã cao thêm lên và sở hữu mọi đường cong của một người phụ nữ
trưởng thành, và tôi lại thấp hơn nữa so với chị.
“Ngồi kia đi.”
Tôi chỉ vào cái ghế bên cửa sổ, có một tấm rèm dày che nửa dưới cửa để người
ngoài không nhìn vào trong được. “Chị dùng gì?”
“Gì cũng được,”
Jom ngồi xuống. “Hôm nay mẹ với em gái cậu không ở đây à?”
“Hai người ra
ngoài rồi. Nhưng sẽ về sớm thôi,” tôi đáp rồi ra hiệu cho phục vụ và gọi một ly
nước cam cho chị. “Bố chị đưa chị đến đây hả?” Tôi khẽ hỏi.
“Không,” chị lắc
đầu. “Chị đi taxi.”
“Sao lại thế?”
Tôi kinh ngạc tròn mắt nhìn chị. “Có chuyện gì phải không?”
“Ừ.” Chị gật đầu
rồi cúi xuống uống nước cam qua chiếc ống hút. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ánh
buồn trong đôi mắt đẹp của chị và vẻ sầu thảm trên khuôn mặt chị.
“Có chuyện gì
phải không?” Tôi lại hỏi.
“Béo này, lần
đầu biết bố mình có người đàn bà khác, cậu cảm thấy thế nào?”
“Chẳng biết
nữa.” Tôi lắc đầu. “Thất vọng, xót xa, sốc, và trên hết, căm ghét người đàn bà
đó, nhưng sao chị hỏi thế? Chẳng lẽ…?”
“Ừ.” Jom gật
đầu. Ánh mắt chị gợi tôi nghĩ tới Ning, mẹ và bản thân mình trong gương. “Bố
chị có người đàn bà khác.”
Tôi ngồi ngay
đơ, không tin nổi vào tai mình. Tôi nghĩ về ngày tôi đến chơi nhà chị lúc tôi
còn ở với bố, về cách bố mẹ chị trêu chọc nhau xiết bao âu yếm, về vẻ yêu
thương tận tụy tràn đầy trong đôi mắt mẹ chị khi bà nhìn chồng mình. “Mẹ chị
đón nhận chuyện này thế nào?” Tôi thì thầm hỏi.
“Mẹ chị khóc
suốt ngày…” Giọng chị chùng hẳn xuống. “Chị sợ lắm, Béo ạ, chị sợ mẹ chị không
chịu nổi.”
Hôm đó, Jom ở
cửa hàng cho đến khi bên ngoài đã tối mịt, đôi lúc ngồi đó bơ phờ ủ rũ, rồi lại
nói không ngừng về bất cứ thứ gì như thể cố quên đi những gì đang xảy đến với
nhà mình. Tôi không rời mắt khỏi chị, lòng đầy thương cảm. Chị cười to mỗi lúc
nói gì buồn cười, nhưng tiếng cười như chực vỡ và đôi mắt khô khốc. Tôi hiểu
chị đang bị giày vò đến chừng nào và càng khốn khổ hơn khi phải cố che giấu nó.
Mẹ và Ning về
trước tám giờ ít phút. Mẹ ngạc nhiên khi thấy Jom trong cửa hàng nhưng cũng
không nói gì. Mẹ chỉ chào lại Jom rồi dắt tay Ning ra quầy thu ngân, xem qua
đống hóa đơn tôi xuất khi mẹ đi vắng, rồi ngồi yên ở quầy thu ngân mà không để
ý gì đến tôi và Jom nữa.
“Chị phải đi
đây.” Jom vỗ nhẹ tay tôi khi con chim cúc cu bật ra từ đồng hồ treo tường,
thông báo giờ đã là tám rưỡi rồi.
“Để em đưa chị
về.” Tôi đứng dậy.
“Thôi khỏi cần,”
chị từ chối. “Dạo này chị quen về nhà muộn rồi.”
“Chị qua đây lúc
nào cũng được,” tôi nói với Jom khi chị chào mẹ rồi chui vào taxi.
“Ừ.” Jom gật đầu
rồi vẫy chào tôi.
Tôi nhìn taxi đi
khuất, rồi chậm rãi trở vào quán.
“Nat!” Mẹ gọi
tôi khi thấy tôi chực đi lên gác. “Đó là con gái của ông Withoon đúng không?”
“Vâng,” tôi mệt
mỏi trả lời, nhưng hình như mẹ chưa hỏi xong.
“Có tin đồn là
ông Withoon rước một ca sĩ hộp đêm về nhà và ả làm loạn ở đó. Jom có nói gì với
con không?”
“Không,” tôi cộc
cằn đáp. “Con lên nhà làm bài được không?”
“Muốn làm gì thì
làm,” mẹ đanh giọng. “Lúc nào mẹ muốn nói chuyện với mày mà mày chả bận. Mày
vừa ngồi buôn với bạn hàng tiếng đồng hồ đấy, thế sao lúc ấy không lo chuyện
bài vở?”
Tôi thở sâu, tự
thấy xấu hổ, lẳng lặng lẩn lên phòng.
Cuối tháng đó,
Jom bỗng du học ở Anh. Có mỗi chú Maen với tôi đi tiễn chị.
Jom ôm chặt tôi
và cứ khóc mãi.
“Đừng quên viết
thư, nhé?” Tôi quệt nước mắt cho chị.
Chị gật đầu.
Nhưng cuối cùng, tôi chẳng nhận được một lá thư nào của chị.
Chương 18
Thời gian trôi,
không gì có thể níu giữ nó lại hay khiến bước chân nó chậm rãi hơn. Mùa đến rồi
qua theo nhịp điệu cũ kỹ như một bài hát không có hồi kết, từ cái oi bức mùa
nóng sang ẩm thấp mùa mưa rồi tới cái giá rét mùa lạnh rồi lại quay về oi bức.
Tôi thường cố tìm lời giải đáp cho ý nghĩa của cuộc sống này và ứa lệ khi nhận
ra sự thật đau đớn rằng tất cả chúng ta đều đang tiến thẳng tới cái chết.
Tôi vẫn nhớ có
một lần, khi đang học lớp mười hai, tôi cảm thấy quá cô đơn đến nỗi giam mình
trong phòng, vặn loa to hết cỡ bài hard rock “Đường về cõi chết” và lần lượt
nhai từng viên thuốc giảm đau.
“Đêm tối tăm phủ kín bầu trời
Về tổ nghỉ ngơi những cánh chim rã rời
Bao kẻ khổ nghèo rúc lần vào ổ rách
Run rẩy trong cô độc hoang vu
Chúng ta đang trên đường về cõi chết
Chúng ta đang trên đường về cõi chết
Đàn ông đàn bà chủ nhân hay nô lệ
Ngày qua ngày chúng ta thèm khát
Kiếm tìm hư ảo
Mù quáng chán nản vô vọng
Thế giới này đâu phải là bất diệt
Mà cả đời người cứ vật lộn mãi không thôi.”
Tôi nuốt không
biết bao nhiêu là thuốc và nghĩ rằng mình sẽ chết ngay đêm đó, một đêm lạnh
thấu xương và cô độc tuyệt đối khi tôi nhận ra rằng mình không bao giờ có thể
mở mắt dậy vào sáng hôm sau và vĩnh viễn chìm trong bóng tối đặc quánh ở một
nơi tôi chẳng biết ai và cũng không ai biết mình – một nơi không có bố, không
có mẹ, không có Ning, không có Eik, không có Chai, không có Jom, không có Porm,
không có một người nào hết. Tôi chưa từng tin vào thiên đường, địa ngục, hay
đầu thai. Tôi chỉ nghĩ về cái chết như một thế giới không có ánh sáng hay màu
sắc, một thế giới của bóng tối thăm thẳm và lạnh giá. Đối với tôi, cái chết
không có gì đáng sợ.
Nhưng, sáng hôm
sau tôi vẫn thức dậy, uể oải đến mức hai mí mắt khó lòng mở nổi, lảo đảo vô
cùng và bị những cơn co thắt ở dạ dày cùng cảm giác buồn nôn hành hạ. “Đường về
cõi chết” vẫn bật. Lọ thuốc giảm đau đã lăn xuống sàn và tệ hơn cả, tôi vẫn
đang thở.
Những cây kèn
hồng lại chớm trổ bông và gió lạnh từ nơi xa đang thổi về. Ngày xưa, mấy đứa
chúng tôi sung sướng khi thấy kèn hồng đơm hoa trên đường tới trường, vì nó báo
hiệu kỳ thi cuối năm học sắp đến, và sau đó, chúng tôi sẽ có vài ngày trong đời
không cần vướng bận về nội quy trường lớp, được nghỉ học mà thỏa sức vui chơi.
Vào ngày đầu
tiên của kỳ thi, Porm từng chỉ cho tôi những bông kèn hồng đầu tiên. “Mình
không thể chờ được tới lúc chúng nở rộ,” trong đầu tôi vang lên tiếng lẩm bẩm
của nó. “Mình đã đợi cả năm cho đến hết năm học, nhưng khi những cây hoa kia nở
rộ, cả nhóm mình sẽ lại ở đây bên nhau.”
Tôi thả bước bên
những thân cây cao lớn, lòng buồn bã. Hoa kèn hồng thả rơi những cánh mỏng tang
như lời chào hay đúng hơn là những giọt lệ tiễn biệt. Đây là năm cuối cùng tôi
còn đi trên con đường này. Tôi không thể không dõi nhìn những cô cậu học trò
lớp dưới vừa đi vừa bá vai bá cổ nhau và cười rộ lên vui vẻ. Có vài đứa dừng
chân, nhặt cành cây khều hoa cho bạn. Nhưng chẳng mấy chốc sẽ đến cái ngày mà
chúng cũng sẽ cúi đầu vội vã rảo bước mà không dám ngẩng đầu lên nhìn hoa, như
tôi lúc này.
“Làm sao thế,
Béo? Trông cậu như mất sổ gạo vậy.” Eik đuổi kịp vỗ vai tôi. Bao năm trôi qua
đã biến nó từ một thằng nhóc da bọc xương thành một thanh niên cao lớn cường
tráng.
“Vậy cậu đã
quyết định vào trường nào chưa?” Chai tập tễnh nhập hội. Lúc nhỏ, nhờ yêu thể
dục thể thao, ở Chai đã hứa hẹn một vóc dáng khỏe mạnh rắn chắc, đủ tiêu chuẩn
vào trường dự bị quân đội, nhưng dạo này trông nó gầy như xác ve.
“Mỹ thuật,” tôi
trả lời và nhìn bọn bạn dò hỏi.
“Mình sẽ học
Kiến trúc,” Eik mỉm cười.
“Mình vẫn chưa
nghĩ ra cái gì.” Chai thở dài. “Chắc mình sẽ thử trường Ram [1].”
[1] Đại học Ramkham, là một trường đại học
dân lập ở Bangkok, không cần thi đầu vào hay bắt buộc dự giảng.
“Có ai nghe tin
gì về Porm không?” Tôi hỏi lơ đãng.
“Tháng trước
mình gặp nó,” Chai đáp. “Nó bảo sẽ vào khoa Luật ở Thammasart.”
“Nó sẽ làm luật
lệ lanh tanh bành ra cho coi.” Eik lắc đầu. “Mình nghĩ nó học Nông nghiệp hợp
hơn, chuyên giết mổ lợn với bò.”
“Các cậu không
gặp nó bao lâu rồi?” Chai hồ nghi hỏi.
“Cũng lâu rồi
đấy. Thực ra là mấy tháng rồi.” Eik gật gù cố nhớ lại.
“Với mình còn
lâu hơn,” tôi lẩm bẩm. Lần nào nói chuyện về Porm, tôi cũng không khỏi cảm thấy
tức giận và đau lòng bởi những gì xảy đến với Ning. Tôi đổ lỗi tất cả cho Porm
và vẫn chưa tha thứ cho nó dù nó đã làm mọi thứ có thể để chuyện trò lại bình
thường.
“Jom từ Anh về
rồi đấy, các cậu biết không,” Chai đột ngột đổi chủ đề. “Trông nóng bỏng lắm.”
“Thật hả?” Tôi
vồn vã.
“Mình nói dối
cậu làm gì? Nếu mình nói dối thì cứ cho sét đánh Eik đi!”
“Cậu nên đến
thăm chị ấy đi,” Eik nói khẽ. Ánh mắt nó đầy thấu hiểu.
Tôi vẫn lặng
thinh nhìn cái bóng mỗi lúc một đổ dài của tòa nhà nơi Jom từng cùng tập đàn.
Chiều đã muộn
lắm rồi khi tôi thẫn thờ đi qua căng tin nơi Porm từng ngồi đợi ba đứa chúng
tôi sau giờ học và đi về phía lớp nhạc, trong lòng cô độc và rối rắm.
Thầy Wa-thin vẫn
còn trong lớp. Tất cả cửa sổ đều đã khép, chỉ còn cửa chính hé mở. Tôi tới ngồi
một chiếc ghế trong góc. Thầy Wa-thin hạ cây vĩ cầm và liếc nhìn tôi trước khi
kéo cây vĩ qua dây đàn, tiếp tục chơi bàn “Cây bồ đề buông mành” như thể tôi
không có mặt ở đó.
Nhà của Jom đã
thay đổi so với vài năm trước. Phần lớn trong tình trạng xuống cấp trông thấy
do thiếu sự quan tâm, chăm sóc. Dầu vậy, có một nhân tố mới: một ngôi nhà nhỏ
xinh xắn mọc lên ở nơi từng là một thảm cỏ xanh tốt.
“Cậu cao quá
rồi!” Jom lùi lại nhìn tôi từ đầu đến chân. “Trông này, cậu cao hơn chị bao
nhiêu.”
“Chị cũng khác.”
Tôi ngồi xuống chòi nghỉ trước hiên nhà chính.
“Sao? Trông chị
kỳ cục lắm à?” Jom hỏi và cười giòn. “Thời gian trôi vù vù phải không? Chị vẫn
nhớ ngày cậu ra tiễn chị ở sân bay. Chị ôm cậu khóc lóc ghê lắm, chắc tất cả
mọi người đều tưởng cậu là bạn trai chị.”
Tôi bỗng cảm
thấy giật thót trong lòng bèn vội vã nhìn đi chỗ khác. “Vậy chị học xong rồi
à?” Tôi đổi chủ đề.
“Chưa đâu.” Chị
lắc đầu. “Chị về thăm mẹ.”
“Bác ấy thế nào
rồi ạ?” Tôi đưa tay với ly nước.
“Vẫn như hồi
trước thôi.” U sầu dâng lên trong đôi mắt chị. “Chị không biết mẹ còn có thể
tiếp tục chịu đựng như thế này bao lâu.”
“Thế còn bố
chị?” Tôi khẽ hỏi.
Jom ngẩng đầu
nhìn thẳng về phía ngôi nhà nhỏ, không nói một lời, nhưng ánh mắt lóe lên khắc
nghiệt.
“Em sắp thi hết
năm,” tôi chuyển chủ đề, cảm thấy chị không muốn mình tọc mạch vào những chuyện
riêng tư. “Và thi đại học nữa.”
“Nhanh thật
đấy!” Jom đưa tôi đĩa bim bim. “Thế mà chị có cảm giác như cậu vẫn là một cậu
nhóc bé tí ấy.”
“Đoán xem em
đăng ký vào trường nào,” tôi nhón một miếng bim bim giữ trong tay.
Jom im lặng một
chốc rồi bật ngón tay tách một cái khi nghĩ ra, “Sinlaparkorn, đúng không?”
“Chị giỏi thật,”
tôi khen. “Làm sao chị biết?”
“À, cậu lúc nào
chả muốn thành họa sĩ.” Jom cười khe khẽ. “Nghĩ đến cảnh một kẻ to béo như cậu
ở giữa những linh hồn đói khát kể cũng hơi kỳ cục nhỉ?”
Tôi bật cười lén
nhìn chị. Trông chị quả thật quyến rũ như Chai nói, nhưng, ẩn dưới vẻ ngoài và
dáng điệu kia, vẫn chất chứa nỗi u sầu tột cùng thủa trước.

