Chai thời gian - Chương 21 - 22
Chương 21
Tôi không biết
vì sao mình lại thích đến đây mỗi lúc buồn và cô đơn. Có thể là tôi đã trở nên
thân quen với nơi này hơn bất kỳ nơi nào khác, từ cái thời khắc mà tôi không
chịu đựng nổi mái nhà của mình nữa và bắt đầu lang thang sau giờ học, đến khi
Porm, Chai, Eik và tôi học năm cuối và Ning bắt đầu đi theo.
Những ngày đó
tôi vẫn ở cùng bố, nhưng tôi không hề đề nghị đưa Ning đến gặp bố cũng như nó
không hề rủ tôi đi gặp mẹ. Chúng tôi cố gắng bù đắp lại vực sâu ngăn cách ấy
bằng những tiếng cười miễn cưỡng và những cuộc tán gẫu mệt mỏi. Porm, tôi còn
nhớ, đã hao tâm tổn sức cố khiến cả hai anh em vui lên cho dù lúc ấy nó chưa hề
biết chuyện tổ ấm của chúng tôi đã rạn vỡ ngoài khả năng hàn gắn. Có những hôm
nó rủ tôi, Ning và Chai đi ngắm áp phích bên ngoài rạp chiếu phim hoặc chỉ là
đi dạo lang thang. Mỗi khi có chút tiền, chúng tôi lại vào quán nước gọi một
cốc cà phê, đôi khi hai cốc, thay nhau nhấp từng ngụm dè sẻn và cứ thế ngồi
chuyện phiếm hàng giờ.
Những ngày ấu
dường như chỉ vừa mới đây thôi. Tôi còn nhớ cái Porm cục mịch đã nổi đóa mà hét
tướng lên thế nào mỗi khi Chai không ngừng trêu chọc nó, còn Eik thì đứng nhón
chân, hai tay đút túi quần, ngật ngưỡng say mê theo dõi trận khẩu chiến, thỉnh
thoảng chém vào vài từ khiêu khích Porm. Tới khi nhận ra mình không phải là đối
thủ của cậu bạn, mặt Porm đỏ như gấc. Nó đưa tay lên vò đầu bứt tai tức tối,
thỉnh thoảng tự đấm mạnh vào lòng bàn tay mình. Những lúc ấy Chai ngẩng cao
đầu, môi dưới trề ra thành một nụ cười chiến thắng ranh mãnh. Nhưng khi đến
lượt mình yếu thế, cậu chàng sẽ lập tức tập tễnh quay đi, bỏ lại Porm phùng môi
trợn má cười nhạo sau lưng.
Ánh nắng chói
chang phản chiếu trên các ô kính làm tôi phải quay mặt đi. “Cậu sẽ nghĩ tới
mình chứ?” Tiếng Porm vọng lại xa xăm. Tôi tiếp tục lang thang quanh khu mua
sắm. Các cửa hàng rục rịch mở cửa và người đông dần trên phố, tăng thêm sắc màu
và âm thanh cho buổi sáng Chủ nhật trễ nải.
Tôi dừng trước
một cửa hàng quần áo nữ. Người bán hàng đang bận cả đống quần áo lên mình ma nơ
canh sau ô kính thoáng ngẩng đầu lên nhìn tôi rồi lại tiếp tục làm việc. Tôi vô
tình đánh mắt ra phía sau cô ta và sung sướng không ngờ khi thấy Jom đang lựa
quần áo may sẵn! Tôi chực ào vào trong chào chị nhưng có điều gì đó giữ tôi lại
và tôi cứ đứng đó lặng lẽ quan sát chị.
Jom bận áo ba lỗ
đỏ và váy xám. Mỗi khi chị cử động, mái tóc đẹp lại tung bay đầy gợi cảm. Đây
là lần đầu tiên tôi cảm thấy rụt rè khi nghĩ đến việc tiến lại gần chị. Chị đã
không còn là cô nhỏ ngày nào có thể bá vai bá cổ mà đi lang thang với một thằng
con trai.
Chị chọn một
chiếc áo sơ mi, gỡ nó khỏi móc treo ướm lên ngực. Chị quay bên này, bên kia
trước gương một lát rồi đưa nó cho cô bán hàng, mở túi xách trên vai lấy ít
tiền ra.
Tôi chờ chị ra
khỏi cửa hàng bằng cửa bên, tay cầm túi giầy rồi bắt đầu đi theo chị từ xa. Chị
ra vào nhiều cửa hàng, mua đủ thứ đồ như thể muốn tiêu cho hết tiền hoặc để bù
đắp điều gì đó chứ không hẳn nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm. Tôi nghĩ tới những
hôm chúng tôi ngồi uống cà phê đá trong quán cóc, nhấm nháp những chiếc kẹo lạc
giá nửa bạt và thả vào máy hát tự động hết xu này đến xu khác để nghe duy nhất
bài hát mà cả hai cùng ưa thích ấy. Dù không ai trong hai người có cuộc sống
hoàn hảo, chúng tôi đã có thể chung nhau một niềm hạnh phúc chỉ với chừng ấy
thứ. Nhưng giờ khi chúng tôi đã lớn hơn và phần nào đầy đủ hơn, chúng tôi lại trôi
theo hai cuộc đời khác biệt, thân ai nấy lo. Bất giác, tôi tự hỏi rằng có thật
tiền bạc mua được thanh nhàn và hạnh phúc.
Tôi chưa từng kể
cho chị, và chị chắc cũng sẽ không bao giờ biết, rằng có một người đã theo bóng
chị suốt Chủ nhật hôm đấy. Dù đã bao tháng ngày trôi qua, tôi vẫn còn mường
tượng ra rõ mồn một hình bóng chị bước đi đầy quả quyết với mớ túi càng lúc
càng to, như một kẻ lang thang không nhà. Tôi vẫn nhớ cái cách chị ngồi, hai
tay nhét vào túi váy, chân duỗi ra, dựa vào lưng ghế, vừa nhấp nước cam vừa lơ
đãng trông theo người qua đường. Tôi không biết chị đang tìm ai trong đám người
ấy – có thể là ai đó để nói chuyện, ai đó để cười và khóc cùng, hay bất kỳ ai
có thể biến chị trở lại như một đứa trẻ, ai đó mà chị có thể cuộn mình vào lòng
và không bao giờ buông tay.
Tôi nghĩ tới một
buổi triển lãm thương mại thế giới tổ chức cách đây vài năm và tối hôm ấy tôi
đã âm thầm đi theo một cô gái vòng quanh hội chợ. Cô khác với tất cả mọi người
ở đó, giữa biển sắc màu sặc sỡ, mình cô mặc đồ đen. Tôi nhớ cô tết tóc đuôi
sam. Tôi không nói chuyện với cô, cũng không nhìn rõ mặt, chúng tôi chia tay
nhau trong câm lặng và hoàn toàn xa lạ. Vậy mà, bằng cách nào đó, cô gái mặc đồ
đen ấy vẫn in đậm trong tâm trí tôi. Có lẽ vì cô ấy là người con gái đầu tiên
tôi chú ý đến trong đám đông hôm đó – cũng là đầu tiên trong đời.
Mẹ ngồi ở quầy
thanh toán với bộ mặt dài cả thước khi tôi về đến nhà tối Chủ nhật ấy. “Bố mày
đang nằm viện,” bà cáu kỉnh.
“Sao lại thế ạ?”
Tôi sửng sốt hỏi.
“Tại vì đống
rượu lão nốc suốt ngày chứ còn sao nữa,” mẹ tuôn một tràng. “Sao con kia không
ngăn lão tránh xa thứ đó chứ? Đáng đời lão! Tao cũng chẳng ngạc nhiên nếu con
đó tiếp tay xúi bẩy lão, và giờ thì ra nông nỗi này đây.”
“Bố đang ở bệnh
viện nào ạ?”
“Trung ương.”
“Con đến thăm bố
đây.” Tôi nhìn bà dò hỏi.
“Tùy mày.” Mẹ
quay mặt đi. “Nhưng bảy rưỡi mày phải có mặt ở bến xe buýt rồi. Mày xếp hết đồ
chưa?”
“Con sẽ đi luôn
thế này.” Tôi nhìn xuống người mình. “Mẹ không định đi thăm bố luôn à?”
“Làm thế thì đẹp
mặt cho tao lắm hả!” Mẹ đáp, giọng mỗi lúc một căng.
Tôi cắn chặt môi
không nói lời nào nữa.
“Nat! Chờ đã…”
mẹ gọi khi thấy tôi chực ra cửa.
“Cầm lấy, phòng
khi lão muốn mày mua cho cái gì.”
Bố nằm trên
giường bệnh, một túi dung dịch nhỏ từng giọt qua dây truyền vào cánh tay ông.
Khi tôi đến, bố vẫn đang ngủ, Waeo ngồi gà gật bên giường ông.
Khu chữa bệnh
cho người nghèo toát ra một cảm giác tuyệt vọng khó tả. Bệnh nhân nào cũng như
đã từ bỏ mọi hy vọng sống. Mùi ẩm mốc của căn phòng cộng với mùi thuốc và mồ
hôi nồng nặc như bóp nghẹt mũi tôi, tiếng rên khe khẽ của vài bệnh nhân bất
giác khiến tôi bồn chồn.
Tôi đứng đó nhìn
bố. Ông gầy rộc đi thấy rõ, hai má hõm lại, hố mắt sâu hoắm và mái tóc rối bù
xù bạc trắng thành từng vệt. Đây là người đàn ông kiêu kỳ theo đuổi sự hoàn hảo
trong mọi mặt mà chúng tôi từng biết ư? Người anh hùng mà Ning và tôi đã gìn
giữ trong trái tim suốt cuộc đời ư? Nói thẳng toẹt ra, ông chỉ là một người đàn
ông bình thường, chẳng khác biệt gì với những người đàn ông khác đang nằm trong
cùng phòng bệnh hoặc qua lại trên phố ngoài kia.
“Nat,” Waeo ngái
ngủ nói. “Cháu đến từ bao giờ thế?”
“Thôi, thôi, cô
cứ ngồi đó đi ạ,” tôi nói khi thấy cô định đứng dậy nhường ghế cho tôi. “Bố
cháu thế nào rồi ạ?”
“Ông ấy lên cơn
co giật nên phải đưa vào bệnh viện gấp,” cô đáp, giọng run rẩy. “Bác sĩ cho ông
ấy một liều an thần rồi. Chiều nay ông ấy mới tỉnh một chút. Vừa mở mắt ông ấy
đã đòi gặp cháu và Ning. Cô gọi tới nhà hàng nhưng cả hai cháu đều không ở đó.”
“Bác sĩ nói thế
nào ạ?” Tôi vừa hỏi vừa vươn tay khẽ chạm vào bắp tay bố, nhận ra rằng cơ bắp ở
đó đã nhão chứ không còn săn chắc như tôi nhớ hồi nhỏ, và lạnh lẽo, khác hẳn
hơi ấm của ông khi ôm tôi nhiều năm trước.
“Bác sĩ muốn ông
ấy bỏ rượu,” Waeo buồn nản trả lời.
“Bố phải nằm đây
bao lâu ạ?”
“Cô sợ ít nhất
cũng phải một vài tuần.” Trông Waeo đầy lo lắng.
“Cháu và Ning sẽ
thường xuyên đến thăm bố, cháu hứa.” Tôi nhìn cô. “Cô có cần gì không?”
“Không,” cô lập
tức đáp. “Chỉ cần ông ấy được thấy hai cháu thường xuyên là đã quá đủ rồi.”
Tôi nhìn lại cô.
Đôi mắt cô chiếu thẳng vào mắt tôi với một quyết tâm trầm lặng, và chính tôi
phải nhìn tránh đi chỗ khác. Tôi biết rõ bố. Ông không phải kiểu người có thể
tiết kiệm. Có bất cứ thứ gì, ông đều ném vào việc ăn ngon và hưởng thụ. Nhưng
giờ đây bố đã thất nghiệp khá lâu, Waeo đang phải chi trả mọi thứ mà không có
thu nhập, và chắc chắn với lần nhập viện này cô đang phải đối mặt với những
khoản chi cao chót vót.
“Nhưng…” tôi
phản đối một cách yếu ớt.
“Cô biết cháu
đang nghĩ gì,” Waeo nói, giọng cô căng thẳng. “Nhưng đừng lo chuyện đó. Bổn
phận của cô là phải chăm sóc ông ấy hết khả năng mình. Kể cả nếu cô có phải
chia thân mình thành từng mảnh hay bán trọn, cô cũng sẵn sàng.”
Chiếc xe buýt
đường dài lắp máy lạnh rời bến, chậm chạp bò dọc theo các dãy nhà san sát của
Bangkok ra vùng ngoại ô rồi ngoặt sang phía Nam tiến về Hart Yai xa xôi. Tôi
nhìn qua cửa kính ra bóng tối ngoài kia còn mẹ thì ngồi yên, trân trối nhìn
thẳng phía trước. Tôi không biết bà đang nghĩ gì nhưng băn khoăn không biết bà
định làm gì. “Mẹ,” tôi nhẹ giọng nói, “Sao mấy mẹ con mình không thể cứ sống
với nhau như hồi trước?”
Mẹ lặng thinh,
tiếp tục nhìn thẳng về phía trước.
“Mẹ…”
“Nghe này, Nat,”
mẹ nói mà không quay ra nhìn tôi. “Người đàn ông đó… ông Amorn ấy… là của tao,
và tao sẽ không bao giờ cho bất kỳ ai chiếm mất cái gì của tao nữa, bất kể thế
nào.”
“Nhưng ông ấy
từng thuộc về một người khác trước mẹ. Thậm chí mẹ còn không có quyền nghĩ đến
chuyện cướp ông ấy khỏi gia đình họ.”
“Thế tại sao
người khác lại được làm thế với tao?” Bà cao giọng. “Đã ai nghĩ đến chuyện đó
chưa? Cho dù thế nào chăng nữa, tao sẽ không đời nào từ bỏ ông ấy.”
Tôi không biết
nói sao, không thể phân định xem liệu ai đúng ai sai trong chuyện này.
Chương 22
Tôi nhớ chúng
tôi đã đến Hart Yai vào một ngày mưa tầm tã. Từ bến xe buýt, chúng tôi đi trên
một chiếc xe ba bánh giữa cơn mưa như trút nước đến khách sạn đặt trước. Bầu
trời sầm sì, gió thổi mạnh. Những tấm ni lông trong suốt mà người lái xe kéo
xuống che mưa mờ đi vì hơi thở và hơi ấm mà hai mẹ con phả ra khi chúng tôi
ngồi khom lưng mình phía sau xe. Lúc lúc, gió thổi bạt tấm ni lông lên, hắt mưa
ướt đẫm người. Chúng tôi không nhìn thấy gì ngoài kia. Chúng tôi chỉ nghe thấy
tiếng mưa rơi, gió giật từng cơn, xen vào đó là tiếng chuông leng keng của
chiếc xe ba bánh. Xe không đi nhanh được, và cảnh ngộ ấy càng khiến chúng tôi
bất an hơn.
Khách sạn thuộc
hạng xoàng, đã khá xuống cấp và chật chội, nhưng nó là một thiên đường tuyệt
vời đối với hai mẹ con khi chúng tôi đến nơi. Người hầu phòng vừa ra khỏi cửa,
tôi lập tức lao vào phòng tắm để tắm rửa và gội đầu, để mặc mẹ lầm bầm một mình
phía sau. Khi tôi bước ra, bà đang nói chuyện điện thoại. Dựa vào giọng điệu
thận trọng và xã giao của bà, tôi đoán người bà đang nói chuyện hẳn phải là vợ
của bác Amorn.
Quá chán ngán và
bực mình không muốn dính líu sâu hơn vào việc này, tôi lẻn ra khỏi phòng, đi
xuống cầu thang rồi vào quán cà phê ở tầng trệt. Mưa vẫn rơi, nhưng khi tôi
nhìn xuyên qua màn mưa ra con phố bên ngoài, khung cảnh ấy lại trở nên đẹp đẽ lạ
kỳ làm sao! Mọi người đứng trú mưa dưới mái che, người sốt ruột vì thời gian
trôi đi mà mưa vẫn không hề có dấu hiệu ngớt, người thì im lặng thu mình. Nhũng
cánh cửa gỗ của dãy nhà kiểu cổ phía bên kia con phố đóng chặt, và tôi lờ mờ
thấy một mảnh giấy màu đỏ ghi chi chít chữ Hán được dán trên mỗi cánh cửa. Một
ông già người Tàu đội nón lá rộng bước ra từ màn mưa để thông ống cống bị rác
bịt kín trước cửa nhà. Nom ông xông xáo và làm việc một cách sốt sắng như thể
đó là việc quan trọng nhất đời vậy.
Khi tôi trở về
phòng, mẹ đang chải tóc trước một cái gương mờ.
“Đi với tao,
Nat,” mẹ nói mà không quay ra nhìn tôi.
“Đi đâu ạ?” Tôi
vừa hỏi vừa ngồi xuống mép giường.
“Nhà bác Amorn.”
“Mẹ,” tôi mất
hết kiên nhẫn kêu lên. “Giờ chúng ta đã không còn biết trốn vào đâu nữa rồi,
đừng để họ tát vào mặt chúng ta thêm nữa!”
“Cái gì đến sẽ
phải đến.” Mẹ đập mạnh cái lược xuống bàn trang điểm. “Nếu tao không giành lại
được ông ấy, tao sẽ không về Bangkok.”
“Sao mẹ lại phải
làm tất cả những việc này chú?” Tôi cao giọng mà không hề hay biết. “Để làm cái
gì?”
Bà im lặng. Một
lúc lâu sau, bà quay ra nhìn thẳng vào tôi. Ánh mắt bà chứa đựng tất cả những
gì bà muốn nói.
“Thôi được rồi.”
Tôi giơ hai tay lên thở dài. “Mẹ muốn làm gì thì làm, mẹ ạ, nếu mẹ nghĩ bác
Amorn quan trọng đến thế.”
Cơn mưa vừa tạnh
thì chúng tôi lại rời khách sạn trên chiếc xe ba bánh. Tôi không ngừng nhìn
trộm mẹ. Bà ngồi cắn môi trong yên lặng, lúc thì ngắm ngợi ủ ê như thể bà đang
chật vật cố gắng đối phó với rối loạn nào đó trong nội tâm, lúc làm ra vẻ chực
bỏ cuộc, nhưng rồi bà lại rướn cằm, thẳng lưng lên và để chiếc xe ba bánh đưa
chúng tôi tới điểm đến cuối cùng.
Nhà bác Amorn ở
Hart Yai là một cửa hàng kiêm nhà ở hai tầng, tầng dưới là tiệm vàng, nằm đối
diện một chợ bán đồ tươi sống. Tên cửa hàng được viết bằng tiếng Trung, tôi
không nhớ lắm. Cái tôi nhớ là một tủ kính lớn nằm song song với con phố, chứa
đầy các món trang sức vàng thi nhau tỏa sáng dưới ánh đèn nê-ông của tiệm. Nó
khiến nơi đây trông giống kho chứa hay bảo tàng hơn là cửa hàng. Vợ bác Amorn
ngồi đằng sau kho báu đấy. Bà ta trương lên như một tảng thịt lợn trên thớt ở
chợ. Trông bà ta có cái vẻ của một người Trung Quốc đã sống trọn đời giữa những
người Trung Quốc. Bà ta đánh phấn trắng toát, kẻ lông mày, tô son đậm, nom
giống cái mặt nạ kịch Kabuki.
Tôi cũng nhớ cả
chiếc áo ren màu xanh nõn chuối và những món vàng, trang sức lấp lánh bắt mắt
khắp người bà ta.
Vợ bác Amorn
miễn cưỡng đáp lại cái cúi chào lịch sự của mẹ tôi trong khi những người làm
thuê ngồi cạnh bà ta trừng trừng nhìn chúng tôi với con mắt độc địa, không thèm
giấu giếm sự khinh bỉ.
“Tôi đến để gặp
ông Amorn,” mẹ nói sau một thoáng đứng đó chịu đựng ánh nhìn của họ.
“Ông ấy không có
ở đây,” vợ bác Amorn nhấm nhẳng.
“Nóng lòng quá,
đến mức phải lao xuống dưới này, hả?” Một người làm thuê ngồi cạnh vợ bác Amorn
châm biếm và lắc lư đầu.
“Tôi nghĩ chúng
ta đã trao đổi rõ ràng qua điện thoại,” mẹ lạnh lẽo tiếp tục, thây kệ đám hỗn
tạp kia.
“Nhưng ông ấy
không ở đây,” bà kia né đòn, cao giọng lên.
“Nhanh! Nhanh
lên! Đến xem con mụ mất nết đòi cướp chồng người khác kìa.”
“Mẹ…” Tôi chạm
vào tay bà.
“Cái thứ đàn bà
mặt dày không biết xấu hổ!” Những lời nhận xét cay độc cùng với những tiếng la
ó, giễu cợt bắt đầu thu hút sự chú ý của người qua đường, họ dừng lại nhìn vẻ
tò mò.
Tôi lùi lại một
bước. Những giọt mưa đọng lại trên mái hiên rơi xuống vỉa hè bắn lên gấu quần
tôi.
Tôi không hiểu
điều gì đã khiến mẹ dần hết lòng kiêu hãnh để tìm đến đây và làm thế nào bà lại
chịu đựng được cách đối xử như vậy. Nếu bà đã xử sự như thế trong quá khứ, biết
đâu chúng tôi đã chẳng phải mất bố.
“Tốt thôi.”
Giọng bà đanh lại. “Nếu chúng ta không thể có một cuộc đối thoại nghiêm túc,
tôi sẽ gọi cảnh sát.”
Hai tiếng “cảnh
sát” như có phép màu: đám người kia lập tức im miệng.
“Để làm gì?” Bà
Kabuki hỏi sau một khoảng im lặng choáng váng. “Tôi chả làm điều gì sai cả.”
“Ông Amorn là
chồng của tôi,” mẹ nhấn mạnh. “Chúng tôi đã kết hôn hợp pháp.”
“Tôi cũng là vợ
ông ấy,” vợ bác Amorn run run đáp. “Chúng tôi đã sống cùng nhau hơn mười năm.
Hỏi bất kỳ ai mà xem. Tất cả mọi người đều biết.”
“Nhưng, căn cứ
theo pháp luật, tôi là vợ duy nhất của ông ấy.”
“Ây dà! Bà nói
thứ rác rưởi gì thế!”
“Tôi sẽ về khách
sạn chờ ông ấy ở đó.” Mẹ ném ra tối hậu thư của mình. “Bà phải bảo ông Amorn
đến gặp tôi hôm nay, không thì đừng hòng gặp lại ông ấy nữa.”
Cả hai chúng tôi
đều im lặng trên đường trở về khách sạn trên chiếc xe ba bánh. Tôi không đoán
được mẹ đang nghĩ gì. Quá nhiều thứ đã xảy ra trong khoảng thời gian quá ngắn,
và tất cả những thứ ấy đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý chúng tôi. Suốt
quãng đường, tôi cố gắng nhớ lại một người phụ nữ khác tôi từng biết trong thời
thơ ấu – người phụ nữ dịu dàng, điềm tĩnh, người đã mòn mỏi đợi chờ một người
đàn ông; người phụ nữ mỗi buổi chiều tà đã đưa tôi và Ning ra ngồi ngoài hiên
nhà và cứ chậm rãi, trìu mến chải tóc mãi cho Ning, nhưng ánh mắt không một
khắc nào rời bến đò ngoài kia. Có những hôm, chúng tôi ngồi cùng nhau như vậy
đến khi những con đom đóm xung quanh cây lamphu ở mé nước bắt đầu lập lòe và
bầy muỗi vo ve bên tai. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết người phụ nữ đó chờ
đợi gì những hôm ấy. Có thể chỉ là đợi một người đàn ông – bất kỳ người đàn ông
nào – mà bà có thể cảm thấy mình thuộc về.
Mẹ và tôi chia
tay nhau ở chân cầu thang. Bà lên trên gác đi thẳng vào phòng còn tôi ra ngoài
đi dạo. Cả thị trấn lại thức dậy sau mấy tiếng đồng hồ say ngủ trong màn mưa.
Người xe qua lại tấp nập. Tiếng rao hàng huyên náo hòa lẫn cùng những tiếng la
hét nóng nảy và tiếng nhạc uỳnh uỳnh phát ra từ cửa hàng băng đĩa phía bên kia
đường.
Tôi đi bộ đến
một quán cà phê nhỏ bên đường lọt thỏm giữa một dãy cửa hàng hiện đại. Tôi khẽ
thả mình xuống một chiếc ghế gỗ ba chân rồi bảo bà lão người Hoa đang tập tễnh
đến gần cho tôi cốc cà phê đá. Chiếc bàn đá hoa khập khiễng với những vệt nứt ố
màu cà phê gợi nhắc tôi đến nhà hàng của người đầu bếp già ở Bang Rak – một chỗ
cho người già với không khí xưa cũ. Chiếc quạt trần than vãn và rên rỉ như muốn
gợi cầu lòng thương cảm cho những năm tháng lao động dài dằng dặc và quần quật
của nó. Tôi đứng dậy hỏi xin bà lão một chiếc túi giấy, rồi bắt đầu dùng bút bi
vẽ phác quán hàng trên phần giấy còn trống. Tôi khá vừa lòng với bức ký họa ấy,
sau này tôi đã vẽ lại ở khổ lớn hơn thành bức tranh sơn dầu đầu tiên của mình
và đặt tên là “Mưa rơi ở Hart Yai”, phỏng theo “Mưa không bao giờ rơi ở Nam
California”, một bài hát nổi tiếng thời bấy giờ.
Chiều dần trôi
khi tôi quay về khách sạn. Tôi thong thả lên phòng chực gõ cửa thì tiếng ồn ào
vọng ra từ phòng ngăn tôi lại.
“Anh biết em đã
chờ anh… em đã chờ anh suốt bấy lâu nay mà.”
“Anh biết…”
Giọng người đàn ông có vẻ không thoải mái. “Nhưng em muốn anh phải làm gì?
Chẳng lẽ một vợ ở đây, một vợ ở kia?”
“Sao anh không
quyết một lần cho xong hẳn đi?”
“Anh không thể
làm gì được bây giờ… còn bọn trẻ, còn những người quanh anh nữa.”
“Em đã nói với
anh rằng em không ghét bỏ con anh. Anh yêu Nat và Ning như thể chúng là con anh
vậy. Thế thì sao em không thể yêu con anh như thể chúng là con em?... Và nếu
anh đã tự tin với lựa chọn của mình thì sao anh lại phải quan tâm đến những gì
người khác nói?... Amorn, cuộc đời ngắn ngủi lắm. Sao anh lại phải đặt số phận
của anh vào tay kẻ khác và để mình chết đi mà vẫn không có được thứ mình
muốn?... Em đã chịu đựng cảnh ngộ của em ngay từ đầu, nhưng sau khi gặp lại
người đàn bà đó, em biết em không thể chịu đựng hơn nữa. Em hiểu anh hơn người
đàn bà đó. Em biết anh muốn gì. Em biết phải làm làm gì để anh vui và thoải
mái… anh có thể muốn có mọi thứ trong đời, và có thể một ngày nào đó anh sẽ có
mọi thứ, nhưng anh không thể chia sẻ mọi thứ với tất cả mọi người. Không có
nhiều người anh có thể cười hay khóc cùng đến thế đâu. Vậy khi, sao không thể
để em làm người đó?”
“Anh yêu em… anh
yêu em nhiều lắm.”
“Em cũng yêu
anh. Em chưa bao giờ yêu ai nhiều như thế bao giờ.”
“Cho anh thời gian,
được không?”
“…”
“Em có hiểu anh
nói gì không?”
“…”
Tôi im lặng rời
khỏi cửa quay lại xuống cầu thang, cảm thấy quá đỗi cô đơn. Ngoài kia, bầu trời
tối đen, vậy mà dường như, vẫn không thể u tối bằng tâm trạng tôi lúc này.

